•
Mục Lục
•
Thay lời tựa
01.
Thái Tử Nhẫn-Nhục-Khải
02.
Xá-Lợi-Phất Niết Bàn Trước Phật
03.
Cắt Thịt Nuôi Cha Mẹ
04.
Thiện Hữu và Ác Hữu
05.
Hai Nhà Vua Hiền Ðức
06.
Chuyển Luân Thánh
Vương
07.
Vua Chuyển Luân Ðảnh-Sanh
08.
Vì Hiếu Quên Thù
09.
Kẻ Ngu Hay Cãi
10.
Chồn Cưới Công Chúa
11.
Chim Phượng Hoàng
12.
Nai Cứu Người
13.
Quốc Vương Hữu-Ðức
14.
Tể Tướng Ðại-Ðiển-Tôn
15.
Nhẫn Nhục Tiên Nhân
16.
Người Ðệ Tử Cuối Cùng
|
LƯỢC TRUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòa thượng Thích Ðức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế, California, 1998
______________________________________________________________________________
Chuyển Luân Thánh Vương
Một hôm tại thành Câu-Thi-Na, trong rừng Ta-La
Song-Thọ, trước những ngày đức Phật sắp nhật Niếp-bàn, tôn giả A-Nan và
đại chúng vô cùng buồn khổ, nhất là A-Nan tâm thần hôn mê, hồn bất phụ
thể, quên ăn bỏ ngủ, vì nghĩ rằng Phật sắp lìa đời, như mặt trời rơi
rụng, như con mắt thế gian không còn, như con thơ mất mẹ.
Sau khi được Phật an ủi khuyến hóa, A-Nan tỉnh ngộ, liền bạch Phật rằng:
"Kính bạch đức Thế-Tôn! Thành Câu-Thi-Na na`y so với các thành Vương-Xá,
thành Ba-La-Nại, thành Xá-Vệ, thành Tỳ-Xá-Ly, thì Câu-Thi-Na quả là nhỏ
bé, kém văn hóa không khác gì nơi biên địa. Ngài nhập Niết-bàn nơi đây
chúng sanh không được lợi ích nhiều. Con nay trộm nghĩ, tốt hơn, đức
Thế-Tôn nên rời Câu-Thi-Na nầy, để đến các thành lớn kia nhập Niết-bàn.
Nơi đó dân chúng đông đúc, trình độ văn hóa cao, lòng tin nơi đạo Ngài
sâu đậm. Như vậy chúng sanh sẽ được nhiều lợi lạc hơn".
Nghe tôn giả A-Nan trình bày xong, đức Phật từ hòa dẫn giải: "Nầy A-Nan!
Ông không nên nói như thế! Ông đâu có biết rằng, thuở quá khứ thành
Câu-Thi-Na nầy có một vị Chuyển-luân Thánh-vương tên là Ðại-Thiện-Kiến
ngự trị, đem chánh pháp thống nhiếp bốn châu thiên hạ. Lúc bấy giờ vương
thành mỗi bề rộng trên mười cây số, có bảy lớp thành bao bọc chung
quanh. Lớp thành thứ nhất bằng vàng. Lớp thành thứ hai bằng bạc. Lớp
thành thứ ba bằng lưu ly. Lớp thành thứ tư bằng pha lê. Lớp thành thứ
năm bằng xa cừ. Lớp thành thứ sáu bằng mã não. Lớp thành thứ bảy tổng
hợp tất cả các thứ châu báu trên đời làm thành. Cứ mỗi lớp thành là có
ao nước tám công đức bao bọc.
Ðền đài lầu các bao lơn đều làm toàn bằng bảy thứ bảo châu, điêu khắc
chạm trổ huy hoàng trang nghiêm rực rỡ. Bốn cửa thành mỗi cửa đều có
chín từng lớp chạm trổ sơn son thếp vàng ngời sáng thật là hoa lệ. Cây
cối trong thành xanh tươi mát mẻ quanh năm. Có đủ thứ chim quý ngày ngày
reo hót thanh thót trên cành cây, bay lượn trên mặt nước hồ. Trong vườn
muôn thứ hoa thơm cỏ lạ rộn nở bốn mùa. Khắp hoàng thành, gió thoảng
cành cây, các loài chim quý hòa tấu tạo thành âm thanh thiên nhạc. Nhân
dân trong thành đều phú quý giàu sang, hưởng đầy đủ ngũ dục lạc như cõi
trời Ðao-Lợi. Hai bên đường xa trong thành treo đầy ngọc minh châu sáng
chói không phân ngày đêm. Âm nhạc dịu dàng phát ra từ cành cây hoa lá
khuyến khích khen ngợi mọi người trì trai giữ giới tu niệm, hòa với
tiếng thuyết pháp, khiến cho người làm lành hướng thiện.
