Ðã mấy năm qua. Từ ngày chứng nghiệm chân lý dưới gốc cây Bồ
Ðề, Ðức Phật Thích Ca đã đặt chân lên nhiều kinh thành, nhiều thôn dã, nhiều đất
nước để truyền bá đạo Từ Bi. Hàng đệ tử của Ngài càng ngày càng đông.
Trên con đường giải thoát cho nhân loại không biên giới ấy, một hôm kia, Ðức
Phật trở về đất nước quê hương, nước Ca Tỳ La Vệ. Ngài thấy nhân loại đáng
thương đang chìm trong sự lôi cuốn của cuộc đời có bà con thân thuộc mình, có...
em Ngài, Hoàng tử Nan Ðà.
Hoàng tử Nan Ðà là em cùng cha khác mẹ với Ðức Phật. Lúc Phật xuất gia, Nan Ðà
còn tấm bé, Nan Ðà chỉ buồn thoang thoảng vì thiếu sự chăm sóc chỉ bảo của một
người anh hiền từ. Thế thôi. Và tuổi trẻ cũng mau quên. Nan Ðà lớn lên trong sự
hầu hạ ân cần cẩn thận của cung vua. Không như anh. Nan Ðà buông theo các thú
vui. Cuộc đời bó hẹp lại, nhỏ dần trước mắt người thanh niên ham mê sắc dục. Nan
Ðà chỉ còn thấy các mỹ nữ trong giọng hát, trong điệu múa, trong những cuộc truy
hoan...
Phật trở về giữa sự vui mừng của dân chúng. Ngài ở Tịnh xá và hàng ngày mang
bình bát đi khất thực và truyền đạo như trong khi Ngài ở các nước khác. Lối sống
bình dị ấy làm mọi người thán phục. Ðời sống của kinh thành xáo trộn. Vàng bạc
không còn là cứu cánh. Lòng thương yêu nhau, thương yêu đến cả các sinh vật được
xem là cao quí. Người ta đã thấy những gì chắc thật của cuộc đời, thú vui chỉ là
mong manh chốc lát.
Nhà vua đã mở nhiều cuộc bố thí, giảm nhẹ thuế má cho dân chúng.
Về phần Nan Ðà, Nan Ðà cũng cảm thấy vui. Những hình ảnh tươi đẹp của những năm
xưa hiện lên. Nhưng trong hai người như có một cái gì khác nhau nhiều lắm, nên
Nan Ðà chưa dám gặp Phật. Nghe những lời ca ngợi về lòng nhân ái, về cuộc sống
bình dị của Ðức Phật, Nan Ðà tự đối chiếu với mình. Và đã có lúc chàng nghiệm
thấy một cái gì mong manh, chóng tàn trong những cuộc vui say, trên nét nhăn mệt
mỏi của những mỹ nữ qua những cuộc múa ca.
Một hôm, Nan Ðà thức dậy sau một giấc ngủ dài mệt mỏi. Mặt trời đã lên cao. Chưa
kịp sửa soạn, chàng đã thấy Ðức Phật đang tiến vào nhà. Phật khoác chiếc y vàng,
tay cầm bình bát, Ngài đi khoan thai như lùa vào đây tất cả những ánh sáng trong
lành của buổi mai.
Phật không khác xưa nhiều lắm, vẫn gương mặt hiền lành nhưng thêm phần sáng
suốt. Tất cả những hình ảnh trên diễn ra trước mắt Nan Ðà đang đứng ngây người
nhìn. Ðức Phật tiến lạI gần, ân cần hỏi han. Lời nói của Ngài dịu dàng làm cho
Nan Ðà nhớ lại những ngày vui vẻ thuở xưa, hồi ấy Nan Ðà nhìn đời một cách đẹp
đẽ. Rồi Ngài nói với Nan Ðà:
- Từ lâu, ta vẫn thấy bên trong ra có phụ hoàng và em. Chính trong mục đích giải
thoát cho loài người rộng lớn và cho những người thân thuộc mà ta thấy được đạo
lý. Ta biết em đang khao khát chân thật. Ta đi trước em, ta đã biết rằng hạnh
phúc chân thật không thể tìm ở đâu khác ánh đạo. Ánh đạo ấy ta đem về cho em
đây.
