Quyển thứ tư
(Gồm 15 nước)
Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh quyển thứ
51, thuộc Sử Truyện bộ thứ 3,
từ trang 867 đến trang
948, gồm 12 quyển,
do Ngài Huyền Trang
đời nhà Đường dịch
Ngài Biện Cơ soạn lại.
Sa Môn Thích Như Điển
dịch từ tiếng Hán sang
tiếng Việt
quyển nầy dịch từ ngày
11 tháng 11 năm 2003
tại Tu Viện Đa Bảo, Úc
Đại Lợi
trong mùa nhập thất
với sự trợ dịch của
Tỳ Kheo Thích Đồng Văn
Tỳ Kheo Thích Hạnh
Giới.
Thứ tự kinh văn số
2087.
1.
Nước Trách Ca
2.
Nước Chí Na Bộc Đệ
3. Nước Quật
Lang Đạt La
4. Nước Quật
Lộ Đa
5.
Nước Thiết La Đồ Lô
6.
Nước Ba Lý Dạ Đản La
7.
Nước Chư Khắc La
8.
Nước Tát Tha
Ni
Tất Phạt La
9.
Nước Tốt Lục Khuyến Na
10.
Nước Chư Đệ Bổ La
11.
Nước Bàng La Hấp Ma Phổ La
12.
Nước Cù Tỳ Sương Na
13.
Nước Ác Ê Chế Đản La
14.
Nước Tỳ La Sắc Na
15.
Nước Kiếp Thử Tha.
Nước
Trách Ca chu vi hơn vạn dặm, phía Đông giáp với sông Tỳ Phấn Xa. Phía Tây
giáp với sông Tín Độ. Đô thành rộng hơn 20 dặm, chuyên nghề trồng lúa, có
nhiều lúa mạch. nơi đây cũng có nhiều vàng, bạc, chì, đá, đồng, thiếc
v.v... . Khí hậu rất nóng và có nhiều gió. Phong tục bạo tàn; lời nói thô
bỉ. Y phục thường dùng màu trắng, kiêu xa, lộng lẫy. Không tin Phật Pháp,
tin vào nhiều vị thần khác nhau. Có 10 ngôi Già Lam, trong khi đó đền thờ
hơn 100 ngôi. Nơi nước nầy có nhiều chỗ bố thí cho người nghèo, họ cho
thưốc men, hoặc cho đồ ăn. Cho nên những kẻ lữ hành qua đây cảm thấy ít
mệt mõi vì có ăn và có mặc. Thành lớn phía tây nam, cách 14.5 dặm đến
thành Xa Yết La Cố. Tuy thành quách đã hư hoại nhưng nền móng vẫn còn chắc
chắn, chu vi hơn 20 dặm. Trong đó, xây thêm một thành nhỏ chu vi 6.7 dặm.
Những người ở trong thành nầy rất giàu có và họ là những người ở nước
phía bắc đến, mà cách đây 100 năm, nước nầy có vị Vua tên là Ma Ê La Cự
La.
Thành
nầy do một vị Vua người Ấn, có tài trí và tánh tình rất cương trực trị vì,
nhưng những nước láng giềng chưa thần phục. Đời sống dư dả chuyên học tập
Phật Pháp. Vua sắc lệnh chư Tăng phải suy tôn một vị phạm hạnh, nhưng chư
tăng chưa chấp thuận, vì họ sống theo hạnh xả ly nên không cần tuân lệnh.
Những bậc cao minh học rộng thuộc dòng họ Thích oai nghiêm khi nghe đàm
luận về vấn đề đó liền ưng thuận.
Nhà
vua bảo :
Ta
cũng kính Phật Pháp cho nên muốn tìm danh tăng, trong các ngươi ai có thể
làm điều nầy để cùng đàm luận với ta chăng. Biết đâu trong tăng đoàn ấy có
kẻ hiền minh cùng sánh vai với ta. Người đó sẽ được tôn kính. Lệnh nầy đã
được ban ra trong năm xứ Ấn Độ. Tiếp theo Phật Pháp bị hoại diệt tăng lữ
chẳng có người nào kế vị.
Nước
Ma Yết Đa có Vua Bà La A Dật đã sùng kính Phật Pháp và yêu thương dân
chúng. nhưng đại tộc của Vua lâm vào cảnh dâm loạn tự giữ phần mình không
theo lệnh các viên chức. Lúc bấy giờ các tướng lãnh ở dưới trướng trị vì
của Vua, biết rằng lúc nhỏ vua nghe lời các vị quan, còn bây giờ không cần
biết đến chỉ lo chiến tranh. Làm như thế không nghĩ rằng có tội, mà ngay
cả bản thân cũng như cây cỏ cũng bị ảnh hưởng lây. Nói xong đi ra khỏi
cung, đi sâu vào trong rừng mà trong nước ấy có hơn vạn người đi theo tận
nơi hải đảo. Đại tộc của nhà Vua cùng với binh lính ra biển thảo phạt. Nhà
vua thấy sự nguy hiểm nầy, không sợ nguy hiểm liền ra nghinh chiến. Trống
vàng một tiếng nổi lên. Binh lính bốn bề sáp nhau, bắt sống Đại Tộc, không
cho người tiếp cứu. Đại Tộc của Vua tự xấu hổ mất luôn đường về. Ai nấy
đều long đong. Nhà Vua ngồi trên toà Sư Tử bốn bên có quần thần hộ vệ, lại
ra lệnh cho đại thần nói với Đại Tộc rằng:
- Nhà
ngươi đã lộ diện muốn ta xa rời vương vị phải không?
Đại
Tộc thưa:
- Lên
Ngôi thì dễ nhưng gặp oán thù cũng không khó. Nếu mà không có sự liên hệ
thì làm sao đối mặt với nhau để nói chuyện.
Nói đi
nói lại ba lần như thế nhưng vẫn không nghe theo. Những lời ra lệnh như
thế rất nhiều và tội nầy đã được biết. Tam Bảo là phước điền, là chỗ nương
tựa của bốn loài. Chớ đem tâm lang sói mà hủy hoại nghiệp lớn. Phước chẳng
phải do thần giúp mà nhà ngươi có thể lấy được sanh mạng của ta. Tội chẳng
có thể xá, bỏ điều nghi mà tạo nên hình phạt được. Khi ấy mẹ của Vua Ấu
Nhựt nghe được và ý thức việc thiện, nên khi nghe việc sát hại Đại Tộc
liền bảo cho Vua Ấu Nhựt rằng:
- Ta
thường nghe Đại Tộc đem lợi ích cho người có trí tuệ.
Do vậy
Vua Ấu Nhựt nên ra lệnh Đại Tộc đến cung của Mẫu Hậu.
Mẫu
Hậu nói:
- Than
ôi! Đại Tộc! Ông không xấu hổ sao! Thế gian vô thường sự vinh nhục là điều
thường thấy. Ta là mẹ của ông, nếu ông nhớ tình mẹ con, phải nên theo lời
mà thường thăm nom.
