CHƯƠNG VII
Thuyền ghé bến Vũ Xá. Tay nải trên vai, Thị Ngọc theo mọi người lên bến.
Thuyền rời bến từ chiều ngày hôm qua; cả đêm Ngọc đã phải ngủ ngồi trong
khoang, như tất cả mọi người. Trời ban mai thật mát, Ngọc dự tính sẽ
không nghỉ dọc dường. Từ đây đến làng Hổ Sơn đi bộ cũng gần hết cả buổi
sáng. Ngọc muốn khi trời bắt đầu nắng thì nàng đã tới được chùa Nộn Sơn
trên núi Hổ để được ngồi dưới những hàng cây im mát trước chùa, Ngọc
thấy hăng hái thêm lên. Đây không biết là lần thứ mấy Ngọc về thăm Ni Sư
Hương Tràng. Mỗi chuyến đi như vậy ít nhất là mất ba ngày. Chuyến đi
chậm lắm. Lần này nàng xin phép quan Tư đồ Văn Huệ Vương được năm ngày
vì có lễ Phật Đản.
Khu chợ trước bến đã họp, tuy người bán còn đông hơn người mua. Băng qua
chợ, Ngọc đi vào con đường làng. Nàng gặp nhiều người trên con đường vào
chợ. Đi hết con đường ngang qua đình làng, nàng rẽ vào con đường lúa.
Lúa vụ Chiêm xanh mơn mởn. Hương lúa và hương buổi sáng thơm ngát. Ngọc
hít một hơi dài và cảm thấy khỏe khắn. Ngọc đã quen đường về huyện Thiên
Bản nên không cần phải dừng lại để định hướng. Nàng đi thoăn thắt. Thỉnh
thoảng nàng lại đổi tay nải sang vai khác.
Trong tay nải của nàng chỉ có hai thỏi mực tàu, một ngọn bút ô long,
mười bốn ngọn bút thường, năm trăm giấy và một ít bánh trái mà nàng mua
được chiều hôm qua trước khi xuống thuyền. Mực, giấy và bút là để cho Ni
Sư Hương Tràng, còn bánh trái là để cúng chùa. Ngọc đã mua toàn bánh
chay, bởi vì hôm nay là ngày mồng năm tháng tư, ở kinh đô người ta làm
bánh chay để bán nhiều lắm. Ni Sư Hương Tràng có dặn nàng kỳ này lên thì
mua cho Ni Sư một giấy để đóng quyển cho bọn học trò nhỏ của Ni Sư. Năm
trăm giấy chắc là tạm đủ. Chiều hôm qua Ngọc ghé quán sách của Thị Khanh
ở đầu phố Trường Thi, và Khanh đã gưỉ biếu chùa Nộn Sơn số giấy ấy, còn
mực và bút thì Khanh gửi biếu riêng Ni Sư Hương Tràng. Khanh đã có
chồng, không thể bỏ nhà để cùng với Ngọc đi thăm Ni Sư được.
"Hy vọng anh chàng sẽ may mắn hơn vào khóa Quý Sửu", Ngọc nói một mình.
Nàng nghĩ tới Vận, chồng của Khanh. Khanh lấy chồng từ năm Mậu Thân,
nghĩa là bốn năm về trước. Vận hồi đó đã là học sinh đại tập. Khoa Canh
Tuất, anh chàng thi hỏng. Khanh mở cửa hàng bán bút chỉ và sách vở học
trò tại phố Trường Thi, tiếp tục nuôi chồng ăn học. Vận muốn giúp đỡ vợ
nên mở lớp dạy học, thì giờ còn lại, Vận ôn tập bài vở chờ khoa sau. Một
năm sau hai người sinh được một cô bé đặt tên là Thúy. Vợ chồng Ngọc đã
đem cháu bé về trình điện với Ni Sư Hương Tràng một lần. Từ đó, mỗi lần
về núi Hổ Sơn, Ngọc thường ghé hàng sách của Khanh để rủ nàng, nhưng
Khanh bận rộn quá, không đi với nàng được lần nào nữa cả.
Ngọc nhìn xuống chiếc áo nàng đang mặc và đôi guốc nàng đang đi. Ăn mặc
thế này mà về dưới ấy thế nào cũng bị Ni Sư quở. Ni Sư đã dặn là về chùa
thì nên ăn mặc cho đơn giản. Cái áo này và đôi guốc này dã là những vật
đơn giản nhất của nàng rồi, nhưng mà về tới đây, Ngọc mới thấy là chúng
không được đơn giản như ý mình muốn. Nàng không thể cải dạng làm một cô
gái quê. Từ năm mười hai tuổi nàng đã làm thị nữ trong cung. Hồi ở Chiêm
về nàng cũng còn ở lại trong cung để hầu hạ hoàng hậu Bảo Từ mấy tháng,
sau đó mới được ra làm gia nhân cho quan Tư đồ Văn Huệ Vương. Nàng đã
được công chúa Huyền Trân gửi gắm cho quan Tư đồ. Quan Tư đồ Văn Huệ
Vương là một người nổi tiếng về văn học. Ông là một người vừa có kiến
thức, vừa có độ lượng. Ông đã hứa với công chúa là sẽ coi Ngọc như con
ông và sẽ lo liệu việc gia thất sau này cho Ngọc.
Ngày công chúa xuất gia tại cùa Vũ Ninh để thành Ni Sư Hương Tràng, Ngọc
cũng muốn đi tu để được gần gũi công chúa, nhưng công chúa không cho.
Công chúa xuất gia và thọ Bồ Tát giới vào ngày Tết Nguyên Đán năm Kỷ
Dậu, nghĩa là chỉ sau ba tháng sau ngày từ Chiêm Thành về. Công chúa
xuất gia như vậy là đã được hơn ba năm. Suốt ba năm trời, lần nào về
thăm Ni Sư Hương Tràng, Ngọc cũng khẩn khoản xin Ni Sư cho Ngọc được
xuất gia để được sớm hôm gần gũi Ni Sư, nhưng Ni Sư đã nói với Ngọc rằng
xuất gia không phải là để được gần gũi một người khác mà là để lo việc
độ mình và độ người. Ni Sư có nói là Ni Sư chỉ khuyên Ngọc không nên
xuất gia chứ Ni Sư không hề cấm Ngọc xuất gia.
- Em có thể xuất gia nếu em muốn, nhưng chị sẽ không cho em ở cùng chùa
với chị. Người ta xuất gia là để phát túc siêu phương, chứ không phải để
thân cận và hầu hạ một người khác, dù đó là người mình yêu kính nhất.
Ngọc tự biết mình không thuộc về hạng người thông minh nhất đời, nhưng
lâu ngày nàng cũng nhận ra được lời nói của Ni Sư là đúng. Từ mười hai
tuổi Ngọc đã được hầu hạ và thân cận công chúa và đã quen lấy nổi vui
của công chúa làm nỗi vui của mình, đã quen lấy niềm lo của công chúa
làm niềm lo của mình. Được công chúa cho đi theo về Chiêm, Ngọc đã vui
mừng hết sức. Trong khi Khanh xin hồi hương để lấy chồng thì Ngọc lại
bằng lòng ở luôn bên Chiêm, sẵn sàng lấy chồng Chiêm để có thể được gần
gũi công chúa, và cũng là để làm cho giống công chúa. Ngọc đã lo sợ và
đau khổ theo với công chúa trong thời gian công chúa hoài thai Dayada.
Nàng đã từng xin công chúa cho nàng lên đàn hỏa một lần với công chúa.
Ngọc nhớ lần đó công chúa đã giận dữ mắng nàng. Đây là lần đầu tiên Ngọc
bị bà quở phạt nên Ngọc rất sợ hãi. Về tới Đại Việt. Ngọc những tưởng sẽ
được theo hầu công chúa suốt đời. Ai ngờ chỉ mấy tháng sau, công chúa đi
tu. Lần đầu tiên Ngọc xin công chúa đi tu, công chúa đã bảo là không
nên:
- Em hãy về nương náu dưới cửa quan Tư đồ Văn Huệ Vương. Chị sẽ gửi gắm
em cho quan Tư đồ. Ngài là một người có nhân đức lớn, rồi em hãy nghĩ
đến chuyện chồng con. Đừng nghĩ đến chuyện đi tu. Không phải ai cũng đi
tu được đâu.
Từ hôm đi thăm Thượng hoàng trên núi Yên Tử về, công chúa không cho Ngọc
gọi công chúa là "lệnh bà " nữa, và bắt Ngọc gọi bà là chị. Ban đầu Ngọc
không chịu, bởi vì nàng thấy xưng hô chị em với công chúa rất khó, nhưng
sau khi nghe công chúa kể chuyện chú điệu Pháp Đăng và thấy thái độ
cương quyết của công chúa. Ngọc phải cúi đầu tuân lệnh. Tuy vậy nàng
phải tập cả tháng mới sử dụng được hai tiếng "chị" và "em". Không ngờ
hai tiếng ấy mà lại khó nói đến thế.
Lần này về chùa Nộn Sơn, Ngọc sẽ báo tin cho Ni Sư Hương Tràng biết là
đến tháng mười năm nay nàng sẽ đi lấy chồng. Quan Tư đồ đã hứa gã nàng
cho tú tài Phạm Hữu Sinh ở huyện Nam Sách tỉnh hải Đường. Nàng đã được
thấy mặt Sinh tại nhà quan Tư đồ. Sinh đỗ tú tài khoa Mậu Thân, tuổi
chưa tới ba mươi. Quan Tư đồ nói về Ngọc rằng Phạm Hữu Sinh một người có
tương lai. Ngài đã gặp Sinh trong chuyến thăm Yên Sinh năm ngoái, Ngọc
là con mồ côi nên quan Tư đồ coi nàng như là con, ông đã nhận sính lễ
của họ Phạm vào ngày Thượng nguyên năm nay. Những lần về viếng thăm chùa
Nộn Sơn. Ngọc thường đem tin tức kinh kỳ cho Ni Sư Hương Tràng. Tuy vậy
Ni Sư chỉ muốn biết tình hình chính sự và sức khỏe của mọi người thôi
chứ không bao giờ muốn nghe những chuyện thị phi trong triều. Biết tính
của Ni Sư Hương Tràng, Ngọc không dám đem những chuyện ấy kể cho Ni Sư
nghe nữa. Nhưng mà hàng ngày Ngọc được nghe nhiều quá; nàng có cảm tưởng
là nếu không thổ lộ được với ai thì nàng ngột ngạt đến chết mất, vì vậy
mà hễ khi nào có dịp là Ngọc ghé hàng của Khanh để tâm sự. Tánh Ngọc thì
ưa nói, mà Khanh lại là người có thể ngồi nghe hàng giờ không biết chán,
cho nên Ngọc rất ưa đến thăm Khanh.
