Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh
Việt dịch: TT. Thích Phước Sơn
Trần Tinh Viên thường kể cho mọi người nghe về một câu chuyện ngày trước của ông như sau:
Một lần nọ, ông cùng các bạn bè thi rớt kéo nhau đến thư viện Tây Hồ uống rượu giải sầu. Trong lúc ông đi bách bộ ngoài thư viện, bỗng thấy một người dắt trâu đi, anh ta đánh con vật liên tục, nhưng con trâu không chịu cất bước. Khi trông thấy Tinh Viên, mắt nó đổ lệ đầm dề. Tinh Viên hiểu rằng con trâu này tự biết rằng tính mạng mình không thể nào bảo vệ được, nhất định bị lôi đến lò mổ, vì thế nó không chịu đi tới. Chứng kiến cảnh ngộ ấy, Tinh Viên động lòng trắc ẩn, liền đến hỏi người dắt trâu: "Con trâu này giá bao nhiêu vậy?". "Mười lăm quan". - Người đàn ông ấy quay lại đáp.
Thế là ngay lập tức Tinh Viên trở vào trong thư viện nói với bạn bè: "Số tiền chúng ta chi trả tiền chúng ta chi trả còn thừa vì sao không dùng nó làm một thiện nhỉ? Hay là chúng ta xuất ra để mua trâu phóng sinh".
"Không được đâu, số tiền mà chúng ta góp được hôm nay là nhằm mục đích để dành đến ngày thi năm sau chúng ta tìm một nơi rộng rãi mát mẻ để mọi người tụ họp lại liên hoan đấy nhé!" - Một người bạn học đáp.
"Nhưng mà sự tiêu khiển chẳng qua nhất thời, còn việc này liên quan đến sinh mạng của một con trâu. Cân nhắc nặng nhẹ, thiết nghĩ nên làm việc này thì hơn". - Tinh Viên bàn như vậy, rồi tiếp: "Các bạn móc tiền đưa đây nào! Đến kỳ thi sau này, các khoản chi phí thưởng hoa đãi rượu để một mình tôi chi trả cho, nhất định không khi nào thất tín".
Mọi người thấy tâm ý của anh ta đã nhất quyết, bất đắc dĩ phải móc tiền ra, đi mua con trâu đang chảy nước mắt đầm đìa kia đem đến chùa Tây Thiền phóng sinh.
Sau đó, vì để giữ chữ tín với các bạn học, Tinh Viên bèn đem bán một ít quần áo và đồ dùng của mình mà khoản đãi bạn bè. Mọi người đều khen ngợi anh là một bậc quân tử giữ chữ tín. Qua năm sau, anh được đậu cao, rồi làm Tri huyện về sau được thăng lên chức Tư mã đến trấn nhậm Hải Môn.
Trước
đây
tại
Việt
Đông
có
một
viên
quan
Tổng
Nhung
văn
võ
toàn
tài,
họ
Trương
tên
Thần
Đạo.
Tính
tình
ông
thô
lỗ
cang
cường,
có
sức
mạnh
không
ai
địch
nổi.
Nhưng
ông
có
học
thức
uyên
thâm,
ngọn
bút
tài
hoa,
chẳng
kém
gì
tiền
nhân.
Mỗi
khi
các
danh
sĩ
đề
thi
nơi
các
bức
họa
thì
đều
có
ông
tham
dự.
Danh
tiếng
văn
chương
của
ông
vang
lừng
bốn
biển,
chỉ
có
điều
là
ông
rất
thích
món
thịt
chó,
tựa
hồ
trong
nhà
bếp
không
có
ngày
nào
là
không
nấu
món
thịt
chó,
đến
nỗi
nó
đã
trở
nên
chuyện
bình
thường
như
người
ta
ăn
thịt
gà,
thịt
heo
vậy.
Thế
nên,
mỗi
lần
ông
đi
qua
một
nơi
nào,
thì
các
con
chó
ở
địa
phương
đó
chạy
theo
sau
ông
sủa
vang
trời.
Hình
như
bầy
chó
biết
rằng
đó
chính
là
kẻ
oan
gia
đang
đối
đầu
với
lũ
chúng. Hoạn
trường
của
Trương
Thần
Đạo
khá
hanh
thông.
Lúc
đầu
ông
đang
trấn
nhậm
tại
trấn
Kiến
Ninh,
nhân
khi
đi
tuần
tra
trên
núi
Võ
Di,
trời
đã
về
chiều,
bèn
neo
thuyền
tại
một
khúc
sông
để
nghỉ
ngơi.
Thuộc
hạ
biết
rõ
thị
hiếu
của
ông
nên
giết
chó
làm
món
ăn
dâng
lên,
ông
nhấm
nháp
trông
có
vẻ
rất
khoái
trá.
Sáng
hôm
sau,
nghe
thiên
hạ
đồn
rằng
Thiên
Du
Quán
ở
trên
núi
là
một
thắng
cảnh
rất
nổi
tiếng,
bèn
đến
đó
tham
quan. Khi
hai
chân
của
Trương
Thần
Đạo
vừa
bước
vào
tới
cửa
điện,
thì
bỗng
thấy
một
luồng
kim
quang
chói
mắt,
đôi
mắt
ông
trở
nên
tối
sầm,
liền
lảo
đảo
nằm
xuống
đất.