Đại
Tộc thưa rằng:
- Ngày
xưa giết Vua cướp nước. Bây giờ làm kẻ tù nhân. Vương nghiệp phế bỏ. Tông
miếu không còn. Trên xấu hổ tiên linh. Dưới thẹn với bá tánh. Mặt mũi nào
để nhìn lên và cúi xuống nữa. Chẳng thể tự sát sao?
Vương
Mẫu nói:
- Hưng
phế tuỳ thời. Tồn vong hữu vận (việc thịnh suy theo thời gian, Sự mất còn
theo vận mệnh). Lấy tâm để cứu người tức là được việc đừng quên vấn đề ấy,
đừng lấy vật để cứu tâm. Lấy tâm mà cứu vật mà được mất đều quên, còn lấy
vật mà cứu tâm thì buồn vui lại hiện. Hãy nên tin theo Nghiệp Báo và theo
thời gian thay đổi đừng nên nương vào lời nói và sự tồn tại của thân nầy.
Đại Tộc cảm tạ rồi thưa :
Há vì
bất tài đã cùng Vua dựng nền hành chánh của nước, nhưng nay nước đã mất,
đế nghiệp suy tàn. Tuy ở trong cuộc đời tục luỵ mà tham đắm cuộc sống ngắn
ngủi. Nay thì biết rồi việc đã tạo xin cảm tạ thâm ân. Bây giờ sẽ nương
vào đó để mà hành xử.
Mẫu
hậu nói :
- Con
ta vì tự ái nên sống chết đến cùng, rồi bảo với Ấu Nhựt rằng: Điển tích
trước đã đủ sự huấn dụ cho quá khứ mà nên sống một nếp sống tốt đẹp. Nay
Đại Tộc của Vua chỉ làm toàn việc ác và chỉ có phước đức mới không cùng
tận. Nếu giết hại những người nầy, sau 12 năm sẽ nhận báo ứng, phải có
lòng trung với đất nước mới là Vua của một nước. Phải biết đất nước phương
bắc kia mà nghe lệnh ta đừng vì sự oán thù mà làm cho mất Vua mất nước.Ta
là người đàn bà đang chờ cái lễ nghĩa ấy. Tất cả các binh lính cùng những
người hộ vệ hãy nên rút ra khỏi biển và Vua em của Đại Tộc hãy trở lại
nước của mình. Đại Tộc mất ngôi chỉ còn lại rừng núi nên đi đánh nước phía
bắc là Ca Thấp Di La. Vua nước Ca Thấp Di La là người trọng lễ nghĩa,
thương người mất nước phong cho thái ấp. Thời gian trôi qua, lại đốc suất
dân trong thái ấp khởi lên giết Vua Ca Thấp Di La mà tự xưng Vương. Thừa
việc chiến thắng nầy, mà ra oai với nước phía Tây là Kiền Đa La. Đem binh
lính chinh phạt sát hại Vua nước nầy. Đại thần, dân chúng đều chết oan
uổng. Đốt phá chùa tháp cho đến 1600 cơ sở. Binh lính giết dân chúng ở
ngoài thành nhiều vô kể. Tất cả đều bị tàn sát chẳng kể loài nào. Lúc bấy
giờ có người tiến đến và can gián nhà Vua rằng :
Sự uy
hiếp của Đại Vương rất mạnh mẽ. Binh lính chẳng ai giao tiếp nổi. Giết hết
những kẻ ác và người dân thế nào cũng nguyện lấy thân nầy chết thay cho
họ.
Vua
nói:
- Nhà
ngươi tin Phật Pháp, làm việc phước đức, mong được thành Phật, thường nói
về sự sống. Ngươi muốn dạy đời, nói việc ác của ta cho đời sau sao. Nay ta
bảo cho ngươi biết không được từ chối. Hãy đem ba ức người kia (?) nhận
chìm xuống sông Tín Độ. Ba ức người đó bị chìm xuống rồi, phân thân trở
thành ba ức binh sĩ và trở về lại nước của mình bị mất. Sau đó tìm lại nơi
mình bị chết để làm mưa làm gió. Trời đất kinh hoàng nổi cơn sóng gió. Lúc
đó, quả nhân mới thương mà than rằng giết oan mọi người không tiếc, làm
cho Phật Pháp bị diệt vong nên phải đoạ vào địa ngục Vô gián lưu chuyển
không cùng.
Cổ
Thành của nước Xá Yết La, bên giữa có một ngôi Già Lam, Tăng tín đồ hơn
100 người. Họ học theo giáo pháp Tiểu Thừa. Bồ Tát Thế Thân ngày xưa đã ở
đây soạn Thắng Nghĩa Đế Luận. Tại đây có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước.
Trong quá khứ có bốn vị Phật thuyết pháp ở đây và cũng có di tích của bốn
vị Phật kinh hành nơi đây. Cách phía tây bắc của Già Lam khoảng năm dặm
sáu, lại có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước, do Vua Asoka dựng nên để ghi
lại nơi đây là nơi mà bốn đức Phật trong quá khứ đã thuyết pháp. Phía đông
bắc của hoàng thành đi hơn 10 dặm đến một Bảo Tháp bằng đá cao hơn 200 mét
cũng do Vua Asoka xây dựng. Đây là nơi ghi lại dấu tích của đức Như Lai
qua phương bắc để hoằng hóa trên đường dừng lại nơi đây. Theo truyền ký Ấn
Độ chép rằng trong Bảo Tháp ấy có lưu Xá Lợi, phát ra ánh sáng vào giờ
Ngọ. Từ phía đông đi khoảng năm trăm dặm đến nước Na Bộc Đệ.
Nước
Na Bộc Đệ chu vi hơn hai ngàn dặm. Kinh Đô chu vi mười bốn dặm năm. Họ
trồng lúa hoa quả cùng những cây ăn trái khác. Nghề nghiệp của nước nầy
rất phong phú, khí hậu ôn hòa, phong tục yếu kém. Học Đời Học Đạo đều có,
nhưng tin Tà chánh lẫn lộn. Có hơn 10 ngôi Già Lam và 8 ngôi Đền Thờ.
Ngày
xưa Vua Ca Nị Sắc Ca đã tuần du đến nơi đây vì nghe nước bên cạnh lớn mạnh
và có những phong tục đặc thù. Làm sao mà phía tây lại có uy thế như vậy.
Cho nên Vua Ca Nị Sắc Ca thường gặp những điều may. Ngày đêm bên nhà đều
có binh lính canh gác. Nhà Vua đã ở lại nước nầy suốt mùa đông. Rồi đến
nơi Na Bộc Đệ Chất Tử ở. Từ đây trở thành tên nước. Đất nước nầy cũng theo
kịp Ấn Độ. Đất không có lê, có đào, do đó Chất Tử nói rằng:
Muốn
ăn đào lê thì phải đến nước Na La Phiệt Phất Đản La mới có. Vì nước nầy
người ta tin kính các nước phía đông nên được như thế. Đó là quê hương đất
nước của Vua ta đời trước.