Một điều mà Ngọc không hiểu được, hoặc chưa hiểu được, là từ ngày công
chúa Huyền Trân về nước, Ngọc nhận thấy bà như là trẻ lại. Ngọc nhớ là
từ ngày sứ Chiêm qua dâng lễ hỏi cho đến suốt thời gian ở cung điện nước
Chàm, tuy rằng thỉnh thoảng công chúa có cười có nói, có vui có đùa,
nhưng thực ra cuộc sống lúc nào cũng như bị bao bọc hoặc vương vấn trong
một bầu không khí nghiêm cẩn và lo lắng. Công chúa đã được Thượng hoàng
đưa đi viếng thăm kháp nơi trên núi Yên Tử bảy hôm. Ngày lên đón bà ở
chùa Long Động, Ngọc thấy bà tươi vui như một đứa trẻ con. Công chúa như
đã tái sinh trong một kiếp khác. Ngọc Thấy như Thượng hoàng đã hóa phép
cho công chúa đầu thai lại trong một kiếp khác. Đúng là nàng công chúa
trẻ năm xưa trong cung cấm đó, nhưng bây giờ công chúa chín chắn hơn,
dịu dàng hơn và cũng độ lượng hơn. Mỗi khi Ngọc nhắc tới vua Chế mân và
Thế tử Chế Đa Gia, công chúa không còn tỏ vẻ sầu não khóc thương nữa.
Không phải là bà muốn quên. Bà vẫn nhớ và vẫn thường nhắc đến vua Chàm
và Thế tử Chế Đa Gia, nhưng trong giọng bà, Ngọc cảm thấy có một niềm
tin, như là vua vẫn còn đó và Thế tử vẫn còn đó, ngay bên cạnh bà.
Tuy vậy, Ngọc chưa bao giờ thấy công chúa buồn như hôm bà nghe tin
Thượng hoàng băng trên am Ngọa Vân ở núi Yên Tử. Ngọc còn nhớ đó là ngày
mồng ba tháng mười một năm Mậu Thân. Trúc Lâm đại sĩ thị tịch vào nửa
đêm ngày mồng một. Trưa hôm sau chùa Báo Ân nhận được tin dữ, và chùa
Báo ân cho người đưa tin vào cho hoàng đế Anh Tông. Lúc ấy, Ngọc đang ở
bên chùa Tư Phúc với công chúa. Vua Anh Tông cho triệu công chúa về. Khi
nghe tin Thượng hoàng viên tịch, công chúa đã vào tẩm điện một mình và
đóng cửa lại. Một ngày một đêm công chúa không ra khỏi tẩm điện. Điều
làm Ngọc công chúa không ra khỏi tẩm điện. Điều làm Ngọc ngạc nhiên hết
sức là công chúa không muốn lên núi Yên Tử để nhìn mặt Thượng hoàng một
lần chót, dù hoàng đế Anh Tông đã cho người triệu mời. Cả nước bàng
hoàng thương tiếc khi nghe tin Thượng hoàng mất. Cả nước như cảm thấy mồ
côi. Ngọc nghe nói là Sơn Môn Yên Tử đang tổ chức lễ trà tỳ đưa nhục
thân Thượng hoàng lên đàn hỏa. Người thống lãnh sơn môn Yên Tử là đại sư
Pháp Loa đứng ra chủ trương hỏa đàn. Ngọc không được lên dự lễ trà tỳ
nhưng Ngọc nghe nói là số người lên núi dự hỏa đàn đông có tới hàng vạn.
Khắp nước, toàn dân để tang. Trong suốt mười lăm hôm, chùa nào trong xứ
cũng đêm ngày giộng chuông cầu nguyện. Công chúa vẫn không chịu lên núi
dự hỏa đàn. Bà quỳ suốt ngày trong chánh điện chùa Tư Phúc cho đến khi
tháp đựng xá lợi của Thượng hoàng được rước từ núi Yên Tử về chùa. Chưa
đầy một tháng sau đó, công chúa xuất gia.
Công chúa được xuất gia tại chùa Vũ Ninh và Quốc sư Bảo phác đã đứng ra
làm lễ truyền giới cho bà. Thầy Bảo phác là một trong những cao đệ của
Thượng hoàng, hồi đó chưa được triều đình suy tôn làm quốc sư. Ngay sau
khi thọ giới, Hương Tràng được nhập chúng tại chùa Vũ Ninh để theo học
Phật pháp cùng với một số các vị Ni sư trẻ tuổi khác. Quốc sư Bảo Pháp
đích thân đứng ra giảng dạy. Tháng mười năm Kỷ Dậu, bà được Quốc sư ủy
về trú trì chùa Hổ Sơn ở huyện Thiên Bản. Chùa tọa lạc trên một hòn núi
đá thuộc xã Hổ Sơn ở tỉnh Nam Định, cách phủ Thiên Trường khoảng nửa
ngày đường. Từ kinh thành Thăng Long muốn về thăm Ni Sư, Ngọc phải đi
thuyền xuôi sông Nhị Hà và đến quận Mỹ Lý thì lên bến Vũ Xá. Từ bến Vũ
Xá, nàng đi bộ một hồi rồi tới ra đường cái dẫn về huyện lỵ Thiên Bản.
Lần đầu tới núi Hổ Sơn, Ngọc đã gặp bé Tuất dươi chân núi và con bé này
đã đưa nàng lên chùa. Hồi đó Tuất mới chín tuổi, năm nay nó đã lên mười
một. Nó là con gái của bác Trực, người cày ruộng cho chùa, nhà ở ngay
dưới chân núi. Tuất là một trong những đứa học trò đến học hàng ngày
trên chùa Hổ Sơn. Trong khi Ngọc ngồi chờ ở khách đường, Tuất đi vào
tăng đường sát ngay một bên để báo cho Ni Sư Hương Tràng biết là có
khách. Ngọc nghe tiếng Hương Tràng hỏi nhỏ: "Khách nào vậy con?" và
giọng trẻ thơ của Tuất trả lời: "Thưa Ni Sư con không biết, cô ấy mặc áo
đẹp lắm". Ngọc không nhịn được cười.
Hôm ấy Ngọc mặc áo đẹp thật. Ở nhà quê không có ai ăn mặc như thế. Ni Sư
Hương Tràng đi ra. Trông thấy Ngọc, Ni Sư mừng rỡ. Hai chị em nói chuyện
hồi lâu thì tới giờ công phu. Ngọc theo đại chúng lên chánh điện. Có tất
cả bốn vị Ni Sư, vị lớn nhất chừng bốn mươi tuổi; sau này Ngọc được biết
bà pháp danh là Tĩnh Quang. Ni Sư Hương Tràng đã nhường chức tự trưởng
cho bà. Ni Sư Hương Tràng năm ấy vừa mới hai mươi hai tuổi. Hai vị kia
trẻ hơn, một cô khoảng hai mươi mốt và một cô khoảng mười bảy tuổi. Sau
này Ngọc biết có thể lớn pháp danh là Đàm Thái còn cô nhỏ pháp danh
Hương Nghiêm. Hai vị này, cũng như Ni Sư Hương Tràng, đã từng được học
Phật pháp với quốc sư Bảo Phác tại núi Vũ Ninh.
Tối hôm đó, Ngọc ngủ lại chùa. Ni Sư Hương Tràng cười bảo nàng lần sau
tới chùa thì hãy nên ăn mặc đơn giản hơn bởi vì ở đây chỉ là một ngôi
chùa miền quê. Ngọc nhìn cách phục sức của mình rồi nhìn qua cách phục
sức của Ni Sư. Ai mà nhận ra được rằng người ngồi bên kia đã từng là một
cô công chúa và là một bà hoàng hậu? Chiếc áo nâu thẫm mầu của Ni Sư là
một chiếc áo may bằng vải thô sơ. Đôi dép cỏ kia cũng chỉ được dùng
trong tăng phòng. Sau này Ngọc biết là ngoài vườn ươm, Ni Sư cũng đi
chân đất như mọi người. Bà đã biết cầm cuốc, cuốc đất làm cỏ, gieo hạt,
bỏ phân và săn sóc vườn ương. Cô đệ tử tí hon của bà, bé Tuất, đã dạy bà
làm được nhiều chuyện. Có lần cầm lấy bàn tay của Ni Sư, Ngọc thấy bàn
tay đó không còn mềm nhũn như bàn tay của mình. Có những nơi chai cứng
vì bàn tay đã biết chấp tác ngoài vườn ngoài ruộng. Trên đầu, Ni Sư cũng
chít một chiếc khăn nâu như mọi Ni Sư khác. Bà còn trẻ lắm, dung quang
tuy vẫn tươi mát không khác ngày xưa, nhưng phong thái của bà thật khác.