Vua Ðại-Thiện-Kiến là bậc vua hiền đức, tướng mạo đoan trang, dân chúng
trong thành ai nấy đều quý mến ngưỡng mộ như bậc cha mẹ. Một hôm nhà vua
muốn đi du ngoạn để xem dân tình, liền hạ lệnh cho quan chủ binh chuẩn
bị tám vạn bốn ngàn xe ngựa để cho cung phi mỹ nữ và Bà-La-Môn, trưởng
giả, cư sĩ đồng tham dự cuộc du ngoạn này. Riêng vua Ðại-Thiện-Kiến cưỡi
trên lưng con bạch tượng đi giữa quân hầu. Dân chúng nghe vua xuất
thành, đồng nhau kéo đến đứng hai bên đường hàng hàng lớp lớp để được
nhìn dung nhan của đức vua. Khắp nơi, vua Ðại-Thiện-Kiến đều thấy cỏ cây
hoa lá xanh tốt đầy đầy, dân chúng đâu đâu cũng được hưởng thái bình âu
ca lạc nghiệp. Nhà vua lại còn hạ lệnh xây thêm hồ ao ở những nơi ngã tư
đường, trông cây mát hoa thơm để cho dân chúng đến tắm rửa thưởng ngoạn.
Ðồng thời vua Ðại-Thiện-Kiến còn sắc chỉ cho các quan địa phương nên đem
của cải tiền vàng bạc trong kho ra bố thí để tùy sở thích của dân chúng
lấy dùng.
Sau ngày du ngoạn trở về hoàng cung, khoảng tuần lễ sau, những người
Bà-la-môn, trưởng giả , cư sĩ đem đủ loại vàng bạc của báu đến tặng cho
vua. Vua Ðại-Thiện-Kiến nói: "Ta đã ra lệnh khắp nơi mở cửa kho bố thí
cho nhân dân. Ta đâu cần thiết bạc tiền mà các khanh đem đến tặng ta làm
gì?"
Các vị Bà-la-môn, trưởng giả đồng loạt tâu vua rằng: "Muôn tâu
Thánh-thượng! Cung điện Thánh-thượng quá nhỏ. Mỗi lần hạ thần chúng tôi
vào ra mắt Thánh-thượng thì không đủ chỗ để cho thân quyến tùy tùng của
chúng tôi đứng. Xin Thánh-thượng vì lợi ích muôn dân mà mở mang cung
điện lớn thêm".
Nghe lời tâu hữu lý, nhà vua im lặng suy nghĩ: "Họ tâu có lý lắm. Nay ta
nên mở rộng trụ xứ này".
Bấy giờ trời Ðế-Thích biết rõ tâm niệm của vua Chuyển-luân Thánh-vương
Ðại-Thiện-Kiến, liền gọi vị thiên tử tên Tỳ-Thủ Kiến-Ma là vị kiến trúc
tài ba khéo léo nhất, bảo rằng: "Nay vua Chuyển-luân Thánh-vương
Ðại-Thiện-Kiến ở cõi Diêm-phù-đề muốn mở mang cung điện, nhà ngươi nên
xuống đó giúp đỡ để cho cung thành nhà vua ấy cũng được trang nghiêm
tuyệt mỹ như cung điện của ta đây vậy".
Thiên tử Tỳ-Thủ Kiến-Ma vâng lệnh, liền vận dụng thần thông co duỗi cánh
tay trong nháy mắt đã biến thành một trang tráng sĩ đến cõi nhân gian
đứng trước nhà vua Ðại-Thiện-Kiến.
Lúc đó, nhà vua trông thấy hình dáng đặc biệt của vị tráng sĩ, biết
không phải là người thường, nên hỏi rằng: "Ngài là ai, bỗng nhiên hiện
trước ta đây?"
Vị thiên tử đáp: "Tôi tên là Tỳ-Thủ Kiến-Ma vâng lệnh trời Ðế-Thích đến
đây giúp Ðại-vương mở mang cung điện". Vua Ðại-Thiện-Kiến nghe xong rất
đỗi vui mừng ưng thuận ngay.