Phía
đông nam đại thành, hơn 500 dặm, đến Chùa Đáp Vị Tô Phạt Na. Tăng Tín Đồ
hơn 300 người, học theo phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Chúng Tăng ở đây
đức hạnh thanh cao, tuy học Tiểu Thừa nhưng nghiên cứu rất rộng rãi. Trong
hiền kiếp có 1000 vị Phật ở đây, tập họp Trời Người lại giảng sâu về Diệu
Pháp. Đức Như Lai sau khi nhập Niết Bàn 300 năm, có ngài Ca Chiên Diên
luận sư sáng tác Phát Trí Luận tại nơi nầy.
Ở
trong chùa Phiệt Lâm, có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước do Vua A Dục dựng
lên. Nơi đây cũng là nơi mà trong quá khứ có bốn vị Phật đã ngồi, cũng như
đi kinh hành còn lưu lại dấu tích. Nơi tháp nhỏ, có nhiều động đá lớn thứ
tự đối nhau không biết bao nhiêu mà kể. Ở nơi đây, trong kiếp sơ cũng có
nhiều vị đến tu và chứng quả Thánh, còn nhiều hài cốt lưu lại. Cách Già
Lam Nhiễu Sơn 20 dặm, có hơn 100 ngàn ngôi tháp thờ Xá Lợi Phật, liên tục
với nhau. Từ đây qua phía đông bắc đi hơn 145 dặm, đến nước Phiệt Lan Đạt
La.
Nước
Phiệt Lan Đạt La, từ phía đông sang phía tây tám trăm dặm, từ nam ra bắc
hơn 1000 dặm. Chu vi của Đô thành khoảng 12.3 dặm. Dân chúng sống bằng
trồng trọt và cấy lúa. Cây trái hoa quả sum sê. Khí hậu ôn hoà.
Phong tục
cứng cõi. Dung mạo không được đẹp.
Nhà
cửa giàu có. Có hơn 50 ngôi Già Lam và 2000 vị Tăng, theo cả hai trường
phái Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có 3 Đền Thờ của Ngoại Đạo và hơn 500 người
theo. Họ dùng tro bôi khắp người. Tiên Vương của nước nầy sùng kính ngoại
đạo, sau gặp một vị A La Hán và được nghe Pháp, sanh tín tâm. Cho nên
trong nước Ấn Độ cũng thuần tín theo vua mà phụng sự Tam Bảo, gần năm nước
của Ấn Độ. Nhìn chung rất hỗn tạp, tốt xấu khó phân. Vua sắc lệnh chúng
Tăng phải trang nghiêm tinh tấn, đoạn trừ tà niệm, để cho mọi người khởi
tâm cung kính ngưỡng mộ. Vị nào phạm giới bị phạt rất nặng. Ngài trùng tu
tất cả Thánh tích. Hoặc Bảo Tháp, hoặc Chùa Viện khắp trong nước Ấn Độ đều
như vậy. Từ đây đến phía đông bắc qua động Du Tuấn Lãnh, đường bộ rất nguy
hiểm, hơn 700 dặm đến nước Quật Lộ Đa.
Nước
Quật Lộ Đa chu vi hơn 3000 dặm, có núi non bao bọc chung quanh. Đô thành
rộng hơn 14 dặm rưỡi. Đất đai dùng để cày cấy trồng trọt. Hoa quả tốt
tươi. Vì ở gần núi Hy Mã Lạp Sơn cho nên có nhiều dược thảo quý. Nơi đây
sản xuất nhiều vàng, bạc, đồng đỏ, lân tinh, đá hoa cương. Khí hậu lạnh
lẽo, thường có mưa tuyết. Dáng người thô kệch. Tánh tình cương nghị mạnh
mẽ. Có hơn 20 ngôi Già Lam, và hơn 1000 Tăng Tín Đồ, đa phần theo Đại
Thừa. Một số ít tu học theo các bộ phái khác. Có hơn 15 ngôi Đền Thờ ngoại
đạo, lẫn lộn với nhau. Hầu hết những tường Đền Thờ nầy nằm sát núi, có
nhiều phòng đá.
Những
vị A La Hán thường trú nơi đây. Các vị tiên nhân cũng dừng chân đến. Có
một ngôi Bảo Tháp tại Trung Tâm do Vua A Dục xây dựng. Ngày xưa, Như Lai
cũng đã từng đến nước nầy thuyết pháp độ sanh. Vẫn còn để lại di tích. Từ
đây đi về hướng bắc bằng đường bộ hơn 1890 dặm, vượt qua đèo núi hiểm trở
đến được nước Lạt Hộ La. Đi về phía bắc hơn 2000 dặm nữa, dọc đường gió
lạnh tuyết bay không thể tránh được đến nước Vị La Sa.
Từ
nước Quật Lộ đã đi về phía nam hơn 700 dặm, vượt qua núi lớn cùng sông to,
đến nước Thiết Đa Đồ Lô.
Nước
Thiết Đa Đồ Lô có chu vi hơn 2000 dặm. Phía tây giáp với sông lớn. Chu vi
của Đô Thành 17.8 dặm. Dân chúng sống bằng nghề trồng lúa. Hoa quả tốt
tươi. Có nhiều vàng bạc, ngọc trai. Dân chúng ăn mặc phức tạp. Khí hậu
nóng, phong tục thuần hoà. Tánh tình của người trên làm việc thiện, người
dưới giúp đỡ mọi người. Thuần tín Phật Pháp, tín nguỡng cung kính. Có mười
ngôi Già Lam ở chung quanh kinh thành, nhưng vườn tược hoang phế chẳng có
bóng dáng một vị Tăng nào cả. Cách thành phía đông nam ba dặm tư, có một
ngôi Bảo Tháp cao hơn 200 thước, do Vua A Dục kiến tạo nên. Bên cạnh đó
còn có di tích bốn vị Phật quá khứ ngồi và đi kinh hành. Lại từ đây đi
sang phía tây nam hơn 800 dặm, đến nước Ba Lý Dạ Đản La.
Nước
Ba Lý Dạ Đản La chu vi hơn 3000 dặm. Vương thành 14.5 dặm. Dân chúng sống
bằng nghề canh nông, giàu có lúa mạch. Có những loại lúa chỉ trong 60 ngày
là thu hoạch được. Nhiều bò và dê, ít hoa quả. Khí hậu nóng nực, phong tục
đặc biệt. Họ chẳng thích học nghề, lại cung kính ngoại đạo, thuộc dòng Phệ
Xá. Tánh tình hung bạo. Có 8 ngôi Già Lam, hư nát quá nhiều. Tăng đồ cũng
ít, lại học theo phái Tiểu Thừa. Có 10 ngôi đền thờ, và hơn ngàn người
ngoại đạo. Từ đây đi về hướng đông hơn 500 dặm, đến nước Vị Thố La.