Nan Ðà im lặng, cảm động. Người đứng trước mình là anh, là thầy, là ân nhân? Nan
Ðà thấy trong người rạo rực một mối tình muốn hướng về đường lành. Chàng cúi
xuống thân mến ôm bàn tay của Ðức Phật đang đưa ra nâng chàng dậy. Ðức Phật âu
yếm:
- Ðường ta đi sáng như sao nhưng khó khắn trở lực không phải là ít. Mà có sự
thành đạt nào không phải mua bằng gian lao, ta đã nghiệm điều đó. Biết em có đủ
trí lực để vượt qua không?
Nan Ðà ngẫm nghĩ rồi nguyện theo Phật. Chàng sửa soạn rất nhanh chóng. Phật đã
tiến ra cửa. Ngài bước đi, Nan Ðà theo Ngài, tuy lòng đang dâng lên một cái gì
âm ấm, trong sáng như ánh nắng và trời đất tươi đẹp bên ngoài. Hai người cùng
tiến về Tịnh xá.
Ðến Tịnh xá, Phật bảo các đệ tử săn sóc cho Nan Ðà. Người ta thay chiếc áo gấm
xanh và khoác cho chàng chiếc áo nâu bằn vải. Người ta dành cho chàng một phòng
rộng ngó ra vườn hoa. Nan Ðà ngồi xuống chiếc ghế mây rồi nhìn ra vườn. Trăm hoa
đang mở rộng tung cánh để đón ánh trời, màu hồng tươi mát của đào. Màu vàng dịu
của mai, màu trắng như tuyết của huệ, nổi bật lên trên màu xanh tươi của lá cây.
Ðây đó một vài đạo sĩ đang ngồi trên các phiến đá trầm tĩnh niệm Pháp. Trong cái
yên lặng, lâu lâu có điểm một tiếng chuông ngân dài. Nan Ðà thấy một sức sống
mạnh mẽ của muôn cây, một sự rạo rực hướng về đạo của con người. Thật là một
thay đổi cực kỳ lớn lao trong tâm hồn vị Hoàng tử thanh niên.
Nhưng rồi có những lúc Nan Ðà thiêu thiếu một cái gì. Chàng tiếc rẽ cái áo gấm
chăng? Ðâu phải thế! Trước đây cũng có nhiều lần chàng áo ước cởi bỏ nó đi để
được mát mẻ. Chàng tiếc một cái gì? Ðó là các sinh hoạt cũ, cái lối ăn chơi say
sưa bên cạnh những người vũ nữ có bàn tay ngọc ngà, có thân hình mềm mại.
Ðức Phật thừa hiểu rằng trong một sớm một chiều, Nan Ðà chưa thể giác ngộ được
chân lý nên chú ý đến Nan Ðà nhiều hơn các đệ tử khác. Một hôm, có người mời
Phật đi thọ trai, Ngài không đưa Nan Ðà đi mà còn kêu đến đưa bình bát cho và
dặn nhà múc nước đổ vào cho đầy.
Ðược ở nhà, Nan Ðà là vui thích vì chàng thấy có cơ hội trở về thăm cung điện và
các mỹ nữ. Biết như thế là sai lầm nhưng có một sức mạnh nào thúc đẩy mãnh liệt.
Dầu sao, Nan Ðà cũng không quên lời Phật dặn "đổ nước vào bình bát" mà chàng
không biết đổ để làm gì. Cái bình bát nhỏ bè này, hãy đổ vào một gàu là đầy ngay
và rồi sẽ trở về thăm cung điện cũng không muộn. Nan Ðà đem bình bát ra giếng.
Chàng xách lên gàu nước và đổ nước vào. Chàng cẩn thận để nước khỏi đổ ra ngoài.
Lạ quá! Gàu nước đồ hết rồi mà sao không thấy nước tràn lên miệng bình. Nan Ðà
cúi xuống xem bình bát có bị nứt không. Tuyệt nhiên không một đường rạn nào, lớp
men vẫn liền láng. Chàng múc gàu nước thứ hai, thứ ba, thứ tư và liên tiếp nhanh
tay đổ vào. Lạ thật, không có nước chảy ra ngoài mà nước đổ vào biến đi đâu cả.
Nan Ðà đã mệt nhoài mà bình bát vẫn không được một tí nào cả. Làm sao để về thăm
cung điện? Nôn nả quá, chàng để bình bát ngay bên giếng và vụt chạy đi, hẹn
trong lòng chốc trở lại sẽ tiếp tục đổ nước vào.
Chạy được một quảng, Nan Ðà thấy ở xa có đoàn người đi ngược lại. Chàng dừng lại
nhìn. Khốn rồi! Chính Phật và đoàn đệ tử thọ trai về. Nan Ðà biết không có cách
nào tránh khỏi, bèn nép bên đường, cúi mặt nhìn xuống đất. Phật đến bên Nan Ðà
hiền lành bảo:
- Thôi! Trở lại. Em hãy còn lời hứa đối với ta, còn công việc ta giao chưa làm
xong. Hãy tự chiến thắng mình mới đi đến đích cuối cùng.
Nan Ðà đi theo Ngài cùng trở về Tịnh xá.
Năm hôm sau, trong cuộc du hành thuyết pháp ở cõi trời, Phật cho Nan Ðà đi theo,
Nan Ðà mừng lắm.
Ðấy là một trong những cõi trời đẹp đẽ và hạnh phúc nhất. Không biết bao nhiêu
lâu đài tráng lệ nguy nga. Những chiếc bàn, những độc bình bằng thủy tinh muôn
màu rực rỡ. Những vườn hoa với các cây xanh mướt, quanh năm hoa nở thắm tươi và
tỏa mùi hương nồng ấm. Ánh sáng một màu huyền ảo. Mặt trời không gay gắt, ban
ngày vẫn có sao sáng và ban đêm trời luôn luôn sáng, thứ ánh sáng vàng trắng của
những đêm rằm.
Phật đưa Nan Ðà đến một cung điện rực rỡ. Các tiên ông râu bạc trắng ra đón
tiếp. Phật thuyết pháp cho họ nghe. Trong lúc đó các nàng tiên mời Nan Ðà đi xem
khắp nơi. Chỗ nào Nan Ðà cũng tấm tắc khen ngợi. Rồi các nàng tiên múa cho Nan
Ðà xem. Những gương mặt tươi đẹp như chưa bao giờ lo buồn, các điệu múa uyển
chuyển như còn gởi mãi trong không gian các đường nét mềm mại. Sau đó Nan Ðà hỏi
họ:
- Ai sẽ có vinh hạnh hưởng cảnh sống êm đẹp trong những cung điện ở đây?
Các nàng tiên nhỏ nhẹ thưa:
- Cung điện, vườn hoa, ánh sáng ở đây đang chờ đón một người tên là Nan Ðà, nếu
người ấy tu hành được chánh quả.
Nan Ðà sung sướng nhẹ nhõm khi theo các nàng về cung điện.
Trên đường về Tịnh xá, Nan Ðà định hỏi Phật xem lời các nàng tiên nói có đúng
không, nhưng không dám, chỉ tự bảo với mình phải cố gắng tu tập. Nhưng biết đến
bao giờ mới lên cõi trời sung sướng. Nan Ðà nôn nả nên thiếu thái độ hiền từ,
tĩnh tâm, định trí. Và cái hăng hái của những ngày mới trở về lần lần phai nhạt.
Một thời gian sau, Phật lại chuẩn bị một cuộc đi truyền thuyết xa và Nan Ðà cũng
được đi theo. Lần này Phật dẫn chàng xuống địa ngục.
Ðịa ngục bày ta trước mắt Nan Ðà trước những cảnh tượng ghê rợn. Ðây là một
người đàn ông bị ép dưới một tản đá khổng lồ. Tảng đá lún dần, lún dần trong
tiếng kêu thắt nghẹn trong tiếng răng rắc của bộ xương ngực, xương tay, xương
chân đang dập nát. Ðây là một người đàn bà mang trên đầu một vành lửa đỏ. Tóc
của người ấy cũng cháy khét lẹt; và tay bị trói chặt ra phía sau, người đàn bà
vừa chạy vừa kêu không ra tiếng người. Nan Ðà biết những hình phạt ấy là do sự
tàn ác của họ ở kiếp trước nên im lặng đi theo Phật. Gương mặt của Ngài tỏ vẻ vô
cùng thương xót và Ngài cầu nguyện cho họ.
Ðến một đoạn nữa, Nan Ðà thấy trước mặt có năm chảo dầu xếp thành hành dài trước
mặt một cái đền tối om. Năm con quỷ đang sắp sửa đun lửa. Trong bốn cái chảo đã
có bốn người không rõ là đàn ông hay đàn bà. Lửa đỏ, dầu gần sôi. Người trong
chảo vẫy vùng, chồm lên rồi lại rơi xuống. Tiếng kêu của họ tắt đi trong tiếng
sôi sùng sục của dầu, tiếng củi cháy phừng phực. Nan Ðà đến gần con quỷ coi chảo
dầu thứ năm và hỏi:
- Tại sao trong nầy lại không có người nào?
Con quỷ không nhìn Nan Ðà, chăm chú coi lửa và trả lời:
- Chảo không này cứ đun sẵn, để dành riêng cho một người tên là Nan Ðà nếu người
ấy biếng nhác, không lo tu tập.
Nan Ðà giật nẩy mình và không dám hỏi thêm gì nữa.
Từ độ ấy về, Nan Ðà không một chút nào dám xao nhãng việc tu niệm, chàng lo tụng
niệm, thuộc làu kinh kệ. Mãi đến chiều chiều, Nan Ðà mới để một ít thì giờ đi
dạo ngoài vườn Tịnh xá.
Nhưng có một điều là chàng đến chỗ nào, người chỗ ấy đều lánh đi nơi khác. Nan
Ðà bực lắm. Có một hôm Nan Ðà đến gặp Ngài A Nan, Ngài A Nan là em họ chàng và
là đệ tử yêu mến nhất của Ðức Phật. Thấy Nan Ðà đến, Ngài A Nan cũng lánh đi nơi
khác. Không thể giữ nổi sự bực bội trong lòng, chàng đến trước mặt Ngài A Nan là
lấy lời kính cẩn thưa:
- "Xin chú cho tôi biết vì lẽ gì các Ngài và chú lại không muốn gặp tôi. Tôi
tưởng đã ở một đạo với nhau, hơn nữa lại là bà con, chú cũng không nên đối xử
với tôi như thế".
Ngài A Nan biết không còn cơ hội nào tốt hơn cơ hội nầy để trình bày cho Nan Ðà
rõ đầu đuôi nên ôn tồn bảo:
- Chúng ta tuy theo một đạo nhưng mục đích chúng ta không giống nhau. Anh nhắm
một mục đích khác. Anh tu hành để được lên cõi tiên, để sống trong hạnh phúc,
riêng anh, tu hành vì cảnh khủng khiếp của địa ngục. Anh Nan Ðà ơi! Mục đích của
anh hẹp hòi. Phải lấy sự đau khổ của chúng sinh làm đau khổ của mình, xem thường
tài sản và tính mệnh của mình, phát tâm thực hành lục độ để giải thoát vô lượng
chúng sanh. Ðó là mục đích của thầy ta, của chúng ta, của những người tu hành
chân chính.
Ngài A Nan dừng lại để Nan Ðà kịp suy nghiệm. Rồi âu yếm nhìn Nan Ðà Ngài nói
tiếp.
- Anh Nan Ðà ơi! Ðường tu hành còn dài lắm, cho đến khi nào chúng sinh không còn
khổ đau. Cho nên không nhìn một mục đích cao rộng, ta sẽ dễ nản lòng thối chí
như anh, đã có lần muốn bỏ dỡ công cuộc nửa chừng. Phải can đảm lên anh ạ! Quả
lành sẽ đến với chúng ta.
Lời Ngài A Nan đi thẳng vào tâm can, vào trí óc A Nan. Từ đó Nan Ðà công phu tu
luyện với mục đích cao quý giải thoát cho chúng sanh và một ngày kia, bước theo
A Nan, Nan Ðà trở thành một đệ tử chân chính của Ðức Phật, trở thành Nan Ðà tôn
giả đáng kính mến muôn đời của chúng ta.
Nguồn: www.quangduc.com