Nhờ sự giúp đỡ thần diệu của Tỳ-Thủ Kiến-Ma, chẳng bao lâu đền đài cung
điện vua Chuyển-luân Thánh-vương Ðại-Thiện-Kiến được xây xong bằng thất
bảo, cực kỳ lộng lẫy rộng lớn trang nghiêm, nguy nga tráng lệ. Ðặc biệt
trong cung điện mới này có điện thuyết pháp, giữa điện thuyết pháp có
tòa sư tử làm bằng bảy thứ châu báu và chung quanh tòa có tám vạn bốn
ngàn chỗ ngồi nghe pháp.
Sau khi cung điện hoàn thành xong, thì cũng không còn thấy bóng hình của
người tráng sĩ tài ba kia đâu nữa. Nhà vua truyền lệnh đánh trống thổi
kèn rao khắp nhân gian rằng: "Tại thành nội, Ðại-vương sẽ mở hội thuyết
pháp bảy ngày đêm để khánh thành cung điện mới, đồng thời bố thí vàng
bạc cơm áo, dân chúng ai thích đến nghe Phật Pháp thì sẽ được tùy ý nhận
lấy của báu về dùng".
Khi các hàng Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ và bá quan, vạn dân thi đua
nhau vào chỗ ngồi xong, vua Chuyển-luân Thánh-vương Ðại-Thiện-Kiến uy
nghi bước lên ngồi tòa sư tử thuyết pháp về Thập Thiện, rồi tiếp đó
thuyết về những thiện pháp khác, khiến cho mọi người đều được lợi lạc
hưởng sự vui thú của cõi trời. Vua Ðại-Thiện-Kiến tiếp tục làm việc lợi
ích như thế suốt hơn một vạn hai nghìn năm.
Nầy A-Nan! Nhà vua ấy lại vào tịnh thất quán tưởng biết được thời quá
khứ của mình nhờ tu hạnh bố-thí, nhẫn-nhục, từ bi mà nay được phước báu
làm Chuyển-luân Thánh-vương tôn quý nhất trên đời không ai sánh bằng.
Nhà vua ấy lại phát nguyện triệt để tinh tấn tu Tứ-vô-lượng-tâm, cung
phi mỹ nữ hoàng thân quốc thích cùng cố gắng tu tập.
Lúc bấy giờ công chúa Thiện-Hiền cùng hoàng hậu và cung phi mỹ nữ ngồi
thiền chánh niệm trong tịnh thất đã hơn bốn vạn năm cũng khởi niệm rằng:
"Chúng ta ngồi thiền Chánh niệm nơi đây đã lâu lắm rồi, nay chúng ta nên
đến ra mắt thăm Ðại-vương".
Trong giây lát những người nầy hiện trước vua tâu rằng: "Muôn tâu
Thánh-thượng! Nay Thiện-Hiền cùng tám vạn bốn ngàn thể nữ đến ra mắt vấn
an Ðại-vương".
Vua Ðại-Thiện-Kiến nghe xong, liền lên pháp tòa sư tử. Các thể nữ kia
cũng liền kéo đến trước pháp tòa đồng cung kính chấp tay quỳ thưa: "Chị
em chúng con trong tịnh thất chánh tâm thiền quán đã hơn bốn vạn năm,
nay đến đây yết kiến vấn an Ðại-vương, và có điều muốn thưa thỉnh, kính
xin Ðại-vương thương xót thuận cho".
Vua Ðại-Thiện-Kiến đáp: "Quý hóa thay, các ngươi cứ tùy ý nói".
Công chúa Thiện-Hiền tâu vua rằng: "Thiện hạ trong bốn phương: Nam
Diêm-phù-đề, Tây Cồ-da-ni, Bắc Uất-đan-việt, Ðông Phất-bà-đề đều giàu
sang, vui vẻ, yên ổn biết tu hành thập thiện, tất cả đều nhờ đức giáo
hóa của Ðại-vương. Riêng thành Câu-Thi-Na trong cõi Diêm-phù-đề này còn
có đến tám vạn bốn nghìn thành. Quốc-vương, Ðại-thần, Bà-la-môn, Trưởng
giả đều muốn yết kiến Ðại-vương, ước mong để nhờ ơn mưa móc pháp nhũ.