Nước
Vị Thố La chu vi hơn 5000 dặm. Chu vi của Đô Thành hơn 20 dặm. Đất đai
dùng để trồng trọt là chính. Nhiều nhà trồng xoài thành rừng. Tuy cùng là
xoài nhưng có hai loại. Loại nhỏ màu xanh, chín biến thành màu vàng. Loại
lớn trước sau vẫn là màu xanh. Nơi đây sản xuất lông thú và vàng bạc. Khí
hậu nóng, gió nhiều. Phong tục lành mạnh. Dân chúng siêng tu phước, sùng
kính bậc phạm hạnh và ham học. Có hơn 20 ngôi Già Lam và hơn 2000 tăng sĩ,
tu theo cả hai trường phái Tiểu thừa và Đại thừa. Có 5 ngôi Đền thờ của
Ngoại Đạo sống rất tạp nhạp. Có ba Bảo Tháp đều do Vua Asoka kiến lập. Nơi
đây còn rất nhiều di tích của bốn vị Phật trong quá khứ. Xá lợi của chư vị
Thánh đệ tử của Phật còn lưu giữ tại tháp nầy. Có tháp thờ quý Ngài Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên, Mãn Từ Tử (Punna-Phú Lâu Na), Đa La Ni Tử, Ưu Ba Li,
A Nan Đà, La Hầu La, Mạn Thù Thất Lợi, (Văn Thù Sư Lợi) và Tháp thờ chư vị
Bồ Tát v.v... . Mỗi năm chư tăng có ba tháng an cư, và hằng tháng có sáu
ngày trai. Họ sách tấn nhau tu học rất tốt. Tín Đồ mang đồ cúng đầy đủ,
hầu hết từ những nhà buôn. Tuỳ theo chùa chiền trang nghiêm mà tạo nên
những tôn tượng đẹp. Ai tu theo A Tỳ Đạt Ma thì cúng dường ngài Xá Lợi
Phất, ai tu theo thiền định thì cúng dường ngài Mục Kiền Liên. Ai trì tụng
kinh điển thì cúng dường ngài Mãn Từ Tử. Ai tu theo Luật thì thờ ngài Ưu
Ba Ly. Còn những vị Tỳ Kheo Ni cúng dường ngài A Nan. Những ai chưa thọ cụ
túc thì thờ ngài La Hầu La. Những ai học Đại Thừa thì thờ cúng chư vị Bồ
Tát hằng ngày. Các Bảo Tháp cũng được cúng dường tràng phan, bảo cái,
linh, lọng, hương hoa, đều rải như mưa. Ngày đêm chấn động không cùng.
Quốc Vương đại thần lấy việc tu thiện làm chính. Từ thành phía đông đi hơn
6 dặm rưỡi đến một chùa trong núi, lấy vách đá làm phòng, lấy hang làm
cửa. Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta-Cận Hộ) đã xây dựng chùa nầy, trong đó
có Bảo Tháp thờ móng tay của đức Như Lai.
Có một
ngôi Già Lam ở phía bắc nằm trong núi có nhiều phòng bằng đá cao hơn 20
thước, chiều dài hơn 30 thước. Cứ bốn tấc có một tấm thẻ làm dấu nơi ngài
Ưu Ba Cúc Đa đã thuyết pháp và hoá độ một đôi vợ chồng. Họ đã chứng quả A
La Hán. Cứ cách một thẻ, thì có những phòng khác biệt có cắm cờ mà không
ghi gì cả.
Từ
phòng bằng đá ở phía đông nam cách hơn 24 dặm rưỡi, có một hồ lớn. Bên
cạnh hồ có một Bảo Tháp, ngày xưa tại đây đức Như Lai đi kinh hành. Lúc
bấy giờ có một con khỉ mang mật ong đến cúng Phật. Phật nhận mật ong, đem
hoà vào nước cho chung Đại Chúng. Con khỉ ấy rất vui mừng nhảy lên chết
tức khắc. Nhờ phước nầy mà tái sanh làm người.
Phía
bắc của ao nầy không xa, có một rừng rậm. Bốn vị Phật ở quá khứ cũng lưu
lại dấu tích trong khi đi kinh hành ở đây. Nơi đây cũng là nơi nhập định
của Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên cùng với 1250 vị Đại A Lán. Có
một Bảo Tháp ghi lại tất cả những di tích ấy. Đức Như Lai khi còn tại thế
đã đến đây để thuyết Pháp và lưu lại trong rừng cây nầy. Từ đây đi về
hướng đông bắc hơn 500 dặm, đến nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La.
Nước
Tát Tha Nễ Thấp Phạt La chu vi hơn 7000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm.
Đất đai nơi đây dùng để cấy lúa. Khí hậu ôn hoà, phong tục còn nguyên sơ.
Nhà cửa phòng ốc cao sang, trang trí thật là xa hoa. Con người thích sống
an nhàn dùng ảo thuật để biến hoá. Làm việc ít nhưng thu lợi nhiều, bởi vì
hàng hoá đa phần từ các quốc gia khác mang tới. Có ba ngôi Già Lam và hơn
700 Tăng Tín Đồ, hầu hết theo Tiểu Thừa Phật Giáo. Có hơn 100 ngôi đền thờ
Ngoại Đạo. Dân chúng đa phần theo ngoại đạo. Chu vi Thành lớn hơn 200 dặm.
Đây là đất lành. Nghe những bậc cổ đức cho biết rằng ngày xưa ở Ấn Độ có
năm nước chia cho hai vua cai trị. Hai bên chiến tranh nhưng không phân
thắng bại. Cả hai bên đều có âm mưu muốn chiếm đoạt bằng vũ lực. Muốn
chinh phục thiên hạ mà quên đi phong tục cho nên người dân oán hờn không
tuân theo mệnh lệnh của Vua. Còn Vua vì dân chúng mà khó toan tính như ban
đầu. Thần có thể ở nơi động vật và quyền bính có thể ở nơi lập công.
Lúc
bấy giờ, có một Phạm Chí trí dũng tài cao, mật sai cho bó lúa rồi bảo đem
vào sân sau, làm những thư pháp để tàng chứa trong động núi. Năm tháng
trôi qua cây đã cong héo. Nhà vua một hôm vào buổi sáng khi ngồi bảo cho
các quần thần biết rằng:
- Ta
bây giờ không còn đức độ để ở địa vị nầy nên trời đã báo mộng và sắc chiếu
thư đang giấu trong núi. Nay hạ lệnh vào trong núi tìm kiếm thư ấy. Các
quan phải báo cho dân chúng biết. Ngoài ra cũng nên cho mọi người xa gần
biết được đại ý rằng:
- Phàm
biển sanh tử không có bờ bến, còn sự trôi nổi thì lại không cùng. Bất luận
loài nào, người nào cũng không phải tự nhiên mà sanh. Nay ta muốn gửi mệnh
lệnh nầy để được lìa xa các khổ ải.
-
Vương thành nầy phải xây dựng cách đây 200 dặm, chính tiên đế cũng đã tiên
đoán nơi đó là đất tạo ra phước đức.
Dù có ghi lại
nhưng thời gian đã hủy diệt. Sanh linh không biết nên chìm đắm trong biển
khổ. Thế mà chẳng cầu cứu thì làm sao được ư.