Dấu vết của quyền quý đã hoàn toàn bị gột sạch. Bà đơn giản như một cây
cau và lành mạnh như một tàu lá chuối mới. Trong những lần viếng thăm
trước, Ngọc nhận thấy rằng công việc chùa dù có bề bộn đến mấy, Ni Sư
Hương Tràng vẫn giữa được vẻ thung dung không bao giờ để mất niềm vui và
nụ cười. "Miễn được lòng rỗi, chẳng còn phép khác", Ni Sư thường nhắc
đến tám chữ ấy, nói là lời dạy của Thượng hoàng Trúc Lâm đại sĩ. Ngọc
chẳng hiểu gì, nàng lấy làm lạ khi thấy Ni Sư làm đủ mọi thứ việc mà vẫn
có thời gian để tâm săn sóc cho mọi người, kể cả những đứa bé ốm đau
dưới xóm. Chùa chỉ có ba mẫu ruộng, lúa gặt chỉ tạm đủ ăn cho chùa cho
gia đình bác Trực. Vậy mà khi hoàng hậu Bảo Từ tỏ ý muốn cúng dường cho
chùa hai mươi lăm mẫu ruộng tốt, Ni Sư đã từ chối không nhận. Uy Huệ
Vương cúng mười mẫu, Ni Sư cũng từ chối. Mới đây quan sở tại huyện Thien
Bản muốn cúng năm mẫu ruộng này đã gây ra một ít xáo trộn trong chùa. Ni
Sư Tĩnh Quang, trú trì chùa Nộn Sơn đã từng bàn bạc với Ni Sư Hương
Tràng nhiều lần về việc ruộng đất. Cũng như những giới thân cận chùa, Ni
Sư trú trì nghĩ rằng nếu có thêm ruộng thì chùa sẽ làm được nhiều Phật
sự, và các Ni Sư sẽ đỡ vất vả hơn, nhưng Ni Sư Hương Tràng nhất định
không chịu. Chính Ngọc cũng không hiểu tại sao Ni Sư lại phụ lòng thành
của các thí chủ ấy như thế. Đầu năm nay, hoàng hậu Bảo Từ đã lấy năm
trăm mẫu ruộng ở quê nhà để cúng vào chùa Báo Ân. Có ruộng nhiều như thế
thì các thầy mới rảnh rang để mà lo Phật sự và mới có thể phương tiện để
hành đạo chứ. Ngọc biết các Ni Sư tại chùa Nộn Sơn rất cần phương tiện
hành đạo. Ni Sư Hương Tràng thường phải lo thuốc men, giấy bút cho các
em vào những lúc họ túng quẫn nữa. Có thêm mấy chục mẫu ruộng tốt thì
tha hồ mà làm những việc đó. Ngọc nghĩ mãi mà không hiểu được ý của Ni
Sư Hương Tràng. Thật ra không phải Ni Sư thù ghét gì Bảo Từ hoàng hậu và
ngài Uy Huệ Vương. Trái lại Ni Sư rất có cảm tình với các vị ấy. Vậy thì
tại sao Ni Sư phụ lòng họ, từ chối không nhận ruộng cho chùa? Cái vườn
ương mà Ni Sư đã để thật nhiều thời gian chăm sóc có đem lại cho chùa
được bao nhiêu lợi tức đâu? Trong vườn ương ấy. Ni Sư ương nhiều thứ cây
như tùng, bách, hải đường, trắc bách diệp, đinh lăng, mẫu đơn, hoa giấy
.. Các Ni Sư thường để thì giờ để chẻ tre đan những cái giỏ lớn bằng
trái bí ngô. Những chiếc giỏ này dùng để đựng cây. Những cây tùng lớn
chừng ba bốn gang tay chẳng hạn được bứng lên với cả mô đất và trồng lại
trong các giỏ tre ấy. Suốt mùa thu, cứ mỗi tháng hai lần, bác Trực và bé
Tuất đi thuyền chở cây lên trên kinh thành để bán. Các nhà quý phái
thường đến mua cây về trồng trong vườn nhà họ. Các chùa trong vùng rất
ưa trồng những loại tùng, bá và đại mộc khác. Nhiều thí chủ thường đến
mua cây của vườn ương để về cúng dường cho chùa. Ni Sư Hương Tràng có vẻ
cưng quý cái vườn ương của chùa hết sức. Ni Sư nâng niu từng lá cây,
từng cành cây, săn sóc và chăm chút làm như mỗi cây là một vị hoàng tử
không bằng. Ngọc biết khu chợ mà bác Trực thường hay chở cây đến bày
bán. Nàng thường giới thiệu cho những người quen biết đến mua cây. Từ
ngày Hương Tràng về trú trì chùa Nộn Sơn, Ni Sư không còn liên lạc với
ai ở kinh đô. Có lẽ Ngọc là người thí chủ duy nhất của chùa từ kinh
thành xuống, mà Ngọc có tiền bạc hay vật dụng gì nhiều để cúng chùa đâu.
Ba bốn tháng nàng mới được về một lần, mỗi lần như thế nàng chỉ đem về
cúng dường được một ít giấy mực, đèn sáp, trầm hương và bánh trái. Ni Sư
không nhận lễ cúng dường của bất cứ ông hoàng bà chúa nào nhưng rất vui
lòng nhận những thức mà Ngọc mang về có vẻ vui mừng nữa là khác. Điều
này khiến nàng sung sướng và cảm thấy gần gũi bà công chúa năm xưa không
biết chừng nào. chỉ có một điều làm Ngọc ấm ức đó là những chuyện người
ta bàn tán có liên hệ tới Ni Sư Hương Tràng mà nàng không thể nào chia
xẻ với Ni Sư được. Có một lần quan Tư đồ hỏi Ngọc về cuộc hành trình
gian nguy của Hương Tràng từ cửa biển Thị Nại về đến kinh đô, và Ngọc đã
đem hết sự thực để kể lại cho ngài nghe, từ lúc thuyền của hoàng hậu ra
làm lễ rước linh vua Chế Mân ngoài khơi đến khi thuyền bị bão phải tấp
vào bến để sữa chữa và sau đó là thời gian mật trú tại dinh quan Kinh
Lược Châu Hóa để chờ đợi Thế tử Chế Đa Gia. Quan Tư đồ thở dài, than
rằng miệng lưỡi thế gian người đời ác độc đã thêu dệt nên chuyện hoàng
hậu đi lại với quan Thượng Thư Tả Bộc Xa trong suốt thời gian lênh đênh
trên biển. Ngọc tức lắm, chuyện đó làm sao xảy ra được. Quan An Phủ Sứ
và tất cả quan quân và thủy thủ trên thuyền đều biết rõ như vậy. Ấy thế
mà người ta vẫn dựng đứng câu chuyện lên được. Quan Tư đồ dặn Ngọc đừng
thuật lại những điều thị phi cho Ni Sư nghe và Ngọc phải vâng lời. Ngài
lại còn nói cho Ngọc nghe nhiều chuyện khác nữa, những chuyện này cũng
làm cho Ngọc bực tức không kém. Hồi công chúa mới được rước về Chiêm,
trong triều ccó thể người bất mãn, Họ nói cành vàng lá ngọc ở kinh đô mà
sao lại đem trao cho bọn mọi rợ trong rừng. Họ đạt ra cả những bài hát
mà chế nhạo. Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán thằng Mưòng
nó leo. Thật là ếch ngồi đáy giếng, chỉ xem trời bằng vung. Một nước văn
minh như nước Chiêm và một ông vua giỏi như vua Chế Mân mà người ta dám
cho là mọi rợ. Thật chẳng gì thái độ khinh miệt của bọn nhà Tống đối với
nước Đại Việt. Người ta lại hát: Tiếc thay hạt gạo trong ngần, đã vò
nước lã lại vần lửa rơm. Ý muốn nói xấu vừa cả công chúa vừa cả quan
Thượng thư. Không ai biết lệnh bà bằng mình, Ngọc nghĩ. Một vị thiên tử
khách còn không động được tới bà, đừng nói quan Thượng thư Tả Bộc Xa.
Mỗi khi nghĩ đến chuyện này, Ngọc lại thấy bừng bừng cơn giận ở trong
lòng nàng, nhưng nàng cũng biết quan Tư đồ ngài nói phải. Nàng không
được đem những chuyện này làm bẩn tai Ni Sư.
Ở xã Hổ Sơn, xã quan có rước một ông đồ tên là đồ Tân về dạy học. Lớp
của ông đồ Tân chỉ là một lớp tiểu tập Học trò từ những đứa mới học vỡ
lòng còn để chỏm cho đến những đứa mười ba mười bốn, đếm được cả thảy
hai mươi mốt đứa. Tất cả đều thuộc về hạng đủ ăn hoặc khá giả. Tại chùa,
Ni Sư Hương Tràng cùng các Ni Sư Đàm Thái và Hương Nghiêm cùng các Ni Sư
cũng có dạy một lớp học trò nho nhỏ, tất cả đều là con nhà nghèo. Ni Sư
Hương Tràng đã đến từng nhà và xin cho từng đứa tới học. Lớp học bắt đầu
mỗi ngày từ đầu giờ Thân và chấm dứt vào cuối giờ Thân, chừa các ngày
Rằm, mồng một và các ngày vía lớn. Bà khuyên cha mẹ các em cố gắng cho
các em để dành một ít chữ vào bụng, để sau này không người đời lừa gạt.
Cũng vì lẽ đó nên trong lớp cũng có tới bảy đứa con gái, mà đúng đầu là
bé Tuất. Lớp học của chùa có tất cả mười sáu em. Có mấy đưá chăn trâu
cho nhà giàu đến tối mịt mới về nên không được theo học, và các Ni Sư
chưa biết làm cách nào để giúp chúng. Bọn con nít nghèo được đi học thì
sướng lắm. Chúng được học sách Tam Tự Kinh, Ấu Học Ngũ Ngôn Thi và Sơ
Học Vấn Tân. Chúng được học cả Kinh Ông Bụt nữa. Phần lớn các sách này
Ngọc đã mua hoặc xin lại tại nhà sách của Khanh ở phố Trường Thi, Năm
trăm giấy mà Ngọc đang mang trong tay nải cũng là để đóng tập cho học
trò để chúng tập viết.