Những
kẻ
thuộc
hạ
vội
vã
đỡ
ông
dậy,
thì
không
những
ông
không
nói
năng
gì
được
mà
toàn
thân
trở
nên
mềm
nhũn
tựa
hồ
không
còn
một
chút
khí
lực
nào,
chẳng
khác
gì
một
cây
thịt
mềm
mại
không
có
xương.
Mọi
người
hoảng
kinh
xem
xét
lại
thật
kỹ
thì
thấy
hai
mắt
ông
khép
kín,
trên
trán
lạnh
như
băng,
khí
tuyệt,
tắt
thở
mà
chết. Ngay
lúc
mọi
người
đang
kinh
dị
không
thể
hiểu
nổi,
thì
vị
đạo
sĩ
trong
đền
là
Thái
Nguyên
Oánh
nói
với
mọi
người:
"Tòa
Vương
Linh
Quan
mà
đạo
quán
này
thờ
phụng
thường
hay
hiển
hiện
uy
linh.
Phàm
những
kẻ
nào
ăn
thịt
chó
đều
không
dám
đi
vào
điện
này,
để
tran1h
sự
mạo
phạm
đến
thần
thánh.
"Rồi
ông
tiếp:
"Nhân
vì
Trương
Thần
Đạo
là
bậc
người
quý
hiển,
trọng
vọng
cho
nên
tôi
không
dám
ngăn
cản,
chính
vì
vậy
nên
đại
nhân
mới
chuốc
lấy
thảm
họa
mạng
vọng". Thế
nhưng
tại
sao
toàn
thân
lại
biến
thành
một
hối
thịt
không
có
xương,
há
chẳng
phải
là
chuyện
thần
kỳ?"
-
Có
người
hỏi.
Thái
Đạo
sĩ
liền
đáp:
"Sở
dĩ
toàn
bộ
xương
trên
thân
Trương
Đại
nhân
nát
bấy
là
vì
bị
Vương
Linh
Quan
đánh
bằng
roi".
Do
thế,
mọi
người
đều
phát
sinh
niềm
tin
sâu
sắc,
không
còn
nghi
ngờ
gì
nữa. Một
người
dân
ở
trấn
Nam
Tường
Gia
Định
là
Thái
Lục,
lâu
nay
lấy
nghề
giết
chó
làm
kế
sinh
nhai.
Vào
thời
gian
cuối
năm
chính
là
lúc
thịt
chó
trở
nên
rất
đắt
đỏ. Vì
ông
giết
chó
đã
nhiều
năm
nên
phương
pháp
sát
sinh
của
ông
trở
nên
điêu
luyện,
ra
tay
một
cách
nhẹ
nhàng
và
nhanh
chóng.
Một
ngày
kia,
vào
lúc
hoàng
hôn,
Thái
Lục
giết
một
con
chó
rồi
đem
bỏ
vào
trong
một
cái
thùng,
đoạn
dùng
nước
sôi
rưới
lên
mình
chó
để
cạo
lông,
thì
đột
nhiên
cảm
thấy
mắt
mờ,
tai
ù,
tâm
hồn
hoảng
loạn,
biết
là
có
một
điều
gì
khác
thường.
Là
vì
ngay
trong
lúc
ông
sơ
ý,
con
chó
đang
nằm
thở
thoi
thóp
sắp
chết
kia
từ
trong
thùng
vùng
dậy,
dùng
hết
sức
lực
còn
thừa
ngoạm
cho
ông
một
phát,
ông
kêu
la
ơi
ới. Thế
là
nhanh
như
chớp,
ông
nằm
lăn
ra
đất,
và
con
chó
ấy
cũng
nghiêng
mình
theo
tư
thế
nằm
của
ông,
đồng
thời
đôi
hàm
răng
của
nó
cũng
dính
chặt
vào
trong
cánh
tay
không
hề
nhúc
nhích.
Con
chó
dùng
sức
đôi
hàm
răng
quá
mạnh
khiến
ông
đau
đớn
dữ
đội
kêu
la
thất
thanh. Tiếng
kêu
bi
thảm
của
ông
kinh
động
đến
nhà
hàng
xóm,
thế
là
có
người
cầm
gậy
gộc
chạy
tới
đánh
con
chó
để
cho
nó
nhả
ra.
Thế
nhưng,
kỳ
quái
thay
đôi
hàm
của
nó
vẫn
bám
chặt
trên
cánh
tay
của
Thái
Lục
như
định
đóng,
làm
bất
cứ
cách
nào
cũng
không
buông
ra.
Không
ai
có
thể
tưởng
tượng
được
một
con
chó
sắp
chết
mà
có
sức
lực
mạnh
mẽ
đến
như
thế! Răng
chó
vốn
có
chất
độc
nên
để
một
hồi
lâu,
chất
độc
ấy
từ
cánh
tay
dần
dần
thâm
nhập
vào
tim.