- Các ngươi biết
rằng những loài hàm thức gặp nạn binh đao mà chết sanh lại làm người. Giết
nhiều không tội mà còn nhận được phước báo của trời. Thuận cho con cháu
giữ gìn kinh điển quí báu ngày xưa để đem đến đất này tạo nên phước đức vô
cùng.
Công ít mà phước thì nhiều, có gì gọi là thất lợi.
- Một
khi mất thân nầy, đọa vào ba đường khổ, làm sao các loài hàm linh có thể
tu hành được, mà những người nầy đều là những chiến binh, đã thấy việc
chết rồi quay trở về.
Vua ra
lệnh chiêu mộ các bậc dũng sĩ cả hai nước đều giao chiến. Hai bên chiến
đấu người chết như rạ. Cho đến bây giờ, mới thật sợ hãi mà xương cốt đã
chất cao, nên nước có tục lệ tương truyền rằng đó là phước địa.
Thành
phía Tây bắc cách bốn dặm rưỡi, có một Bảo Tháp cao hơn 400 thước do Vua A
Dục xây. Tháp có màu vàng màu đỏ, chiếu ra ánh sáng thanh tịnh, trong đó
có Xá Lợi của Như Lai khoảng một đấu, thỉnh thoảng phát ra ánh sáng rực
rỡ.
Thành
phía Nam đi hơn 100 dặm, đến Chùa Cụ Hôn Trà đứng trơ trọi. Chùa Viện nằm
san sát nhau nhưng trơ trọi. Tăng chúng rất thanh tịnh, uy nghiêm và nhàn
nhã. Từ phía đông bắc nầy đi hơn 400 dặm đến nước Tốt Lục Cần Na.
Nước
Tốt Lục Cần Na chu vi sáu ngàn dặm. Phía đông giáp sông Hằng. Phía bắc
giáp núi cao và giữa có sông Các Mâu Na. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm, Phía
đông sông Các Mâu Na, phần nhiều còn hoang vu ít ai đặt chân đến. Đất đai
phong thổ tốt tươi như nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La. Tánh tình dân chúng
thuần hậu chất phác. Họ tin theo Ngoại Đạo, tu Phước và Huệ. Có năm ngôi
Già Lam và hơn 1000 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Tiểu Thừa thuộc Tiểu Tập Du
Bộ. Thường nghiên cứu huyền nghĩa của Luận và tìm cầu so sánh với những
luận khác. Có hơn 100 ngôi đền nhưng ngoại đạo rất đông. Thành lớn ở phía
đông của sông Cát Mâu Na, có một ngôi Bảo Tháp do vua A Dục dựng. Ngày xưa
Như Lai đã từng trú ở đây để thuyết pháp độ sanh. Có một ngôi Bảo Tháp
nữa, trong đó có thờ tóc và móng tay của Như Lai. Cũng có những tháp nhỏ,
thờ tóc và móng tay của ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên và ngài La
Hầu La, chung quanh có hơn mười ngôi như thế.
Sau
khi đức Như Lai diệt độ rồi, nước nầy vì ngoại đạo lầm lẫn nên bị quở
phạt. Họ tin theo tà pháp tổn hại chánh kiến. Hiện tại có năm ngôi Già
Lam, nơi mà các luận sư nước ngoài tranh luận cùng ngoại đạo Bà La Môn. Từ
phía đông của sông Cát Mâu Na đi hơn 800 dặm nữa, đến sông Hằng. Bình
nguyên của sông rộng ba dặm tư. Phía đông nam chảy vào biển rộng hơn 10
dặm. Nước màu lóng lánh chảy xiết, nhiều quái vật nhưng không hại. Nơi đây
đất cát rất đẹp. Tục lệ ở đây ghi lại rằng đó là nước của Phước Đức. Cho
nên ai có tội xuống tắm thì sẽ hết tội. Khi dầm mình xuống đó, tái sanh về
cõi Phạm Thiên. Hài cốt người chết nhúng xuống nước sông nầy, hương hồn
không bị đoạ vào Ác Thú. Sóng nước đưa thần thức đầu thai. Lúc ấy ở nước
Chấp Sư Tử (Tích Lan hiện nay), có Bồ Tát Đề Bà thâm chứng về thật tướng
của các pháp tánh, buồn thương cho những kẻ ngu muội đã đến đây bị ngoại
đạo dụ dỗ, bảo đàn bà và thiếu nữ tập họp lại thành đoàn từ nơi bờ sông
làm cho nổi sóng nước. Bồ Tát Đề Bà dùng ánh sáng kéo đầu họ lại cho nên
ngoại đạo bảo rằng:
- Ta
khác họ cái gì?
Bồ Tát
đáp:
- Cha
mẹ tôi và thân tộc đang ở tại nước Chấp Sư Tử sợ khổ não đói khát cho nên
mới đi xa.
Ngoại
Đạo nói:
- Ta
có gì sai đâu? chưa hề quên đi việc làm đấy. Đất nước của Ta có sông rộng
có núi cao tạo nên nước nầy chung quy để cứu mọi người khỏi đói khổ. Đến
nơi nầy để tìm cầu như trước. Chẳng nghe như thế sao?
Bồ Tát
Đề Bà đáp:
- Làm
sao nước sông và núi kia cứu được tội lỗi chất chồng?
Thời
bấy giờ ngoại đạo nghe xong cảm tạ cúi đầu thuận quy Chánh Pháp. Sau khi
hối cải, nguyện phụng trì Chánh Pháp. Sau khi qua sông ở bờ phía đông đến
nước Châu Đệ Bổ La.
Nước
Châu Đệ Bổ La chu vi 6000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Dân chúng
chuyên về trồng lúa mạch, có nhiều hoa quả. Khí hậu ôn hoà. Gió mưa đều
đặn. Họ tôn sùng học thuật, tin sâu tà chú. Cả chánh lẫn tà họ tin như
nhau. Nhà Vua thuộc dòng Tuất Đạt La chẳng hề tin kính Phật Pháp mà tin
Phạm Thiên. Có mười ngôi Già Lam, và hơn 800 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Đại
Thừa Giáo của Bộ Phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Có hơn 50 ngôi đền thờ,
ngoại đạo sống tạp nhạp với nhau.
Thành
lớn phía nam đi hơn bốn dặm rưỡi, đến một Già Lam nhỏ. Có hơn 50 Tăng Sĩ.
Ngày xưa luận sư Cù Noa Bác Tà Bà (Đức Quang) cũng ở tại nầy soạn ra Bàng
Chơn Đẳng Luận. Trong hơn một trăm bộ phái, luận sư thuộc phái Tiểu Thừa
nhưng là người thông minh, tài giỏi, mẫn tiệp, học nhiều, hiểu rộng và còn
uyên bác cả Giáo Lý Đại Thừa nữa. Vì đọc Tỳ Bà Sa, nên Ngài tu theo Tiểu
Thừa và sáng tác hơn mười bộ luận, trở thành người chấp trước Tiểu thừa,
phản đối giáo nghĩa Đại Thừa. Ngài còn soạn hơn mười bộ Tục Thơ. Nhưng
luận chứng của Ngài không bài xích những bậc tiền bối mà tư tưởng Giáo
nghĩa Phật lý rất uyên áo, đến hơn mười thể loại, không thể diễn nói hết.