Suy nghĩ liên miên bất giác Ngọc thấy mình đã đi tới chợ Huyện. Chợ vẫn
còn đông người mua bán. Thấy có bán kẹo vừng, bánh ú, và bánh gai, Ngọc
ghé lại. Nàng đặt tay nải xuống, lần lưng lấy tiền mua mỗi thứ một ít,
bảo bà hàng gói vào lá chuối khô cẩn thận rồi mới mở tay nải bỏ tất cả
vào. Rời chợ, Ngọc đi về phía cầu. Từ đây về tới xã Hổ Sơn không còn xa
nữa. Kỳ này Ngọc sẽ được ở lại chùa ba hôm. Có thể đây là lần chót nàng
về thăm chùa trước khi đi lấy chồng. Chỉ còn sáu tháng nữa thôi chứ có
lâu lắc gì đâu. Ngọc tự dặn là chỉ báo tin cho Ni Sư Hương Tràng biết mà
thôi. Các Ni Sư khác mà biết thì nàng thẹn chết. Năm nay Ngọc cũng đã
hai mươi ba rồi. Nhớ ngày nào nàng còn nằng nặc đòi đi chung với công
chúa. Bây giờ nàng mới biết rằng Ni Sư Hương Tràng nói đúng. Từ ngày rằm
tháng giêng đến giờ, không ngày nào mà Ngọc cũng không nghĩ đến chuyện
chồng con, mà Ngọc có muốn nghĩ đến chuyện đó đâu. Tự nhiên mà cái óc
nàng cứ hướng về cái ý nghĩ đó. Thật cũng lạ lùng. Cái anh Tú Sinh ấy cả
đời mình có quen biết đâu, tự dưng gặp một lần tại nhà quan Tư đồ rồi
thì không quên được cái khuôn mặt của anh chàng nữa. Người ta nói là
duyên nợ, Ngọc nghĩ đúng thực. Giả sử bây giờ mà Ni Sư Hương Tràng cho
phép nàng được đi tu theo bà không biết Ngọc sẽ trả lời thế nào. Nàng
thấy rõ lòng mình và thầm cám ơn Ni Sư. Ngọc ước ao rằng sau khi về nhà
chồng nàng sẽ được phép lâu lâu về huyện Thiên Bản một lần để thăm Ni
Sư. Có thể là chồng nàng sẽ đi với nàng. Ngọc rất muốn giới thiệu anh Tú
Sinh với bà.
Ngọc đã về tới chân núi Hổ Sơn. Nàng nhắc tay nải đổi sang vai bên trái
và rảo bước. Trời đã nắng gắt. Văng vẳng có tiếng chuông chùa. Trưa miền
quê yên tĩnh lạ. Giờ này chắc trên chùa đang cúng ngọ. phải rồi, Ngọc
nghe có tiếng mõ xem lẫn tiếng tụng kinh đều đều. Tới chân núi, Ngọc ghé
vào nhà bác Trực. Trông thấy nàng, bác Trực gái mừng rỡ:
- Cô Ngọc, quý hóa quá! Thưa cô, cô mới về chơi?
Hỏi ra, Ngọc biết bác trai còn ở ngoài ruộng, và bé Tuất hiện đang ở
trên chùa. Ngọc xin nước uống. Bác Trực gái nhanh nhẹn đi lấy bát. Bác
ra mở chum nước mưa lấy chiếc gáo dừa múc đầy bát và mang vào cho Ngọc.
Ngọc cám ơn và thong thả uống hết bát nước mưa một cách ngon lành. Nước
mát quá. Nàng đem bát úp lại trên chạn, rồi nói với bác Trực gái:
- Cháu lên chùa rồi chiều mát sẽ trở xuống thăm bác và bác trai.
Bác trực gái tíu tít:
- Vâng, vâng, chiều xin mời cô xuống chơi. Bố nó thấy cô chắc là mừng
lắm.
Ngọc xách tay nải đi ra cổng. Vòng sang phía trái, nàng theo con đường
tắt leo lên núi. Nàng dừng lại để nghỉ nhiều lần dưới những bóng cây râm
mát. Lên tới hông thiền đường Ngọc thấy năm bảy em bé đang quây quần bên
sân cảnh. Thoáng thấy bóng Tuất trong số đó, Ngọc đi tắt sang. Các em bé
đang bận rộn dựng khung vườn cảnh Lâm Tì Ni để sáng mai làm lễ Phật Đản.
Thấy Ngọc, Tuất reo lên và chạy ra đón nàng. Con bé mắt sáng, tóc xõa
ngang vai. Nó mặc áo cánh nâu và quần nâu.
- Cô Ngọc, cô Ngọc, Tuất ôm lấy cánh tay Ngọc. Nó đỡ cái tay nải của
Ngọc đặt xuống trên thềm đá, và dương mắt nhìn Ngọc trìu mến. Ngọc xoa
đầu con bé, hỏi:
- Ni Sư Hương Tràng làm gì trong chùa hả con?
- Thưa cô, Ni Sư của con không có trong chùa. Ni Sư xuống xóm dưới từ
hồi sáng chưa về. Mời cô vào chùa. Có Ni Sư tự trưởng trong ấy và hai Ni
Sư Đàm Thái và Hương Nghiêm nữa.
Tuất nhắc tay nải lên vai. Nó đợi Ngọc đi trước rồi bước theo sau. Ngọc
hỏi:
- Ni Sư Hương Tràng đi xuống xóm dưới làm gì hả Tuất? Chừng nào Ni Sư
mới về?
Ngọc hơi thất vọng. Nàng nghĩ bụng mình về đây là để được gần gũi Ni Sư
Hương Tràng càng nhiều càng quý. Vậy mà Ni Sư lại không có mặt tại chùa,
nhưng Ngọc lại tự cười là mình nóng nảy. Chậm lắm là nhá nhem tối, Ni Sư
của nàng thế nào cũng về tới chùa.
Vào khác đường; Ngọc chắp tay kính cẩn chào Ni Sư Tĩnh Quang, rồi đỡ lấy
tay nải. Nàng bảo bé Tuất xuống lấy vài cái mâm gỗ. Rồi nàng sắp các thứ
trong nải ra: Một mâm đựng bánh trái và kẹo, còn một mâm đựng bút, mực
tầu và giấy bản. Ngọc bưng từng mâm đặt trên bàn. Ni Sư Tĩnh Quan bảo
Tuất đi rót nước hồng mai mời Ngọc.
Sau khi biết Ngọc sẽ ở lại, được ba hôm, Ni Sư tự trưởng nói với nàng:
- Quý hóa quá. Thế nào Ni Sư Hương Tràng cũng được nghe nhiều chuyện
trên kinh sư. Cô đi đường có mệt lắm, xin mời cô qua liêu phòng nghỉ
ngơi chốc lát. Ni Sư Hương Tràng xuống xóm cũng sắp về tới nơi đây thôi.
Tội nghiệp, hồi trưa này đi gấp quá bỏ cả bữa ngọ trai.
Ngọc thưa với Ni Sư là nàng không mệt nên không cần vào hậu liêu nghỉ
ngơi. Ni Sư nói:
- Để tôi nói với Hương Nghiêm sang tiếp chuyện cô nhé. Tôi xin lỗi cô
một lát vì tôi phải về lo cho xong sớ phái cho ngày mai. Ngày mai có tới
năm mươi hai người xin thọ tam quy ngũ giới. Tối nay mình sẽ có dịp nói
chuyện.
Ngọc đứng lên đáp lễ Ni Sư Tĩnh Quang. Nàng định đi ra, tự tìm Ni Sư
Hương Nghiêm, nhưng Ni Sư đã bước vào, tươi cười:
- Chào chị Ngọc.
- Chào Ni Sư Hương Nghiêm.
- Xin chị gọi em bằng em thay bằng cô đi. Em còn nhỏ tuổi lắm mà. Ni Sư
Hương Nghiêm cười đến ngồi trước mặt Ngọc, và nắm lấy bàn tay Ngọc.
Ni Sư Hương Nghiêm còn trẻ thật. Năm nay cô mới vào khoảng mười chín
tuổi. Ngọc quen cô từ hồi cô còn đang theo học cùng một lớp Phật pháp
với Ni Sư Hương Tràng tại chùa Vũ Ninh. Cô rất mến phục Ni Sư Hương
Tràng, và thấy cô cũng thông tuệ và đức hạnh nên Ni Sư Hương Tràng đã rủ
cô về nhập chúng Nộn Sơn khi lóp học mãn khóa.
- Chị Hương Tràng của em đang đi tìm thầy thuốc cho thím Phụng, mẹ thằng
cu Lợi. Thím ấy đau nghén. Xem bộ đầy ngày đầy tháng rồi mà trong nhà
không có ai chăm sóc cả. Thằng Lợi thấy u nó ôm bụng la thì sợ cuống cả
lên. Nó không biết cầu cứu ai cho nên chạy lên chùa. Bố nó đi đánh giặc
Chiêm năm ngoái tử trận; nhà một mẹ một con thật là tội nghiệp.
Ngọc còn nhớ thằng cu Lợi. Nó là một đứa học trò của chùa Nộn Sơn và
cũng được các Ni Sư ở chùa thương yêu lắm. Nó cùng tuổi với Tuất.
Hương Nghiêm trông thấy giấy và bút trên mâm thì mừng lắm. Cô nói:
- Giấy và mực của chị mang về đấy hả chị Ngọc? Hay quá. Như vậy là có
quà Phật Đản cho các em rồi đấy. Tối nay em sẽ thức khuya để đóng cho
mỗi đứa một quyển tập.
Vừa lúc ấy, Ngọc nghe có tiếng cười nói xôn xao và vui vẻ trước sân
chùa. Nhìn ra, nàng thấy nhiều phụ nữ xa quang thúng. Có tới bốn bà và
ba cô gái. Họ đã đặt quang gánh trước nhà kho. Họ gánh hoặc đội lên chùa
nào là gạo, nào là nếp, nào là rau đậu, nào là trái cây. Ngọc biết đây
là những thứ mà dân làng đem lên để chuẩn bị làm cỗ chay để cho bách
tính đến ăn. Nghĩ cũng vui. Vào ngày Phật Đản, không có chùa nào trong
nước mà không làm cơm chay để cho bách tính đến ăn. Ngày ấy không ai sợ
đói cả, kể cả những người khố rách áo ôm, kể cả những ăn xin nằm đường.
Ai tới chùa cũng được tiếp đãi ân cần. kẻ quý phái tới cũng được ăn
những món ấy mà người nghèo đói tới cũng được ăn cùng những món ấy. Ngọc
tự nhủ sẽ vào nhà bếp để xem cách thức nấu chay ở thôn quê. Ở trong cung
điện, hoàng gia vẫn thường ăn chay nhưng các món chay ấy không phải là
những món dân dã.
Một lát sau, lại có nhiều người khác đến chùa. Họ gánh theo những lồng
chim và những vại cá. Ngọc biết chim và cá này là để phóng sinh vào ngày
Phật Đản. Sáng ngày mai, sau lễ tắm Phật sơ sinh, các Ni Sư sẽ mở lồng
cho chim bay. Đến chiều, cá mới được thả ở bờ sông. Dân chúng sẽ tụ tập
đông đảo dưới bến. Đọc kinh và thả cá xong, mọi người sẽ đốt đèn và thả
xuống nước. Hàng ngàn ngọn đèn sẽ trôi lấp lánh trên sông. Đây gọi là lễ
phóng đăng. Ngọc đã từng dự nhiều lễ phóng sinh và phóng đăng trên kinh
đô, nhưng đây là lần đầu nàng sẽ được dự lễ ấy ở miền thôn dã.
CHƯƠNG VIII
Đêm đã khuya, tiếng cười nói ở dưới nhà bếp đã im bặt. Các bà nữ cư sĩ
chắc đã đi ngủ rồi. Ni Sư Hương Nghiêm thầm nghĩ. Từ chiều đến giờ họ lo
chuyện bếp núc, nào ngâm đỗ, nào thái rau, nào sắp lại chén bát. Ngày
mai Phật Đản, cúng Phật chỉ cần một bát cơm nhỏ, nhưng chuẩn bị cơm chay
cho bách tính thì phải gánh này gánh nọ. Hương Nghiêm mỉm cười. Cô đang
ngồi trong liêu phòng của cô, bên ngọn đèn dầu lạc để đóng những quyển
vở làm quà cho học trò của cô ngày Phật Đản. Cô nghĩ tới những con chim
trong lồng. Chúng phải đợi cho đến gần giớ Tỵ mới được tự do. Còn bọn cá
nữa. Cá phải chờ cho đến sẵm tối ngày mai. Hồi chiều, sợ cá ngộp, cô đã
đi lấy nước trong đổ vào năm thỏng cá. Cô nhớ có một thỏng cá toàn là cá
con. Cô không biết trong số những con cá này, có con nào sẽ được bắt lại
vào ngày Phật Đản sang năm không. Trước khi được trả tự do, cả chim và
cá đều được làm lễ "quy y tam bảo". Chùa Nộn Sơn năm nay phóng sinh được
mười hai lồng chim và năm thỏng cá, kể ra chỉ được chừng hai trăm con
chim và ba ngàn con cá vừa lớn vừa nhỏ. Mua cá để phóng sinh, thường
thường người ta chỉ mua cá con. Để cứu cho được nhiều sinh mạng. Hương
Nghiêm nghỉ đến số lượng cá và chim được phóng sinh trong khắp lãnh thổ
nước Đại Việt. mấy triệu con, hoặc mấy chục triệu con nhỉ? Khắp nước đâu
đâu cũng có chùa. Có làng có tới hai ngôi chùa. Làng nào cũng có chùa.
Vậy thì ngày mai chim về trời cá về nước nhiều lắm. Nghĩ cũng vui. Đức
Phật đã nhập diệt cách đây gần hai ngàn năm mà mỗi năm nhờ Ngài không
biết bao sinh mạng được thoát nạn. "Nam Mô Đại Bi cứu nạn Quan Thế Âm Bồ
Tát", Ni Sư Hương Nghiêm thầm niệm. Ngày mai không ai bị đói cả. Đói thì
lên chùa, thế nào cũng được ăn no. Chùa nào cũng thế. Tập tục này đẹp
làm sao. Ngày mai, không những vô số chim cá được trả tự do mà các loài
sinh vật khác cũng không bị tàn hại. Ai cũng ăn chay và ai cũng cử sát
sinh. Khuya nay sẽ không ai mổ bò, sẽ không có ai cắt cổ gà, sẽ không có
ai chọc huyết lợn. Hương Nghiêm thầm cám ơn Đức Phật. Cô cảm động đến
nỗi cô muốn khóc. Mỗi năm chỉ có được một ngày như thế mà thôi. Một ngày
không giết chóc, một ngày không căm thù, một ngày không ai phải mang
bụng lép mà đi ngủ. Giá có ba trăm sáu mươi lăm ngày Phật Đản trong một
năm, hạnh phúc cho muôn loài là mấy.
Hồi chiều, Hương Nghiêm không dạy các em học mà chỉ hướng dẫn cho các em
treo đèn kết hoa trong khuôn viên chùa. Cô lại tập cho các em diẽn lại
cảnh đản sinh của Đức Phật. Con Tuất đóng vai hoàng hậu Ma Gia, quàng
trên vai và ngang lưng một tấm vải vàng, tấm vải vàng may y còn dư của
cô. Cái Thơm và cái Uyên đóng vai hai người thị nữ. Thằng cu Lợi đóng
vai ông tiên A Tư Đà, nhưng vì u nó ốm cho nên thằng Thông phải thay.
Thằng Thông tước lá chuối làm bộ râu giả đeo vào cằm trông đến buồn
cười. Nó đóng vai ông tiên A Tư Đà không hay bằng thằng cu Lợi. Cu Lợi
bắt chước giọng khàn khàn của một ông già nghe thật ngộ nghĩnh.
Lớp học ở chùa do Hương Nghiêm trông coi. Hầu hết là trẻ con nhà nghèo,
buổi sáng làm việc đỡ đần cho bố mẹ, xế trưa lên chùa học, chiều lại trở
về giúp việc trong nhà. Tất cả đều ngoan ngoãn, dễ dạy. Bé Tuất ước muốn
lớn lên được đi tu như các Ni Sư. Nó được phép lên chùa tập sư, nhưng sư
tỷ của cô là Hương Tràng có nói là tới mười sáu hay mười bảy tuổi nó mới
nên quyết định là nên đi tu hay không. Con bé học hành rất mau. Nó là
đứa khá nhất trong những đứa con gái trong lớp. Nhờ tập sự trên chùa. Nó
được học cả kinh kệ nữa, và đã có thể theo được buổi công phu chiều. Ban
đầu chính Hương Tràng đứng ra dạy trẻ. Sau đó cô nhường trách vụ cho cô
Hương Nghiêm.
Hương Nghiêm là con gái út của ông đồ Tân ở xã Xích Đằng thuộc Lộ Long
Hưng. Mẹ cô mất hồi cô lên mười. Cô có người anh tên Trần Công Tịnh đã
xuất gia từ lâu và hiện tu ở chùa Thụy Ứng tại huyện Tiên Lữ. Cô cũng
ưng được đi tu như anh, nhưng mãi đến năm mười sáu tuổi mới được ông đồ
cho phép. Cô được thế phát tại chùa Vũ Ninh, làm đệ tử của thiền sư Bảo
Phác. Cô là sư muội của Ni Sư Hương Tràng. Trong thời gian học tập tại
chùa Vũ Ninh, cô đã để ý đến phong thái của người chị đồng sư đó và đem
lòng kính mến. Khi Ni Sư Hương Tràng được chỉ định về trú trì chùa Nộn
Sơn, cô đã ngỏ ý xin thầy bổn sư đi theo để nhập chúng chùa này và cô đã
được toại nguyện.
Hương Nhiêm biết chị Hương Tràng chưa đầy bốn tuổi tu, nhưng cô vẫn kính
trọng chị như một bậc thầy. Cô cũng biết Hương Tràng vốn là một bà chúa,
nhưng trong giao tiếp hằng ngày, cô không thấy có gì ngăn cách giữa cô
và vị sư tỷ ấy cả. Chị Hương Tràng trong chiếc áo tu còn bình dị hơn cả
nhiều vị Ni Sư mà cô đã gặp. Cô gọi Hương Tràng là chị bởi Hương Tràng
ưa được gọi như vậy hơn là là được gọi bằng hai tiếng Ni Sư. Trong thời
gian thụ huấn tại viện Vũ Ninh, Hương Nghiêm đã có dịp gặp nhiều vị Ni
Sư, có người đã có trên hai mươi tuổi hạ, nhưng cô chưa gặp một vị Ni Sư
nào bình dị và tươi mát như Hương Tràng. Có người đi tu vì đau buồn việc
đời, có người đi tu vì tuổi lớn muốn được an thân nơi cửa Phật, nhưng
Hương Tràng đi tu rõ rệt là để được sống một cuộc đời thanh đạm nhưng
vui tươi và an lạc. Hương Nghiêm cảm thấy may mắn được tu học gần Hương
Tràng. Trong mấy năm gần gũi, cô đã họ đọc rất nhiều ở Hương Tràng. Cô
biết để có thêm kiến thức về Phật pháp cô có thể theo học bất cứ ở ni
viện nào, nhưng học được nếp sống và cách tu của Hương Tràng thì chỉ
sống gần Hương Tràng cô mới học được. Cô biết, nhiều vị Ni Sư học rộng
về giáo điều nhưng nếp sống của họ không toả chiếu được tinh thần cởi mở
và bao dung của đạo Phật. Họ quá khắt khe về mặt hình thức và sự khắt
khe đó có thể làm khô héo sơ tâm. Hương Tràng đã dạy cho cô biết rằng
giải thoát là chuyện sinh hoạt hằng ngày chứ không phải là một điều mong
cầu cho tương lai. Nếu ta không sống được đạo giải thoát ngay bây giờ
thì không bao giờ ta có giải thoát cả. Theo nhận xét của cô, nếp sống
của Hương Tràng là một nếp sống có giải thoát, và sự giải thoát này
Hương Tràng đã đạt được nhờ tháo gỡ được những sợi dây phiền não đã từng
ràng buộc tâm hồn. Cô thấy những lời giải thích của người chị đồng sư
rất đơn giản và dễ hiểu chứ không phiền mật như trong các bộ kinh luận
mà cô đã học. Hương Tràng có nói cô nghe về cái cảm giác an lạc mà Hương
Tràng được nếm lần đầu khi nghe chú Pháp Đăng tụng công phu sáng ở chùa
Long Động. Cô hiểu được rằng Hương Tràng đã trải qua cái cảnh "chết đi
sống lại" mới nếm được thiền vị đó. "Chết đi sống lại" là một từ ngữ
thiền. Hương Tràng đã từng chấp nhận lên nằm trên hỏa đàn để xác thân
cháy thành tro bụi và sau đó được trao cho một sinh mạng mới. Lần đầu
tiên trong hai mưới năm đầy của cuộc sống, Hương Tràng biết thế nào là
sự an lạc, dù chỉ mới là sự an lạc của cảnh giới sơ thiền, của sự buông
thả, của quyết định chấm dứt sự tìm cầu, và từ giây phút đó, Hương Tràng
đã quyết định không đánh mất một giây phút nào của cuộc sống; chị ấy đã
tìm thấy an lạc ngay trong công việc chấp tác hằng ngày như xay lúa, giã
gạo, bón phân, tưới nước. Hương Nghiêm đang quyết tâm học cho được nếp
sống đó. Cô biết mình còn non yếu hơn sư tỷ của cô về mặt kinh nghiệm
tâm linh, nhưng cô tin chắc là cô cũng có thể làm được như Hương Tràng.
Tuy là con một ông đồ, nhưng từ hồi ở nhà cô đã biết làm việc chân tay.
Về Nộn Sơn, cô thường tìm dịp chấp tác chung với Hương Tràng. Chùa có
kho chứa thóc, cứ mỗi tháng thì xay thóc và giã gạo một lần. Vào những
ngày rằm và vía lớn, chùa làm đậu phụ và chao, còn tương thì mỗi năm chỉ
làm có một lần. Những công việc ấy đều do các Ni Sư tự làm lấy, từ Ni Sư
tự trường lớn nhất cho đến cô là người trẻ nhất. Hương Tràng là người từ
nhỏ đến lớn được sống trong cung điện, vậy mà chỉ tập tành trong mấy
tháng, chị ấy cũng làm được như mọi người. Chính Hương Tràng đã dạy cho
cô cách thức vừa xay lúa vừa tập phép quán sổ tức. Bây giờ đây mỗi khi
xay thóc, nhìn cái tai cối xay quay, cô không còn để tạp niệm lôi cuốn
nữa. Cô an trú được trong chính niệm. Cô lại nghe lời Hương Tràng áp
dụng phép quán trong khi chấp tác các công việc khác như lau rửa thượng
điện, cắm hoa bàn Phật, rửa chén bát sau buổi ngọ trai. Hương Tràng
giảng cho cô nghe rằng điểm khác biệt căn bản giữa đời sống thế gian và
đời sống giải thoát là sự thực hành thiền quán ngay trong khi chấp tác.
"Nếu không tu trong khi chấp tác thì ta có khác gì người thế gian đâu?".
Hương Tràng dã nói như vậy. Cô thấy điều ấy quan trọng quá cho nên cô
quyết tâp áp dụng nó trong từng giây phút của cuộc sống hằng ngày.
Hương Nghiêm là một cô gái có ngăn nắp. Cô không ưa kéo dài công việc,
vì vậy mỗi khi làm một công việc gì, cô chỉ muốn làm cho chóng xong.
Công việc xong rồi, cô mới thấy an tâm và khỏe khoắn được. Sư tỷ của cô
bảo trong khi làm việc gì thì không nên mong cho việc chóng xong. Phải
tìm nguồn vui và sự thoải mái ngay trong công việc mình đang làm. Có một
hôm trong khi giảng sách Thượng Sĩ Ngữ Lục cho cô và Ni Sư Đàm Thái, sư
tỷ đã kể chuyện một vị thiền sư chứng ngộ trong khi khâu lại một chiếc
áo rách. Vị thiền sư này thường hoan hỷ khâu áo rách cho bạn đồng tu.
Vừa khâu, ông vừa thực tạp thiền quán. Ông tu ngay trong khi làm việc.
Một hôm trong khi khâu áo, ông thấu suốt được lẽ bất sinh bất diệt của
vạn pháp. Trong sáu mũi kim liên tiếp ông chứng được lục thông. Kể câu
chuyện ấy xong, Ni Sư Hương Tràng nói: Nếu vị thiền sư kia trong khi
khâu áo mà cứ mong khâu cho chóng xong để ngồi thiền, thì ngài đã không
đạt được chứng ngộ trong khi ngồi khâu áo.
Hương Nghiêm nhớ mãi câu chuyện ấy. Từ nhỏ, cô chuyên cần tập luyện, và
mỗi khi cái ý tưởng muốn làm cho công việc chóng xong tới với cô, cô lại
nắm ấy hơi thở của mình, thở những hơi nhẹ và dài, mỉm một nụ cười từ bi
đối với chính cô và tự nhắc rằng phải tu ngay trong khi làm công việc.
"Mình dại dột thật, cô nghĩ. Công việc thì nhiều, hết công việc này thì
tới công việc khác, nếu muốn làm cho xong thì bao giờ mà xong được". Cô
chợt nhớ tới bài kệ của một vị thiền sư:
Mầu nhiệm biết bao
Tôi gánh nước, chở củi
Mầu nhiệm biết bao
Tôi gieo bắp, trồng khoai.
Tại chùa Vũ Ninh, ngoài các bộ luật nghi, cô đã được học các kinh Lăng
Nghiêm và Lăng Già, Luật Đại Thừa Khởi Tín, Lục Bích Nham và Lục Đại
Tuệ. Giáo nghĩa của những kinh luận này rất uẩn áo, cô có cảm tưởng cô
chưa nắm vững được hết. Về Nộn Sơn, cô được sư tỷ cô dạy Kinh Niệm Xứ.
Đây là một cuốn kinh gối đầu giường cho người tu thiền. Ni Sư Hương
Tràng nói Kinh Niệm Xứ là một trong những kinh cổ nhất; ngày xưa, hồi
Phật còn tại thế, môn đệ của ngài đã tu tập theo kinh này rồi. Lời kinh
đơn giản và tính cách thực dụng. Kinh dạy về cách thở và cách quán niệm.
Sư tỷ của cô có nói là hồi ở Chiêm Thành bà đã có dịp nghe các tăng sĩ
tụng kinh này bằng tiếng Phạn.
Hương Nghiêm cảm thấy hơi tự hào vì cô có được một người chị đồng sư
khác thường. Sư tỷ của cô biết đọc cả Phạn ngữ. Đó là một điều rất hiếm
có. Tăng ni trong nước rất đông nhưng không mấy người biết tiếng Phạn.
Có lần Hương Tràng đọc bài tam quy bằng tiếng Phạn cho cô nghe. Thật lạ
tai, mà cũng thật sảng khoái.
Gần đây, Hương Nghiêm đã đạt được nhiều tiến bộ trong sự tu học. Cô có
dịp đọc lại kinh Lăng Già và thấy mình hiểu được những đoạn kinh mà năm
xưa cô không hiểu dù cô có cố gắng cách mấy nữa. Cô trở nên thanh thản
hơn và biết chú ý đến những chi tiết nhỏ nhặt của đời sống quanh mình,
những chi tiết nhắc nhở cho cô về tính cách mầu nhiệm của sự sống. Lòng
từ bi của cô hình như đã được nuôi dưỡng nhờ công phu thiền quán. Cô ít
còn trách cứ kẻ khác. Trái lại, cô đã trở nên bao dung và biết nhìn bằng
con mắt thương xót. Cô hiểu tại sao chị Hương Tràng đã có thể săn sóc
bọn con nít trong làng một cách tận tình làm như đứa nào cũng là con của
chị. Hương Nghiêm mơ ước một ngày kia về thăm ông đồ và nói cho cha của
cô biết về những diễn biến trong cuộc đời hành đạo của cô. Cô mong rằng
ông đồ cũng sẽ tu tập được như cô để có được sự an lạc trong lúc tuổi đã
về già.
Ở Nộn Sơn, cô là người gần gũi Hương Tràng nhất, vì cô vừa là em đồng sư
của bà mà cũng vừa là người biết lắng nghe bà nhiều nhất. Về vụ ruộng
đất, cô là người đầu tiên đồng ý với Hương Tràng là không nên nhận thêm
ruộng, dù đó là truộng của Bảo Từ hoàng hậu cúng dường. Cô biết hễ có
nhiều ruộng là có nhiều chuyện phức tạp đi theo, và điều đó làm phiền
nhiễu đến nếp sống tu học của đại chúng không ít. Hoàng hậu cúng ruộng
chắc là có chủ ý để cho các Ni Sư ở chùa được bớt cực nhọc tay chân,
nhưng hoàng hậu có biết đâu việc quản lý ruộng đất, canh phu và mùa màng
còn làm cho đại chúng mất thêm thì giờ tu học hơn nữa. Những kẻ khác
cúng ruộng cho chùa có thể là nể lòng hoàng gia, Hương Tràng từ chối là
phải. Quan sở tại muốn có công đức với Phật pháp thì cứ cầm cân nảy mực
cho hay, bênh vực kẻ yếu thế, trừng trị giới cường hào ác bá, đi, cần gì
phải cúng ruộng cho chùa? Ni Sư Tĩnh Quang ban đầu tỏ vẻ không vui vì
Hương Tràng không chịu nhận ruộng cúng dường, nhưng sau đó bà cũng chìu
theo ý kiến của số đông. Ni Sư Đàm Thái thì luôn luôn hoan hỷ và dễ dãi,
cho nên không có chuyện khó khăn gì. Vậy là việc ruộng nương được thông
qua, êm đẹp.