Do
vậy,
Thái
Lục
đau
đớn
nằm
lăn
qua
lăn
lại
trên
mặt
đất,
nước
mắt
đầm
đìa,
cứt
đái
bắn
ra,
toàn
thân
rũ
riệt,
cất
mình
lên
không
nổi
nữa.
Đoạn
sắc
mặt
biến
đổi
từ
xanh
sang
trắng,
hai
tròng
mắt
trợn
ngược,
trông
bắt
phát
khiếp.
Thế
rồi
ông
kêu
rú
lên
một
tiếng
đặc
sệt,
trút
hơi
thở
cuối
cùng,
chết
một
cách
tức
tưởi
vì
bị
chó
cắn.
Khi
ông
chết
rồi,
con
chó
mới
chịu
nhả
hai
hàm
răng
ra,
rồi
tự
nhiên
cũng
nằm
lăn
ra
chết.
Từ
đó,
câu
chuyện
Thái
Lục
bị
chó
cắn
một
cái
mà
chết
dần
dần
được
truyền
đi
khắp
nơi,
những
người
trong
trấn
khi
nói
đến
chó
đều
biến
sắc
mặt,
do
vậy
không
còn
ai
dám
ăn
thịt
chó
nữa. Trấn
Phong
Kinh
là
một
thị
trấn
nhỏ,
dân
chúng
ở
đây
chất
phác
hiền
làm,
phần
lớn
làm
nghề
nông,
hơn
nữa
mọi
người
ai
cũng
siêng
năng
cần
kiệm
lo
chu
toàn
bổn
phận
của
mình.
Vì
vậy,
dân
chúng
trong
trấn
này
hằng
ngày
sống
trong
cảnh
thanh
bình
vô
sự. Chỉ
duy
nhất
một
người
dân
tên
là
Trần
Nhị
Đích
vốn
là
một
tiểu
thương,
do
buôn
bán
có
tay
nghề,
cho
nên
cũng
tích
lũy
được
một
ít
tiền
lẻ.
Ông
thích
nhất
là
cùng
bạn
bè
chén
tạc
chén
thù,
nên
thường
mua
thịt
chó
về
nướng
cháy
sém
sém,
rồi
mới
nhấm
nháp
với
rượu. "Mùi
thịt
chó
thơm
phưng
phức
mà
kết
hợp
với
vị
rượu
cay
cay
thì
thực
là
một
điều
cựu
kỳ
thú
vị
trên
cõi
đời
này".
-
Ông
hớn
hở
nói
với
mọi
người
như
thế.
Thường
thường
ông
rủ
rê
một
số
bạn
hữu
quen
thân
cùng
nhau
tổ
chức
nhậu
nhẹt
thịt
chó
với
rượu
để
thưởng
thức
cái
lạc
thú
khoái
khẩu
này,
cho
nên
bình
sinh
từng
giết
hại
vô
số
con
chó. Vào
năm
Bính
Tý
niên
hiệu
Càn
Long,
ông
cảm
thấy
cơ
thể
dần
dần
hao
mòn,
rồi
cuối
cùng
ngã
bệnh.
Bệnh
tình
của
ông
không
một
thầy
thuốc
nào
tìm
ra
nguyên
nhân. Thế
rồi,
không
bao
lâu
chứng
bệnh
ấy
trở
nên
trầm
trọng,
thường
nằm
hôn
mê
bất
tỉnh
nhân
sự.
Nhưng
trong
lúc
mê
sảng,
ông
chỉ
nói: -
Lại
mọt
con
chó
mực,
mầy
hung
dữ
thế
hả? -
Một
con
chó
đốm
ở
đâu
chạy
tới
táp
vào
tôi! -
Chó!
Hai
con,
ba
con,
bốn
con…
vô
số
chó,
chúng
nó
đến
đòi
mạng!
Cứu
mạng
nha!
Cứu
mạng! Vợ
con
lớn
nhỏ
đều
không
ai
thấy
được
một
con
chó
nào
cả
mà
chỉ
thấy
ông
dùng
tay
quơ
tren
hư
không
rồi
múa
tay
đập
chân,
trông
dáng
vẻ
rất
sợ
hãi,
đồng
thời
lắc
đầu
lia
lịa,
nói:
"Đáng
sợ
nhất
là
chó
điên
kìa!". Đến
lúc
chết,
ông
tự
chui
đầu
xuống
gầm
giường,
hai
tay
quào
quào
trên
đất,
giả
tiếng
chó
sủa
trong
khoảnh
khắc
rồi
tắt
thở. Trán
rộng,
trên
đầu
chỉ
lưa
thưa
vài
sợi
tóc,
cặp
mắt
ưa
nhìn
ngang
liếc
dọc,
đôi
nhãn
cầu
trắng
nhợt
thường
thường
lộ
ra,
còn
chót
mũi
thường
quắp
vào
như
mỏ
chim
ưng,
hai
môi
xệ
xuống,
răng
cỏ
thì
lểnh
khểnh
không
đều,
dáng
người
tuy
nhỏ
thó
nhưng
trông
có
vẻ
vạm
vỡ
khỏe
mạnh,
đó
chính
là
Lý
Phúc
Tài
ở
Bảo
Sơn
mà
người
người
đều
biết,
nhà
nhà
đều
tường. Lý
Phúc
Tài
tính
không
đoan
chính,
dục
vọng
đầy
ắp,
bẫm
tính
tàn
nhẫn
không
ai
bằng.