Ngài còn nghiên tầm những tinh tuý và những nghi vấn đã từ lâu chưa giải
quyết được.
Lúc ấy
vì có Đề Bà Tê Na (Thiên Quân A La Hán) thường lên xuống cõi trời Đâu
Suất, gặp đức Di Lặc để thỉnh hỏi điều nghi, cho nên Ngài cũng dùng thần
lực lên đó, cầu gặp đức Di Lặc. Thấy đức Di Lặc từ xa nhưng ngài không vái
chào. Rồi lại nghĩ rằng đức Bồ Tát Di Lặc sẽ thành Phật, sao mình còn tự
cao chưa đến kính lễ. Mình muốn thọ giáo mà lại không chịu kính phục. Ngài
Đức Quang lại nghĩ rằng Tôn giả thường có những lời nói thành thật làm kim
chỉ nam, nhưng mình là những đệ tử xuất gia đã thọ giới Cụ túc làm Tỳ
Kheo. Còn ngài Bồ Tát Từ Thị hưởng phước lạc của chư thiên nhưng chưa xuất
gia làm tăng lữ. Mình thi lễ e rằng không đúng oai nghi. Bồ Tát biết rõ
tâm ngã mạn của ta, và cũng biết chẳng phải là pháp khí. Lên xuống ba lần
như thế nhưng chẳng giải quyết được gì. Bèn thỉnh ngài Thiên Quân để lễ.
Ngài Thiên Quân biết rằng kẻ kia ngã mạn, nên không đối đáp. Nhưng tâm của
ngài Đức Quang chẳng hề thối lui. Giận khởi lên, ngài vào rừng sâu tu tập
một thời gian chứng được định tuệ, mới biết rằng ngã mạn chưa trừ chẳng
chứng được đạo quả.
Phía
bắc của chùa Đức Quang cách ba dặm tư có một Đại Già Lam, có hơn 200 Tăng
Sĩ. Họ đều học tập theo phái Tiểu Thừa, ở nơi mà Ngài Chúng Hiền (Sangha
Bhadra) luận sư viên tịch. Luận sư là người Ca Thấp Di La, thông minh lanh
lợi từ lúc còn thơ, cho nên đặc biệt nghiên cứu sâu Bộ Luận Tỳ Bà Sa của
Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Khi ấy có Bồ Tát Thế Thân phát tâm xiển dương
giáo điển cho thật minh bạch nên soạn A tỳ đạt ma Câu Xá Luận để phá Luận
Tỳ Ba Sa với ý nghĩa thiện xảo, lý lẽ thanh cao. Bộ Luận nầy làm cho ngài
Chúng Hiền xem qua lưu ý và phát tâm bỏ ra 12 năm nghiên cứu và soạn Câu
Xá Bạt Luận, có 25 ngàn bài tụng và hơn 800 ngàn lời. Ngôn ngữ thâm sâu
cao xa vời vợi. Rồi bảo với môn nhân rằng:
- Ta
đem sức tàn mà soạn ra Chánh Luận nầy, để phản bác tư tưởng của ngài Thế
Thân, không cho lão già đó một mình nêu danh trên diễn đàn.
Vì vậy
ông cho 43 người học trò mang luận văn nầy đi tìm gặp ngài Thế Thân.
Lúc đó
đang ở trong thành Xá Yết La thuộc nước Lân Ca nghe tin đồn ngài Chúng
Hiền sẽ đến tra vấn, ngài Thế Thân chuẩn bị hành trang. Học trò hoài nghi
thưa với Ngài:
- Đại
sư là bậc đức cao, hiền triết nổi danh đương thời, học trò xa gần đều kính
nể phục tài. Mà bây giờ mới nghe tên Ngài Chúng Hiền đã lo lắng như vậy?
Chúng con mạnh lắm.
Ngài Thế Thân
nói:
Ta
không biết tránh tên nầy ở đâu. Nhìn cả nước, không có ai lịch lãm như kẻ
hậu học Chúng Hiền nầy. Nghe nói biện luận rất lưu loát còn ta đã già rồi
không thể luận nữa. Nếu nói một lời sanh ra chấp trước. Nên đưa họ đến
miền trung Ấn Độ đối chất với những vị tăng khác, mới biết đúng sai, được
mất như thế nào.
Một
ngày sau, luận sư Chúng Hiền đến chùa nầy bỗng nhiên thần khí thay đổi.
Mang sách ra để trước mặt và vọng nói tạ lỗi ngài Thế Thân rằng sau khi
Như Lai diệt độ, vì các đệ tử chấp trước bộ phái và truyền lại các môn học
trong phạm vi chuyên môn cho nên có sự khác nhau.
Tuy
cùng gốc nhưng khác ngọn. Con là người ngu chưa rõ cho nên tiếp tục soạn
ra A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận để phá Đại nghĩa của luận sư của Tỳ Bà Sa.
Chẳng lượng sức mình nên đã nhiều năm nghiên cứu và soạn ra luận nầy để
phù trợ cho việc học chánh đáng. Sự hiểu biết thì ít, còn tham vọng thì
nhiều, trong khi cái chết gần kề. Trong khi đó, những gì Bồ Tát tuyên
dương thật chí lý, chẳng chấp vào có được của di văn, là điều hân hạnh lắm
có chết cũng chẳng hối hận.
Các
môn nhân cũng xin từ biệt mà thưa rằng:
-
Chúng con là kẻ hậu học mà khinh chê bậc tiền bối, thì số phận ra sao?
Nay
các người vì ta mang luận nầy và thư nầy đến thay ta sám hối với Bồ Tát.
Họ nhận lãnh xong rồi ra đi với thư ấy. Khi đến nơi ngài Thế Thân ở thưa
rằng:
- Thầy
của chúng con là Chúng Hiền đã xả thọ mạng và có dạy rằng mang thư nầy đến
để tạ lỗi, chẳng bỏ sót tên tuổi mà cũng chẳng quên. Bồ Tát Thế Thân xem
xong luận rồi trầm ngâm một hồi lâu mà nói với môn nhân rằng:
Luận
sư Chúng Hiền là người hậu học nhưng rất thông minh, lý luận tuy chưa đủ
nhưng chữ nghĩa thì có dư. Nay ta muốn bài bác Luận nầy của Chúng Hiền chỉ
rõ cho minh bạch cho đến chết cũng chưa xong. Quả thật là lời rất khó,
huống gì nhân duyên nghĩa lớn còn tồn đọng lại sao. Và huống gì luận nầy
còn làm rõ tông phái của mình cho nên ta chỉ đổi thành Thuận Chánh Lý Luận
là đủ.
Môn nhân mới
thưa rằng:
-Thầy chúng con
là Chúng Hiền mất chưa bao lâu mà đã được Ngài sửa đổi luận nầy, chúng con
rất vui mừng nhận lãnh.