Hương Tràng cũng đã từng tâm sự với cô Hương Nghiêm về Thế tử Chế Đa
Gia. "Bây giờ nó đã hơn bốn tuổi rồi. Nó biết mẹ nó là bà hoàng
Paramesvari, chứ không biết hình dáng mẹ ra sao. Chắc chắn là bây giờ nó
nói toàn tiếng Chiêm và không hiểu được một tiếng Việt nào", Hương Tràng
đã từng nói với cô với đôi mắt long lanh. Hương Tràng chấp nhận hoàn
toàn cái ý kiến cho rằng Thế tử Chế Đa Gia là thuộc về sở hữu của hoàng
gia Chiêm và tin tưởng rằng Chế Đa Gia sẽ lớn lên trong sự nuông chiều
của mọi người bên đó, nhưng tin tức về cuộc chiến tranh Chiêm Việt cuối
năm ngoái đã làm cho Hương Tràng buồn đau. Không phải là Hương Tràng chỉ
lo cho sự an nguy của đứa con trai ở thành Phật Thệ. Chị ấy đau buồn vì
sự đỗ vỡ của tình hòa hiếu hai nước.
Mới hồi hôm, chị Ngọc tiết lộ cho Hương Nghiêm nghe những chi tiết thật
buồn về cuộc chiến. Lúc đó trời đã sẫm tối, Hương Tràng còn đi thăm mẹ
thằng cu Lợi chưa về. Trong tư dinh của quan tư đồ Trần Quan Triều, chi
Ngọc đã nghe được nhiều chuyện của triều đinh mà ít người được nghe.
Thượng hoàng băng vừa đúng ba năm thì có cuộc chiến tranh này. Người ta
đã đợi để cho hết tang ngài, nhưng người ta đã chuẩn bị cuộc chiến từ
lâu. Theo như chị Ngọc nói thì chính quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài là
người đầu tiên đưa ra ý kiến đánh Chiêm và cũng là người đề nghị kế
hoạch tạo ra nội ứng. Năm ngoái sứ thần Chiêm Thành được lệnh vua Chế
Chí đem vàng bạc và các vật qúy khác ra cống hiến Đại Việt theo thông
lệ. Sứ thần này vốn là trại chủ trại Câu Chiêm, làm quan trấn thủ ải địa
đầu của Chiêm Thành, ngay sát đèo Mây. Được sự đồng ý của vua Anh Tông,
quan hành khiển đã mật ước với sứ thần, báo rằng nếu cuộc hành quân
thành công thì sứ thần sẽ được cất nhắc lên địa vị lớn. Trong trận này,
vua Anh Tông thân chinh đem quân đi đường bộ, Huệ Võ Đại Vương Trần Quốc
Chẩn đem quân leo đường núi, còn Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem quân
đi đưòng biển. Tháng năm, quân Đại Việt bắt được vua Chế Chí đem về và
đưa em của vua là Chế Năng lên ngôi. Hiện vua Chế Chí được giam lỏng tại
hành cung Gia Lâm. Tuy được phong là Hiệu Thuân Vương, kỳ thực vua là
một người tù nhân của Đại Việt.
Hương Nghiêm thấu hiểu được tâm trạng cô đơn của người chị đồng sư. Cô
biết nếu nghe được tin này, sư tỷ Hương Tràng của cô sẽ buồn lắm. Mấy ai
hiểu được lòng của Trúc Lâm đại sĩ. Ai cũng xưng là Phật tử nhưng mấy ai
có được một trái tim và hai con mắt từ bi như ngài. Lắm khi đạo đức chỉ
là cái vỏ giả trá bên ngoài. Bên trong chỉ có tham vọng và dối trá. Danh
dự và tình nghĩa đối với họ có thiết yếu gì. Nói rằng cua Chế Chí phản
trắc phải đem binh qua chinh phục, nhưng vua Chế Chí phản trắc ở chỗ
nào? Biên giới tự ấy đến nay đâu có bị người Chiêm qua quấy nhiễu? Triều
cống thì nước Chiêm vẫn triều cống như thường lệ. Người Đại Việt đã từng
nguyền rủa nước Tống và người Nguyên vì sự hung dữ và óc xâm lược của
những nước này. Vậy thì tại sao người Việt lại vẫn không thôi dòm ngó
nước Chiêm và dở cái trò ỷ mạnh hiếp yếu? Những người chết ở đất Chiêm
như bố thằng cu Lợi là để làm gì và phục vụ cho ai? Trong khi đó, người
ta vẫn cho mình là người có đạo đức. Chính quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài
cũng cúng tiền để đúc chuông và tạo tượng! Thầy bổn sư của cô có kể
chuyện cả triều đình quy y thọ giới năm Giáp Thân, hồi lúc Trúc Lâm đại
sĩ còn sống. Năm ấy vua Anh Tông thỉnh ngài vào Đại Nội để xin thọ Bồ
Tát Tâm Giới tại gia. Thấy vua làm như vậy, bách quan trong triều đinh
cũng đều xin thọ tam quy và ngũ giới. Theo quốc sư Bảo Phác thì nhiều
người thọ giới là để làm cho vua vui lòng chứ có thật tâm tu hành gì
đâu. Đó là những người gió chiều nào theo chiều ấy. Đã đành rằng có
những người thực tâm tu học, nhưng số người giả danh thời nào mà chẳng
có. Điều quan yếu không phải là cái lễ quy y thọ giới; điều quan yếu là
sống cho đúng với tinh thần của quy giới. Sống có quy giới thì không thể
không tôn trọng tình nghĩa và danh dự, không thể không tôn trọng sự sống
của mọi hàm linh. Hương Nghiêm biết rằng sau khi đại sĩ Trúc Lâm thị
tịch, người ta đã xây chùa Vân Yên rất lớn trên núi Yên Tử, có cả lầu
chuông, lầu trống uy nghiêm. Am Lân ở lưng chừng núi cũng được xây cất
thành chùa Long Động với mái ngói lầu son rực rỡ. Các chùa Báo Ân, Vĩnh
Nghiêm và Sùng Nghiêm được trùng tu rất đồ sộ. Ruộng cúng vào các chùa
ấy có đến mấy ngàn mẫu. Cô nghe nói rằng chùa Quỳnh Lân có trên một ngàn
mẫu ruộng tốt và chùa nuôi tới trên một ngàn canh phu. Người đi xuất gia
rất đông. Hàng năm tại chùa Vĩnh Nghiêm giáo hội làm lễ xuất gia cho cả
hai ba ngàn người. Chùa Báo Ân có tới ba mươi ba tòa nhà, kể cả Phật
điện, tàng kinh lâu và tăng đường. Người xuất gia đông quá, giáo hội
phải xây dựng đến hai trăm tăng đường mới có đủ chỗ cư trú tu học cho
các vị tân tăng. Thủ lãnh giáo hội là thiền sư Pháp Loa đã cho đúc tới
một ngàn ba trăm tượng Phật bằng đồng. Văn phòng Giáo Hội Trung Ương
được đặt ra tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lương Giang, tăng sĩ trong nước đều
có tăng tịch cất chứa tại dây. Những lớp giảng kinh ở chùa Báo Ân có đến
hàng ngàn người ghi tên theo học. Thật là một sự hưng thịnh chưa bao giờ
từng có. Ni Sư Tĩnh Quang tự trưởng chùa Nộn Sơn mỗi khi nhắc đến sự
hưng thịnh đó thì hai mắt sáng trưng. Ni Sư Đàm Thái cũng rất hoan hỷ
khi nghe nói về những phát triển lớn lao của Giáo Hội. Chỉ có sư tỷ của
Hương Nghiêm là không lộ vẻ vui mừng. Ban đầu Hương Nghiêm không hiểu vì
sao, nhưng sau khi nghe sư tỷ giải thích cô mới thấy được chân tướng của
sự việc. Chùa to Phật lón không phải là dấu hiệu của sự thinh đạt. Hồi
Trúc Lâm đại sĩ tu ở Yên Tử, trên núi chỉ có mươi cái am lá, vậy mà đạo
đức thơm lừng cả bốn cõi. Khắp nước, người dân vọng về núi Yên Tử như
vọng về một quê hương tinh thần. Thỉnh thoảng đại sĩ xuống núi, mặc
chiếc áo bạc màu, ngài đi giảng thuyết trong dân gian. Ngài chống gậy,
đi dép cỏ, tay cầm bát gỗ. Đến đâu, dân chúng cũng tụ họp quanh ngài để
nghe ngài nói. Đại xĩ khuyên dân bỏ các tục lệ xấu và tu thân theo giáo
lý thập thiện. Một ông vua bỏ ngai vàng điện ngọc, khoác áo vá, đi dép
cỏ, nằm chỏng che, ăn cơm hẩm làm một ông thầy tu khổ hạnh. Nhìn ngài,
ai mà không cảm động. Ngài nói, ai mà không tin. Phía Bắc, nước Nguyên
không còn dòm ngó. Phía Nam, giao hảo tốt đẹp, công chúa Huyền Trân ngồi
ngôi hoàng hậu thành Phật Thệ. Trăm họ âu ca. Sự thịnh đạt là ở chỗ đó,
chứ đâu cần phải chùa to Phật lớn. Bây giờ đây, cả triều đình cúng chùa,
tạo tượng và đúc chuông, nhưng thịnh đạt chỉ còn là hình thức.
Mỗi năm, giáo hội tổ chức an cư kiết hạ tại các chùa Báo Ân, Sùng
Nghiêm, Vĩnh Nghiêm, Quỳnh Lâm và cả ở các chùa trên núi Yên Tử nữa.
Tăng sĩ về an cư đông lắm, mỗi chùa có từ ba tới năm trăm vị. Vị nào mà
được nhập chúng an cư một lần trên các chùa Vân Yên và Long Động đều
cũng tự cho là mình có phước duyên lớn. "Dù ai dốc chí tu hành, có về
Yên Tử mới đành lòng tu", dân chúng trong khi hát câu ca dao đó đã nhớ
tới vị thiền sư khổ hạnh năm xưa của họ. Hương Nghiêm cũng đã từng ao
ước lên viếng chùa Vân Yên nơi có bảo tháp Huệ Quang cất dấu xá lợi của
đức đại sĩ Trúc Lâm nhưng cô thấy thiên hạ xu hướng về đó đông đảo quá
nên lại thôi. Cô đã từng ngỏ ý với sư tỷ Hương Tràng của cô, mong ước
một ngày nào hai chị em cùng được lên núi Yên Tử thăm bảo tháp Huệ
Quang, nhưng Hương Tràng hình như không muốn lên núi Yên Tử nữa. Sư tỷ
của cô nói với cô là bà đã lên núi Yên Tử một lần. Có lẽ trong chuyến
lên núi năm Mậu Thân ấy, chị Hương Tràng đã ghi nhận được hình ảnh đẹp
nhất của ngọn núi rồi, và muốn giữ mãi trong tâm hình ảnh tuyệt vời ấy.
Đó là hình ảnh một ngọn núi tâm linh cao chót vót trên đó có dáng ngồi
của một đạo sĩ trầm lặng và thanh bạch. Hương Nghiêm hiểu được tâm trạng
của người chị đồng sư. Cô buồn rầu nghĩ rằng có lẽ một hôm nào đó cô
phải xin phép đi lên núi Yên Tử một mình để chiêm bái xá lợi của đại sĩ.
Cô sẽ cố gắng không chú ý tới lầu vàng điện ngọc của những ngôi phạm vũ
mới. Cô sẽ chỉ nhìn mây, nhìn núi, nhìn những gốc thông, những lối đi,
len lỏi trong rừng để hình dung lại dáng vị thiền sư năm trước. Nếu có
người chị đồng sư của cô cùng đi thì cô sẽ sung sướng hơn biết bao
nhiêu. Tuy cô không có cơ duyên được diện kiến Trúc Lâm đại sĩ, cô cũng
có cảm tưởng được thấy dáng dấp của người. Trong Đại Hương Hải Ấn Thi
Tập có một bài thơ của đại sĩ mà cô rất ưa. Đó là bài Lên núi Bảo Đài:
"Cảnh vắng đài thêm cổ
Xuân sang mầu chửa hồng
Xa gần mây núi hợp
Rợp bóng nẻo hoa trồng
Vạn sự nước xuôi nước
Trăm năm lòng ngỏ
Tựa lan, nâng sáo thổi
Trăng sáng đầy cõi Tâm".
Cô nhớ lại hồi mới về nhập chúng chùa Nộn Sơn. Chùa này khi mới lập thì
mang danh là Hổ Sơn. Khi sư tỷ của cô về, bà đã đổi tên là Nộn Sơn. Đây
cũng là một hòn núi, nhưng hòn núi này làm sao sánh được với ngọn Yên
Tử. Chữ Nộn có nghĩa là mới được gầy dựng, còn non, còn chưa chín. Nó
nói lên được tâm tình khiêm nhượng của sư tỷ cô. Cũng đồng thời là sơn
nhưng ngọn núi nào so cho tày với ngọn Yên Tử?
Nghe nói thiền sư Huyền Quang hiện đang trú trì trên núi Yên Tử. Thiền
sư Huyền Quang lúc mới xuất gia đã theo học với thầy của cô, cho nên ông
cũng là sư huynh của cô. Cô nghe nói thầy Huyền Quang đã từng đậu trạng
nguyên và đã làm quan tới hai mươi năm trong triều. Ông nổi tiếng là làm
thơ hay, thơ chữ cũng như thơ Nôm. Trong giới thiền gia hiện có lưu hành
bài phú Nôm "Vịnh Chùa Vân Yên" của ông. Hiện giờ có một bản chép tay,
nhưng chữ Nôm của cô còn yếu nên cô chưa đọc được trọn bài. Cô yếu chữ
Nôm cũng vì thân phụ cô. Ông ghét chữ Nôm và cứ bảo cô "nôm na là cha
mách qué". Ấy vậy mà bây giờ chữ Nôm được thiên hạ xử dụng cũng nhiều.
Sư tỷ cô có hai bài phú của đại sĩ Trúc Lâm viết bằng chữ Nôm, một bài
nhan đề là "Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca" và một bài nhan đề là "Cư
Trần Lạc Đạo Phú". Sư tỷ của cô đã từng đem hai bài này giảng cho trong
chúng nghe. Ni Sư Tĩnh Quang tuy lớn tuổi và làm tự trưởng nhưng không
có buổi giảng kinh nào của sư tỷ cô mà bà không tham dự. Ai cũng công
nhận là sư tỷ cô có học thức uyên bác và cũng muốn học với sư tỷ cô. Cô
quyết tâm học cho giỏi chữ Nôm. Hôm nào cô sẽ viết thư về cho thân phụ
cô bằng chữ Nôm. Thế nào "ông già" cũng phải đọc. Chữ Nôm há không phải
là chữ riêng của người Đại Việt sao?
Sư tỷ của cô hồi chiều đã về chùa rất muộn. Hai đứa bé ở xóm dưới đã đốt
đuốc đưa Hương Tràng về. Tình trạng u thằng cu Lợi đã hơi thấy thay đổi.
Bà hết còn ôm bụng kêu đau. Sư tỷ Hương Tràng đã mời được ông lang ở
huyện Ý Yên sang. Có cả bà mụ túc trực nữa. Có hai người này sư tỷ của
cô mới an tâm về chùa, nhưng trước khi đi, bà dặn thằng cu Lợi có biến
cố gì thì chạy lên chùa báo cho bà biết. Khi Hương Tràng về tới chùa thì
đã gần tới giờ chỉ tịnh. Bà kể sơ lược cho cô về tình trạng rồi đi vào
liêu phòng. Có lẽ giờ này bà đã an nghỉ.
Hương Nghiêm vừa đóng xong cuốn tập cuối cùng cho bọn học trò nhỏ của
cô. Bên ngoài, trời yên tĩnh quá. Bây giờ chắc đã quá nửa đêm. Mọi người
hẳn đang ngủ ngon, nhưng ngài Đản Sinh đã về rồi. Khoảng đầu giờ Tỵ khi
mặt trời vừa lên ấm thì đức Thế Tôn giáng thế. Ngày mai là một ngày lễ
bận rộn, cô phải đi nghỉ để có sức khỏe cần thiết. Giữa giờ Dần cô đã
phải trở dậy rồi để cùng đại chúng làm lễ chúc tán. Khuya nay chuông
trống Bát Nhã sẽ làm cho các bà các cô ngủ lại chùa dậy sớm. Lễ chúc tán
được cử hành ngay trong buổi công phu khuya. Đầu giờ Tỵ thiện nam tín nữ
mới vân tập lại chùa để làm lễ vía Đản Sinh, lễ cầu an và lễ quy y cho
chim và cá. Đầu giờ Ngọ mới có lễ tắm Phật cử hành trong vườn cảnh của
chùa. Lúc ấy thiện nam tín nữ sẽ đến chùa đông lắm và sẽ đứng chật sân
chùa. Bọn trẻ đã được cô tập tành kỹ lưỡng để diễn lại sự tích Đản Sinh.
Thế nào chúng cũng mặc chiếc áo lành lặn nhất của chúng. Dưới một cái
vòm bằng tre kết đầy hoa lá theo hình vòng cung, cô đã an trí một tượng
Phật sơ sinh bằng đất nung màu đỏ hồng. Đức Phật sơ sinh đứng trên một
đóa sen, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ dưới đất. Một tay chỉ xuống
nước thì đúng hơn, bởi vì cô đã an vị ngài trên chiếc hồ trước hòn non
bộ. Một chum nước lá thơm sẽ được kê ra gần hòn non bộ ấy, và mỗi người
sẽ đến chắp tay trước Phật sơ sinh rồi múc nước thơm bằng chiếc gáo dừa
con để dội lên trên mình ngài một cách cung kính.
Hương Nghiêm xếp các cuốn tập ngay ngắn trên án thư. Vừa thay áo nhật
bình cô vừa quán niệm theo phép dạy của thiền sư Độc Thể. Cô theo dõi
hơi thở trong khi ngả mình nằm trên đơn. Giấc ngủ đến rất mau. Trong mơ
cô thấy bọn trẻ đang diễn sự tích Đản sinh. Thằng cu Lợi với bộ râu lá
chuối của nó đang đóng vai ông tiên A Tư Đà. Nó chống gậy đi lom khom,
ngang lưng quấn một mảnh áo đạo sĩ. Nó đi từng bước tới trước mặt vua
Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia để nhìn mặt coi tướng cho thái tử vừa ra
đời. Nó nói bằng cái giọng khàn khàn của một ông đại sĩ già: "Tâu bệ hạ,
thái tử đây sẽ trở thành một Đức Phật Như Lai ... bần đạo khóc là vì sẽ
không sống được tới ngày thái tử thành Phật". Ông tiên A Tư Đà còn nói
gì nhiều nữa, nhưng Hương Nghiêm không theo dõi được. Cô chỉ để ý đến
chiếc hoa chuối mà con bé Tuất đang ôm trong hai tay. Bé Tuất đóng vai
hoàng hậu Ma Gia. Nó ôm bắp hoa chuối quấn trong một miếng lụa vàng. Thế
nhưng bắp hoa chuối động đậy trong tay bé Tuất, rồi hào quang từ đó tung
tóe rực rỡ. Nhìn kỹ, Hương Nghiêm thấy bắp hoa chuối đã trở thành Đức
Phật sơ sinh thật sự đang mỉm cười trong tay bé Tuất. Mừng rỡ quá, cô
quỳ xuống trước mặt bé Tuất để chắp tay làm lễ.