Gia
cảnh
anh
ta
cũng
khá
giả,
nhà
ở
gần
ven
biển
nên
bốn
phía
trồng
toàn
những
tre
để
ngăn
ngừa
những
cơn
sóng
dữ.
Do
thế
chim
chóc
thường
đến
lót
ở
trên
lùm
tre
để
cư
trú.
Phúc
Tài
từ
bé
đã
thành
thạo
việc
săn
bắn,
chuyên
nghề
bắn
chim.
"Tôi
bắn
rớt
xuống
rồi".
Nhìn
con
chim
rừ
trên
ở
rơi
xuống,
anh
ta
cao
hứng
vừa
vỗ
tay
vừa
hoan
hô. Đến
lúc
trưởng
thành
anh
ta
lại
càng
ưa
săn
bắn,
lấy
việc
đó
làm
thú
tiêu
khiển
hằng
ngày. Thì
giờ
thấm
thoát
không
đợi
một
ai,
Lý
Phúc
Tài
giờ
đây
đã
ngoài
năm
mươi
tuổi,
tóc
bạc
phau
phau.
Vào
một
buổi
sảng
nọ,
người
nhà
trông
thấy
anh
ta
đứng
tựa
bên
cửa
sổ,
hai
tay
giơ
lên
cao,
rồi
dùng
tay
che
trán,
miệng
nói
liên
hồi:
"Cắn
ta
đau
quá!" Thế
rồi
lấy
tay
che
ở
cổ,
tiếp
đó
đặt
trên
vai,
rồi
trên
cánh
tay,
phía
sau
lưng,
hai
bắp
đùi,
gót
chân,
nói
chung
là
tay
chân
cử
động
lia
lịa,
miệng
kêu
ơi
ới:
"Ôi
chao,
ôi
chao!
Chim,
chim,
chim!".
Thần
sắc
anh
ta
kinh
hoàng
tựa
hồ
chuột
nhắt
vừa
trông
thấy
mèo
già.
Thế
nhưng,
mọi
người
trong
nhà
không
một
ai
trông
thấy
hình
bóng
một
con
chim
nào
cả. "Tôi
không
đi
đâu!".
Anh
ta
hốt
nhiên
kêu
lên
như
thế.
Thế
rồi
tứ
chi
cứng
đờ
không
có
cách
nào
duỗi
thẳng
ra
được,
đầu
cổ
thì
hướng
lên
phía
trước,
thân
hình
hơi
cong
xuống,
giống
như
hình
dạng
một
con
chim
lớn
đang
bay
trên
hư
không.
Người
nhà
thấy
tình
trạng
anh
ta
như
vậy
đều
lắc
đầu
than
thở,
biết
là
không
còn
cách
nào
cứu
được
nữa.
Quả
nhiên,
sau
vài
hôm,
anh
chàng
chuyên
môn
giết
chim
này
đã
chấm
dứt
cuộc
đời
trong
tình
trạng
khốn
khổ. Ông
lão
Châu
Bình
bản
tính
nhân
từ,
rất
yêu
thương
loài
động
vật.
Một
hôm
ông
đến
thăm
nhà
một
người
bà
con,
trông
thấy
bốn
con
chó
sắp
bị
người
ta
đem
vứt;
nhân
vì
dân
chúng
ở
vùng
này
thường
có
thói
mê
tín,
họ
cho
rằng
một
con
chó
mẹ
mang
thai
một
lần
mà
sinh
đến
bốn
con
chó
là
điềm
chẳng
lành,
nuôi
chúng
vô
ích.
Châu
Bình
ngỏ
ý
xin
chúng
và
được
người
bà
con
đồng
ý,
ông
bèn
mang
bốn
con
chó
con
ấy
về
nhà
nuôi
dưỡng.
Ngày
tháng
trôi
qua
rất
nhanh,
bốn
con
chó
kia
dần
dần
khôn
lớn,
lanh
lợi
hoạt
bát,
chạy
nhảy
nhanh
nhẹn,
Châu
Bình
thường
thường
chơi
đùa
với
chúng
nó. Vào
một
buổi
chiều
gần
cuối
năm,
bỗng
nghe
có
tiếng
kêu
lắc
cắc
từ
trong
bụi
cây
phát
ra,
càng
lúc
âm
thanh
càng
lớn,
tựa
hồ
trận
cuồng
phong
đang
thổi
gấp,
làm
rung
động
núi
non.
Động
tính
hiếu
kỳ,
Châu
Bình
bước
ra
khỏi
cửa,
từ
từ
đi
tới,
thì
bỗng
thấy
một
con
trăn
to
lớn
dễ
sợ,
thân
hình
thô
kệch
giống
như
chiếc
bánh
xe,
hai
con
mắt
màu
đồng
đen
long
lanh,
phát
ra
ánh
sáng
làm
cho
người
ta
phải
khiếp
đảm,
miệng
mở
to
như
đọi
máu,
lưỡi
lè
ra
đỏ
chót,
hướng
thẳng
về
phía
Châu
Bình
phan
tới
nhanh
như
tên
bắn.
Châu
Bình
thấy
thế
kinh
hoàng
tháo
lui
được
mấy
bước,
thì
đôi
chân
luống
cuống
đứng
không
vững,
cơ
hồ
muốn
ngã
quuống
đất.
Ngay
lúc
hồn
kinh
phách
tán
chưa
biết
tính
sao
thì
bốn
con
chó
đã
được
nuôi
dưỡng
từ
bấy
lâu
kia
phóng
đến
nhanh
như
tia
chớp,
bủa
vây
bên
trái,
bên
phải,
phía
trước
phía
sau,
dũng
cảm
xông
vào
tấn
công
con
trăn
to
tướng
hung
hãn
ấy
một
cách
quyết
liệt.
Hành
động
anh
dũng
bảo
vệ
chủ
của
chúng
làm
cho
Châu
Bình
lấy
được
bình
tĩnh,
đồng
thời
ông
nghe
có
tiếng
chân
của
những
người
hàng
xóm
chạy
đến.
Bản
ý
của
con
trăn
này
là
muốn
nuốt
Châu
Bình,
ai
ngờ
nửa
chừng
Trình
Giảo
Kim
bỗng
dưng
xuất
hiện.
Do
động
tác
của
các
con
chó
linh
hoạt,
hai
con
khỏe
mạnh
nhất
đeo
sát
lên
đầu
của
con
trăn,
dùng
hàm
răng
bén
nhọn
cắn
một
cái
thật
mạnh
vào
yết
hầu
con
trăn,
ngay
lập
tức
máu
tươi
phun
ra
như
suối,
chảy
lai
láng
khắp
mặt
đất.
Thế
là
con
trăn
kiệt
sức
nằm
giãy
giụa
một
lát
rồi
chết,
còn
Châu
Bình
thì
bình
an
vô
sự. Lúc
đầu
thì
Châu
Bình
cứu
bốn
con
chó
con,
nhiều
năm
sau
đó,
bốn
con
chó
ấy
lại
hợp
sức
cứu
chủ
mình,
đây
chẳng
phải
là
tấm
gương
cứu
giúp
lẫn
nhau
rất
có
ý
nghĩa
hay
sao?
Tại
trấn
Bài
Dầu,
huyện
Hợp
Phì,
tỉnh
An
Huy
có
một
người
tên
là
Tuyên
Tứ.
Anh
ta
làm
nghề
mổ
lợn
đã
hơn
hai
mươi
năm,
góp
nhóp
tiền
bạc
cũng
đã
khá
nhiều.
Anh
ta
có
ba
căn
nhà,
một
căn
dùng
để
ở,
còn
hai
căn
cho
người
ta
thuê;
lại
có
ruộng
tốt
khoảng
một
trăm
mẫu.
Theo
lẽ,
gia
cảnh
như
thế
anh
ta
có
thể
nghỉ
tay
được
rồi,
nhưng
mà
lòng
người
không
bao
giờ
thỏa
mãn,
hơn
nữa
sự
hiếu
sát
của
anh
ta
cũng
thành
thói
quen,
cho
nên
ngày
nào
cũng
mài
dao
soèn
soẹt,
giết
heo
vô
số
kể.
Một
ngày
kia
vào
lúc
canh
năm,
anh
thức
dậy
nấu
nước
sôi
chuẩn
bị
mổ
heo,
thì
bấy
giờ
bà
vợ
đi
vào
cầu
tiêu,
bỗng
dưng
bà
trông
thấy
có
hai
người
đàn
bà
đang
nằm
trong
chuồng
heo.
Bà
ngạc
nhiên,
liền
đến
tận
nơi
xem
cho
kỹ,
thì
quả
thật
mình
chẳng
nhìn
lầm
chút
nào.
Thế
là
bà
vội
vàng
đem
chuyện
ấy
đến
mách
với
ông
chồng,
rồi
đề
nghị:
"Ông
không
nên
giết
heo
nữa
đấy
nhá!".
Tuyên
Tứ
cười
lớn
nói:
"Như
vậy
nhất
định
là
bà
bị
hoa
mắt
rồi,
chẳng
lẽ
lại
có
chuyện
đó
thật
sao?" Bà
vợ
ông
bèn
lấy
con
dao
giết
heo
ném
vào
trong
cầu
tiêu.
Do
thế,
ngày
hôm
ấy
Tuyên
Tứ
không
thể
giết
heo,
thế
nhưng
chung
cục
ông
không
hề
có
chút
mảy
may
hối
hận
nào.
Hôm
sau,
bà
mời
những
người
thân
bên
gia
đình
bà
chứng
kiến,
rồi
bà
nói
rạch
ròi
với
Tuyên
Tứ:
"Nếu
anh
vẫn
một
mực
duy
trì
cái
nghề
này
thì
nhất
định
tôi
phải
chia
ly
với
anh".
Thế
nhưng,
Tuyên
Tứ
cố
chấp,
chẳng
đoái
hoài
gì
đến
tình
nghĩa
của
người
vợ
đã
bao
năm
chung
sống
với
mình,
nói
nhát
gừng:
"Chia
ly
thì
chia
ly,
để
xem
bà
mong
muốn
cái
gì?". Thế
là
hai
người
đem
tất
cả
ruộng
đất
của
cải
ra
chia
hai
mỗi
bên
một
nửa,
bà
vợ
bồng
một
đứa
bé
mặt
mũi
khôi
ngô
đem
về
ở
với
mình,
còn
Tuyên
Tứ
vẫn
giữ
nghề
nuôi
heo
như
trước.
Rồi
ông
lần
lượt
đem
giết
thịt
hết
những
con
heo
nuôi
trong
chuồng,
lúc
ấy
lại
nghe
đứa
con
thân
yêu
của
mình
bị
bạo
bệnh
mà
chết,
khiến
bà
vợ
đã
ly
thân
kêu
khóc
thống
thiết.
Bấy
giờ,
trong
lòng
Tuyên
Tứ
mới
hơi
nao
núng
hối
hận
một
chút.
Sau
sự
kiện
bị
chấn
động
này,
bất
đắc
dĩ
ông
lao
vào
cờ
bạc
để
tiêu
sầu
giải
muộn.
Thế
rồi
say
mê
cái
thói
đỏ
đen,
cả
ngày
lao
vào
sòng
bạc,
nhưng
mà
không
có
lúc
nào
gặﰠvận
hên,
lại
bị
ma
đưa
lối
quỷ
đưa
đường,
Tuyên
Tứ
đánh
keo
nào
thua
keo
ấy,
càng
muốn
gỡ
gạc
thì
càng
bị
thua
đậm.
Chung
cục,
ông
đem
bán
hết
phần
ruộng
đất
của
mình
để
chạy
theo
canh
bạc,
hòng
kiếm
lại
ít
nhiều,
nhưng
tất
cả
đều
tan
theo
mây
khói.
Thế
là
ông
quyết
định
xây
dựng
lại
sự
nghiệp,
bèn
mua
vài
con
heo
đem
gửi
cho
bà
vợ
đã
chia
ly
nhờ
bà
nuôi
giúp.
Nhưng
chưa
đầy
một
tháng
thì
mắc
một
chứng
bệnh
kỳ
quái,
miệng
mũi
lúc
nào
cũng
tuôn
ra
máu
mủ,
đau
đớn
tột
cùng,
sớm
chiếu
cứ
nằm
trên
giường
kêu
la
bi
thảm
như
tiếng
heo
bị
thọc
huyết.
Tình
trạng
ấy
kéo
dài
chừng
một
năm,
rồi
chết
một
cách
thê
thảm. Trong
bộ
sách
Pháp
Uyển
Châu
Lâm
có
thuật
lại
một
câu
chuyện
xưa
như
sau:
Vào
đời
Đường
có
một
nhân
sĩ
ở
Trường
Hà
Bột
Hải
tên
là
Phong
Nguyên
Tắc,
anh
ta
vốn
là
một
đồ
tể
chuyên
nghiệp.
Có
lần
ông
được
Quan
Lộc
Tự
Đại
phu
mời
trông
coi
việc
đầu
bếp.
Bấy
giờ
gặp
lúc
Vua
Vu
điền
của
Tây
Phiên
là
Quý
Tân
đến
triều
cống,
Quan
Lộc
Tự
đại
nhân
thiết
yến
đãi
khách.
Sau
khi
đãi
yến
còn
dư
gần
một
trăm
con
dê,
vua
Vu
Điền
bèn
bảo
Nguyên
Tắc
đem
chúng
đến
chùa
phóng
sinh. Nguyên
Tắc
nhận
lời
uỷ
thác
của
người
lẽ
ra
phải
thực
hiện
một
cách
trung
thực,
không
ngờ
bỗng
nhiên
anh
ta
khởi
lên
lòng
tham,
nghĩ
rằng
những
con
dê
mập
này
đã
đến
tay
ta
thì
lẽ
đâu
lại
đem
thả
một
cách
khơi
khơi.
Do
thế,
liền
bí
mật
đem
gần
một
trăm
con
dê
ấy
đem
đến
lò
mổ
bán
cho
đồ
tể
để
nhận
một
món
tiền
ngoài
dự
kiến,
cho
nên
trong
lòng
cảm
thấy
rất
phấn
khởi. Sự
việc
ấy
trải
qua
đã
mấy
năm,
Nguyên
Tắc
đã
quên
bẵng
nó
từ
lâu,
không
còn
nhớ
một
chút
nào
nữa.
Ông
còn
được
các
bậc
đạt
quan
quý
nhân
giao
trách
nhiệm
trông
nom
công
việc
đầu
bếp,
cho
nên
thu
nhập
cũng
không
đến
nỗi
tệ,
sinh
hoạt
tương
đối
thoải
mái. Vào
mùa
hạ
tháng
sáu
năm
Long
Sóc
nguyên
niên,
trong
lúc
Nguyên
Tắc
đang
đi
bộ
ở
bên
ngoài
cửa
Tuyên
Nhân
thì
trời
bỗng
nổi
cơn
gió
lớn,
trên
không
mây
đen
tụ
lại,
sấm
chớp
dữ
dội,
mưa
đổ
xuống
như
cầm
chĩnh
trút. Một
tiếng
sét
nổ
chát
tai,
làm
kinh
động
toàn
thành;
khi
ấy
mọi
người
từ
xa
trông
thấy
một
kẻ
chạy
trốn
sét
không
kịp
là
Nguyên
Tắc
đang
quỳ
bên
đường,
hai
tròng
mắt
lồi
ra,
tóc
phủ
xuống
hai
tai,
đầu
ngoẻo
xuống
hình
như
đã
bị
đứt.