Bồ Tát Thế Thân
vì muốn trừ nghi của chúng, nên nói bài kệ rằng :
Như
Vua Sư Tử
Heo
thấy liền tránh
Hai
lực hơn thua
Người Trí nên biết
Sau
khi thiêu xong, hài cốt của Ngài Chúng Hiền thờ trong Bảo Tháp cách chùa
phía tây bắc hơn 200 dặm trong rừng Ám Một La đến bây giờ vẫn còn tồn tại.
Từ
phía rừng Ám Một La lại có một Bảo Tháp, thờ nhục thân của luận sư Tỳ Mạt
La Mạt Đa La (Vô cấu Hữu Vimalamitra).
Luận
sư là người của nước Ca Thấp Di La. Ngài xuất gia với Bộ phái Thuyết Nhứt
Thiết Hữu Bộ, hiểu rộng các kinh điển và nghiên cứu các luận khác. Ưa qua
năm nước của Ấn Độ để học Tam Tạng giáo điển. Sau khi tu học thành tựu,
Ngài trở về lại quê hương của mình. Trên đường về, ghé Bảo Tháp của Ngài
Chúng Hiền than rằng:
Nguỡng
bạch luận sư, Ngài là bậc thạc đức cao uyên, vì hoằng dương Luận nghĩa, đã
tranh biện với bộ phái khác để giữ tôn chỉ của Bộ Phái mình. Sao ngài
không sống lâu nữa. Con không sợ mất mác nhưng buồn vì chưa học được gì về
những ý nghĩa sai khác để thay thế cho những sự nhớ mong về đức độ. Ngài
Thế Thân tuy mất nhưng Tông của ngài vẫn còn truyền, con đã biết nên đã
chế ra các Luận làm cho những người học trong cõi Thiệm Bộ Châu này dù
theo Đại Thừa không còn nêu tên tuổi của Ngài Thế Thân nữa.
Phát
tâm nguyện, đã dụng hết khả năng mà nói lên lời ấy, liền phát cuồng loạn,
máu từ năm căn tuôn ra, liền biết mạng sống đã hết.
Cho nên trong
thư có lời sám hối rằng:
Phàm là những
ai theo Đại Thừa mà nói về Thuyết cứu cánh của Phật Pháp, khi tên gọi
không còn nữa lý mới đến chỗ thanh cao. Vì ngu muội mà khinh chê bài xích
sự tiến bộ của bậc tiền bối. Khi phước nghiệp đã hết thì thân nầy không
còn nữa. Cho nên mọi người học trong hiện tại, phải biết rằng đừng nên sân
hận mà phát chí cao sang, và chớ nên hoài nghi.
Lúc ấy đại địa
chấn động, thân mệnh liền mất, rơi vào hầm lửa, những người đi chung thiêu
xác và tạo tháp miếu để thờ. Lúc bấy giờ có vị A La Hán thấy Tháp Miếu mà
than rằng:
Thật là khổ thay
thương thay, vị luận sư nầy đã vì sự chấp kiến, có lời nói ác để hủy báng
Đại Thừa mà bị đọa vào Vô gián địa ngục.
Phía tây bắc của
nước nầy có sông Hằng.
Bên
cạnh phía đông có thành Ma Cốt La, chu vi hơn 20 dặm. Những người ở đó
thường hay giao lưu với nhau chặt chẽ. Nơi đây cũng sản xuất những đá thủy
tinh và đồ kim khí tốt. Rời khỏi thành chẳng bao xa, gặp sông Hằng, bên
cạnh đó có một đền thờ rất linh hiển, mà ở trong có một cái hồ có bờ đá
bao quanh, lấy nước từ sông Hằng vào và là cửa ngõ của năm nước Ấn Độ.
Sông nầy tức là sông sanh Phước diệt tội. những người ở xa thường hay đến
đây hơn trăm ngàn người để tắm rửa. Các vị vua có tâm từ thường hay tạo
những ngôi nhà từ thiện để chứa thuốc men, bố thí chu cấp cho những người
cô độc. Từ phía bắc, đi hơn ba trăm dặm, đến nước Bàng La Hấp Ma Phổ Ma.
Nước
Bàng La Hấp Ma Phổ La chu vi hơn 4000 dặm, núi non bao bọc bốn bề. Đô
thành hơn 20 dặm. Người ở đây cũng như nhà cửa rất giàu có. Đất đai dùng
để cày cấy và trồng trọt. Nơi nầy sản xuất đá thủy tinh. Khí hậu ít lạnh,
gió mưa điều hòa.
Phong tục thuần
hậu. Tuy nghề nghiệp nhẹ nhưng nhiều lợi tức. Tánh tình cộc cằn, cả tà lẫn
chánh đều tin. Có năm ngôi Già Lam, nhưng ít Tăng Sĩ. Có hơn mười ngôi đền
thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Biên giới phía bắc giáp núi Hy Mã
Lạp Sơn. Ở trong đó có nước Tô Phạt Sắc Nô Cô Đản La, nơi đây sản xuất
vàng rất nổi tiếng. Đông Tây dài. Nam Bắc hẹp, tức là nước Đông Nữ, chỉ có
những người đàn bà trị quốc cũng như làm Vua. Họ chẳng biết chánh sự là
gì. Còn đàn ông chỉ lo làm ruộng. Đất đai trồng nhiều lúa mạch, có nhiều
gia súc như bò, ngựa. Khí hậu lạnh lẽo. Nhân tình thô bạo. Phía đông giáp
với nước Thố Phan, Phía bắc giáp với nước Vu Điền.
Phía
tây giáp với nước Tam Ba Ha. Từ Vị Đệ Phổ La đi xuống phía Đông Nam hơn
400 dặm gặp nước Cù Tỳ Sương Na.
Nước
Cù Tỳ Sương Na chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 14.5 dặm. Dân cư ở nơi đó
thuần hậu. Chung quanh bao bọc bởi núi cao. Rừng, núi và hồ ao liên tục
với nhau. Khí hậu và đất đai cũng giống như nước Vị Đệ Bổ La. Phong tục
thuần chất, thích học hỏi, ưa làm phước. Đa phần tu theo Ngoại Đạo, cầu
cho hiện tại được an vui. Có hai ngôi Già Lam và hơn 100 Tăng Sĩ, phần lớn
tu theo phái Tiểu Thừa.
Có hơn 30 ngôi
đền thờ. Những ngoại đạo sống chen chúc với nhau.
Có một ngôi Già
Lam ở ngoài thành lớn, trong đó có Bảo Tháp, do Vua A Dục xây dựng nên,
cao hơn hai trăm thước. Như Lai ngày xưa tại đây, mỗi tháng giảng Pháp một
lần.
Bên cạnh đó có di tích của bốn vị Phật quá khứ tọa thiền và
kinh hành. Nơi đây cũng có hai cái Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai,
mỗi tháp cao một trượng. Từ đây đi qua phía đông nam hơn 400 dặm, đến nước
Ác Ê Chế Đản La.
Nước
Ác Ê Chế Đản La chu vi hơn 3000 dặm. Đô thành 17.8 dặm. Nơi nầy hiểm trở.