Nhưng Ðại-vương thiền định trải qua nhiều năm, nên mọi người không có
dịp triều kiến chiêm ngưỡng dung nhan, lòng họ khát vọng muốn được thấy
tôn nhan Ðại-vương như con hiếu lâu năm muốn được thấy cha hiền. Vả lại
bốn phương thiên hạ cần sự vỗ về dìu dắt của Ðại-vương. Lại nữa, voi
ngựa xư cộ đều có sẵn, Ðại-vương nên khéo dùng thời nghi để đi du ngoạn
quan sát dân tình sinh hoạt. Vả lại ngày trước Ðại-vương thường thuyết
khuyến hóa muôn dân tu Thập thiện, nhưng thời gian gần đây Ngài lại
chuyên tâm thiền định bỏ mất việc lợi ích này. Bọn nữ nhân chúng con
không làm lợi ích nhân quần, nên chuyên tâm thiền quán. Còn Ðại-vương là
bậc ân đức của muôn dân, đâu phải vì mải mê tịnh tâm thiền định mà ở lâu
mãi trong thiền thất được, bỏ mất điều lợi ích của muôn dân.
Vua Ðại-Thiện-Kiến nghe xong, ôn tồn đáp: "Những lời khuyên vừa rồi của
các khanh thật không đúng ý ta. Các con nên biết rằng, tất cả hình tướng
đều là vô thường, ân ái hội họp rồi phải biệt ly, bốn phương thiên hạ
đông đảo hưng thịnh rồi cũng suy tàn. Xưa kia ta đã từng làm đứa trẻ thơ
bốn vạn tám ngàn năm; làm vua bốn vạn tám ngàn năm, nhờ liên tục gắng
tu, sau rốt, ta làm Chuyển-luân Thánh-vương đến tám vạn bốn ngàn năm,
trị vì bốn phương thiên hạ, cung điện dẫy đầy bảy báu, muôn dân ấm no,
hạnh phúc, thuyết pháp tám vạn bốn ngàn năm. Từ đấy đến nay trải qua năm
mươi tám vạn bốn ngàn năm. Tuy mạng sống lâu dài, nhưng cuối cùng rồi
cũng hết. Thành Câu-Thi-Na này trước đây cũng hưng thạnh to lớn, lại còn
có đến tám vạn bốn ngàn thành lớn khác tùy thuộc, cực thịnh vô cùng, rồi
cũng suy tàn tiêu tan với thời gian. Tất cả sự đời có hợp rồi phải tan,
có thịnh rồi phải suy, còn rồi phải mất. Biết rõ điều đó, ta đã lo
chuyên cần tịnh tâm tu mà được phần tối thắng. Ta cần phải trồng nhiều
thiện căn hơn nữa". Chẳng bao lâu, vua Chuyển-luân Ðại-Thiện-Kiến ấy
mạng chung, sanh lên cõi trời Phạm-Thiên.
A-Nan! Vua Chuyển-luân Thánh-vương Ðại-Thiện-Kiến kia trị vì bốn châu
thiên hạ, nhưng nhà vua cũng chỉ ở một thành Câu-Thi-Na cõi Diêm-phù-đề;
voi ngựa mỗi thứ có đến hơn tám vạn bốn ngàn con, nhưng nhà vua cũng chỉ
cưỡi có một con. Tuy có tám vạn bốn ngàn xe làm bằng thất bảo sẵn sàng
cung ứng, nhưng nhà vua cũng chỉ ngồi một chiếc. Tuy có tám vạn bốn ngàn
phu nhân, nhưng nhà vua chỉ yêu quý có một người. Tuy có hơn tám vạn bốn
ngàn lâu đài cung điện làm bằng châu báu, mà thật sự nhà vua cũng chỉ ở
một cung điện. Thế mà nhà vua phải bận tâm lo khắp bốn châu thiên hạ,
buộc lòng vào chuyện chúng sanh, luống mệt tinh thần, mà chính bản thân
không được mấy chân lợi ích.
Ðức Phật lại bảo tiếp A-Nan rằng: "Vua Chuyển-luân Ðại-Thiện-Kiến tôn
quý kia không phải là người nào khác lạ mà chính là tiền thân của ta.
Thành Câu-Thi-Na huy hoàng rực rỡ rộng lớn ngày xưa, chính là thành
Câu-Thi-Na nhỏ hẹp ngày nay. Sự việc như thế, sao ông có thể nói thành
Câu-Thi-Na nầy là chỗ biên địa được ư?"
Đầu Trang |
|