Người
ta
tiến
lại
gần
xem,
thì
quả
nhiên
bộ
phận
cổ
của
anh
ta
đã
bị
cất
gần
đứt,
nửa
cái
đầu
tựa
hồ
đang
bị
dao
chém,
máu
me
chảy
ra
lênh
láng. "Đây
há
không
phải
là
Phong
Nguyên
Tắc
xưa
nay
rất
nổi
tiếng
là
gì?"
-
Người
quen
biết
thấy
anh
ta
bị
chết
thảm
hỏi
như
thế. Đa
số
người
khác
vừa
chứng
kiến
thảm
cảnh
đau
thương
ấy,
đều
kinh
ngạc
thốt
chẳng
ra
lời. Không
biết
một
người
nào
đó
từ
đâu
lên
tiếng:
"Tôi
biết
hắn
ta,
đây
chính
là
kẻ
bất
nhân
bất
nghĩa,
vì
lòng
tham
trộm
đàn
dê
đem
đi
bán,
cho
nên
chung
cục
rơi
vào
cảnh
huống
này
vậy!" Tiền
Mai
Khê
viết
quyển
Nghiệt
Đàm
thuật
một
sự
thật
nhân
quả
báo
ứng
như
sau: Tiết
Khánh
Quan
là
môt
người
chuyên
môn
sống
bằng
nghề
giết
dê.
Anh
ta
mở
một
cái
quán
nhỏ
bán
thịt
dê
và
nước
cốt
dê.
Nhân
vì
anh
ta
có
nghệ
thuật
nấu
xương
thịt
dê,
nước
cốt
dê
hương
vị
ngon
ngọt,
gần
xa
đều
biết
tiếng,
cho
nên
cửa
hàng
này
rất
nhộn
nhịp,
có
người
ở
từ
các
phương
rất
xa
cũng
tranh
thủ
đến
thử
một
lần
cho
biết. Sinh
hoạt
mỗi
ngày
mỗi
phát
đạt,
thu
nhập
càng
ngày
càng
gia
tăng,
chẳng
bao
lâu
anh
ta
trở
nên
giàu
có. Trong
số
bạn
bè
của
y
có
người
vốn
là
phật
tử
thuần
thành,
thường
khuyên
y:
"Anh
đã
giàu
có
như
thế
rồi,
ngàn
vạn
lần
không
nên
tham
lam
chi
nữa.
Nên
biết
rằng
gây
nghiệp
sát
càng
nặng
thì
chịu
quả
báo
càng
thê
thảm,
sao
bằng
sớm
thức
tỉnh
nhanh
chóng
rửa
tay
đổi
sang
nghề
khác,
ngoài
ra
cũng
phải
làm
một
ít
việc
thiện,
để
bù
lại
những
tội
lỗi
đã
qua,
mới
mong
tránh
khỏi
những
tai
họa
truyền
lại
cho
con
cháu". Lời
ngay
thì
trái
nhĩ,
những
lời
khuyên
chân
thành
của
bạn
bè
đều
không
lọt
vào
tai,
trái
lại
anh
ta
còn
tỏ
ra
vênh
váo,
hỉnh
mũi
cười
nhạt
nói:
"Cứ
đợi
xem
sao!
Tôi
không
hề
tin
nghiệp
báo,
cũng
như
các
luận
điệu
nhân
quả
mơ
hồ
ấy!" Đến
năm
TiêᴠKhánh
Quan
hơn
bốn
mươi
tuổi
bỗng
nhiên
phát
sinh
một
chứng
bệnh,
chỉ
thấy
mũi
y
ngước
về
phía
trước,
râu
mép
mọc
ra
giống
như
râu
dê,
hai
mắt
không
thần
sắc,
tinh
thần
tê
liệt. "Mặt
của
Tiết
Khánh
Quan
đã
biến
thành
mặt
dê!".
Tin
tức
này
không
có
chân
mà
truyền
đi
rất
xa.
Những
kẻ
hiếu
kỳ
vô
sự
đều
đến
nhìn
xem
cho
tận
mắt.
Thế
là
mọi
người
đều
chắc
lưỡi
cho
là
chuyện
ly
kỳ,
còn
anh
ta
thì
sầu
bi
ảo
não.
Thế
rồi,
anh
ta
mang
theo
một
túi
tiền
nặng
trịch,
đi
tìm
kiếm
danh
y
khắp
nơi,
nhưng
không
một
thầy
thuốc
nào
có
thể
làm
thay
đổi
được
bộ
mặt
dê
của
anh
ta
trở
lại
thành
diện
mạo
con
người;
thôi
thì
cứ
phó
mặc
cho
số
phận. Một
hôm,
nhân
có
công
việ,
anh
ta
đi
đến
tỉnh
An
Huy,
vì
bất
cẩn
nên
bị
rơi
xuống
sông.
Đến
khi
có
người
biết
được
báo
cho
nhà
chức
trách,
thế
là
họ
bủa
nhau
đi
mò
tìm,
nhưng
chung
cục
thi
thể
của
anh
ta
hoàn
toàn
không
tìm
thấy
đâu
nữa. Phong
cảnh
đường
núi
cực
kỳ
đẹp
đẽ,
trông
ở
đâu
cũng
xanh
biếc
một
màu.
Có
thể
nói
anh
chàng
Ngô
Đường
này
không
những
đến
đây
để
thưởng
ngoạn
phong
cảnh
núi
rừng,
mà
hai
cha
con
anh
còn
là
du
khách
thường
xuyên
của
ngọn
núi
này,
vì
anh
đế⮠đây
với
mụch
đích
săn
bắn. Lưng
của
Ngô
Đường
đeo
cung
tên
nếu
bảo
anh
ta
là
một
tay
thần
tiễn
thiết
nghĩ
cũng
không
sai
mấy.
Vì
lẽ
anh
ta
không
khi
nào
bắn
trật
mà
còn
là
một
tay
"Bách
bộ
xuyên
dương"
(Đứng
xa
hàng
trăm
bước
mà
bắn
trúng
lá
dương
liễu);
nghĩa
là
trong
tâm
tương
ứng
với
cánh
tay
buông
ra.
Bất
cứ
loài
mãnh
thú
nào
gặp
phải
anh
ta
thì
coi
như
đã
gặp
phải
khắc
tinh,
khó
mà
tránh
được
đại
nạn. Lúc
bấy
giờ,
thấy
từ
nơi
xa
xa
một
con
vật
có
sừng,
à,
thì
ra
đây
là
một
con
hoẵng.
Khi
thấy
con
nai
con
dễ
thương
này,
Ngô
Đường
đã
không
sinh
lòng
thương
cảm
mà
anh
còn
lập
tức
rút
lên
lắp
vào
cung,
rồi
buông
dây.
"Phặp"
một
cái
trúng
đích,
con
ai
con
ấy
lăn
quay
xuống
đất,
tắt
thở
ngay
lập
tức.
Ở
phía
trái
có
một
con
nai
lớn
chứng
kiến
cảnh
tượng
ấy,
mặc
dù
thấy
con
chết
đau
thương
đứt
ruột,
nhưng
phát
hiện
có
bóng
người,
nên
chỉ
kêu
lớn
một
tiếng
rồi
tìm
đường
lẩn
tránh. Thế
là
Ngô
Đường
cùng
con
ẩn
núp
trong
một
bụi
rậm,
đứng
rình
đợi
con
nai
kia
xuất
hiện
trở
lại,
đến
khi
thấy
nó
dùng
lưỡi
liếm
con
nai
con,
liền
lập
tức
buông
tên.
Con
nai
mẹ
ấy
cũng
kết
thúc
số
phận
một
cách
bi
thương,
nằm
quuống
đất.
Hạ
liên
tiếp
hai
con
nai
một
lúc
mà
trong
tâm
ý
của
Ngô
Đường
vẫn
chưa
cho
là
đủ,
bèn
đứng
chờ
một
lát,
thì
hình
như
có
một
con
nai
nữa
xuất
hiện
ở
bên
cạnh
đó,
liền
giương
cung
buông
tên,
con
nai
ấy
cất
tiếng
kêu
rồi
ngã
lăn
ra.
Nhưng
mà
tiếng
kêu
thê
thảm
ấy
hình
như
không
phải
là
tiếng
nai
kêu
mà
là
tiếng
người.
Vội
vàng
chạy
đến
nơi
xem
kỹ,
thì
hóa
ra
con
nai
mình
vừa
bắn
chết
lại
chính
là
con
mình!
Ôi
thôi,
phục
xuống
ôm
chầm
lấy
tử
thi
của
con
đau
đớn
tột
cùng. Lúc
bấy
giờ
bỗng
có
tiếng
văng
vẳng
trên
không
trung
truyền
đến:
"Này
Ngô
Đường,
ngươi
đã
biết
nỗi
đau
thương
khi
con
mình
chết
chưa?
Ngươi
không
hiểu
rằng
tình
thương
con
của
con
nai
với
tình
thương
con
của
người
nào
có
khác
gì?" Đoạn
anh
ta
tựa
mình
xuống
đất
trông
lên
trời,
trong
lúc
không
đề
phòng,
thì
bỗng
dưng
một
con
mãnh
hổ
hung
dữ
từ
trong
bụi
rậm
phóng
đến
nhanh
như
tia
chớp,
cắn
lìa
cánh
tay
mà
Ngô
Đường
dùng
để
bắn;
vậy
là
Ngô
Đường
nằm
trên
vũng
máu
mà
chết.
- o0o -
| Mục lục Tác giả || Tủ Sách Phật Học |
---o0o---
Vi tính : Hoa Giác - Quảng Thức
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật : 01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com