Họ trồng lúa mạch, có nhiều rừng và suối. Khí hậu ôn hòa. Phong tục thuần
chất, ngoan đạo, ham học, nhiều tài biết rộng. Có mười ngôi Già Lam và hơn
1000 Tăng Sĩ tu theo phái Chánh Lượng Bộ, thuộc Tiểu Thừa. Có 9 ngôi đền
thờ và hơn 300 ngoại đạo. Họ tu theo Tự Tại Thiên và bôi tro vào mình.
Phía
bên ngoài thành, có ao rồng và có một Bảo Tháp, do Vua A Dục xây. Nơi đây
ngày xưa Như Lai đã vì Long Vương mà thuyết Pháp 7 ngày. Cạnh bên đó cũng
có bốn Bảo Tháp nhỏ, chính là nơi bốn vị Phật trong quá khứ tọa thiền và
kinh hành. Từ đây qua phía đông đi hơn 267 dặm, qua sông Hằng, đến nước
Tỳ La Sắc Noa.
Nước
Tỳ La Sắc Noa chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 10 dặm. Khí hậu và phong
thổ giống nước Ác Ê Chế Đản La. Phong tục mạnh mẽ, con người hiểu biết về
nghệ thuật, sùng tín ngoại đạo ít kính tin Phật Pháp. Có hai ngôi Già Lam,
và 300 Tăng Sĩ tu theo phái Đại Thừa. Có năm ngôi đền thờ Ngoại Đạo sống
hỗn tạp với nhau. Trong thành lớn có chùa và có Bảo Tháp, cao hơn 100
thước, do Vua A Dục dựng lên. Như Lai ngày trước ở tại nơi đây thuyết kinh
Uẩn Giới Xứ. Phía nầy lại có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh
hành.
Từ đây
qua hướng đông nam, hơn 200 dặm, đến nước Kiết Tỷ Tha. Nước Kiết Tỷ Tha
chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 20 dặm. Khí hậu đất đai cũng như nước Tỳ
La Sắc Noa. Phong tục thuần hòa, người người ưa học, có nhiều nghệ thuật.
Có bốn ngôi Già Lam và hơn 1000 người tu theo phái Chánh Lượng Bộ thuộc
Tiểu Thừa.
Có 10 đền thờ. Ngoại đạo thờ Đại Tự Tại Thiên sống hỗn tạp
với nhau. Có một ngôi chùa lớn cách thành phía tây hơn 20 dặm, có những
bản kinh khắc rất công phu và tôn tượng các vị Thánh cực kỳ trang nghiêm.
Có hơn 100 Tăng sĩ tu theo Chánh Lượng Bộ và hơn 10 ngàn tịnh nhơn cư trú
nơi đây. Chùa rất lớn, thờ Tam Bảo bên trong và ba bên đông nam bắc đều để
trống. Đây là nơi đức Như Lai từ cõi Tam Thập Tam Thiên trở về. Ngày xưa
đức Như Lai từ rừng Tự Thắng để vào Thiên cung. Ngài ngự nơi Thiện Pháp
Đường thuyết Pháp cho mẹ. Sau ba tháng muốn trở lại trần gian. Nên Thiên
Đế Thích mới dùng thần lực kiến tạo một cái thang báu toàn bằng vàng ròng,
bên trái bằng thủy tinh, bên phải bằng bạc trắng. Đức Như Lai đã từ Thiện
Pháp Đường được chư thiên cung tiễn đến thang lầu. Đại Phạm Vương tay cầm
cây phất trần màu trắng đứng chờ ở đầu thang bên phải của thang lầu. Thiên
Đế Thích cầm bảo cái bằng thủy tinh đứng chờ ở phía bên phải. Thiên chúng
từ hư không rải hoa báu cúng dường và tán thán công đức của Phật. Trăm năm
về trước cũng chưa có ai được, và mãi đến bây giờ cũng không cùng tận.
Vua các nước nhớ
Ngài cho nên ra lệnh làm một trụ đá quý bằng trân bảo, ghi lại thang báu
ngày trước. Trụ nầy cao 70 thước. Bên trên cùng khắc tinh xá, ở giữa khắc
tượng Phật. Hai bên phải trái khắc hình Phạm Thiên Đế Thích để ghi nhớ nơi
hạ thế của đức Phật.
Bên
cạnh đó cũng có một trụ đá do Vua A Dục xây cao hơn 70 thước màu sắc trong
sáng. Phẩm chất chắc chắn. Bên trên có hình đầu Sư Tử hướng đến cầu thang
và khắc những hình tượng khác chung quanh trụ đá nầy. Tùy theo tội phước
của mỗi người mà ảnh của mình hiện lên trên trụ đá đó.
Bên
cạnh trụ đá không xa, có một Bảo Tháp. Nơi đây ghi lại dấu tích của bốn vị
Phật trong quá khứ tọa thiền và kinh hành. nơi Tháp nầy, ngày xưa là nơi
của Như Lai tắm rửa. Tháp cũng là nơi Như Lai thiền định. Bên cạnh Tháp có
một tảng đá rất lớn dài 50 bước, cao 7 thước. Đây là nơi kinh hành của đức
Như Lai, dấu chân của Phật in xuống đó thành hình hoa sen. Hai bên tả hữu
đều có những tháp nhỏ do Đế Thích và Phạm Vương kiến tạo nên. Phía trước
tháp của Phạm Thiên Đế Thích là nơi mà Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc muốn thấy
Phật trước, nên hóa làm Vua chuyển Luân Vương. Khi Như Lai từ Tự Tại Thiên
Cung trở lại Nam Thiệm Bộ Châu. Lúc đó ông Tô Bộ Thị (Thiện Hiện Tu Bồ Đề)
đang ở trong động đá suy nghĩ rằng:
Nay
Phật từ Thiên Cung trở về, nếu đến đó nghe Phật thuyết Pháp thì sẽ biết
được các Pháp Không và Tánh của các Pháp nên dùng Huệ Nhãn để quán Pháp
Thân của Phật. Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc muốn thấy Phật trước nên hóa làm
Chuyển Luân Vương, có binh lính theo hầu bốn bên, trải đường đi bằng bảy
báu, gặp đức Thế Tôn và thưa rằng:
- Con
là Tỳ Kheo Ni.
Lúc ấy
đức Như Lai bảo rằng:
Ngươi
không phải là người đón ta đầu tiên mà kẻ có duyên ấy là người quán về
Pháp Không nên thấy được Pháp Thân ta trước.
Thánh
tích nầy rất linh thiêng và được lưu truyền như thế. Phía đông nam của Bảo
Tháp có một ao rồng được làm nên để bảo vệ thánh tích, nhằm ngăn chận
những ai khinh phạm.
Thời gian năm
tháng tự tàn hoại. Không ai có thể phá được. Từ đây đi về phía đông nam ít
hơn 200 dặm đến nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja).
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển bốn
--- o0o ---
Mục Lục | 1
| 2
|
3
| 4
| 5
|
6
| 7
|
8
|
9
| 10
| 11
| 12
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-3-2005
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục