•
Tản Mạn Về Mẹ Nhân Mùa Vu Lan 2004
•
Tản Mạn Về Cần Thơ
•
Bồ Tát Đưa Thơ
•
An Tâm
•
Bất Tăng Bất Giảm
•
Hành Hương Thiên Trúc
•
Hồng Hạnh
•
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
•
Ngưu Ma Vương
• VẾT NHẠN LƯNG TRỜI (Tập
Truyện)
Lời Giới Thiệu của Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh
Trần Truồng
Vết Nhạn Lưng Trời
Thuốc Đắng
Loài Hoa Bình Dị
Thành Toàn
Ngộ
Đâu Chẳng Là Nhà
Chân Dung Của Mẹ
• CỬA THIỀN DÍNH BỤI (Tập
Truyện)
Một Bước Chẳng Rời
Khẩu Phật Tâm Xà
Khảo
Cửa Thiền Dính Bụi
Tầm Thầy
Ðiệu Múa Loài Ong
Sen Trắng
Tiền Nào Của Ấy
• NHƯ THẾ MÀ TRÔI (Tập Truyện)
Trò Chơi Cút Bắt
Tan Loãng Theo Mây
Lấy Chồng Xa Xứ
Như Thế Mà
Trôi
Cam Lồ Xa Mạc
Thần Tài Gõ Cửa
Tình Nghĩa Xương Rồng
Hoằng Nguyện Thênh Thang
• CON ĐƯỜNG VÔ TẬN (Tập Truyện)
Lời Nói Đầu
Một Vị Phật Khai Sinh
Phổ Nguyện
Ngưỡng Cửa Của Thương Yêu
Cửa Thiền Cửa Tịnh
Tô Canh Bù Ngót
Con Ðường Vô Tận
Một Niệm Buông Lung
• MẸ QUAN ÂM CỬU LONG (Tập
Truyện):
Lời Nói Đầu
Theo Dấu Chân Xưa
Mẹ Quan Âm Cửu Long
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
Mở Toang Cửa Địa Ngục
Tiếng Chuông Của Chư Thiền Sư
Quan Âm Tóc Rối
Cây Khô Trổ Bông
|
Truyện Ngắn Phật Giáo
Như Thế Mà Trôi
Như Thế Mà Trôi
Huỳnh Trung Chánh
______________________________________________________________________________
Chú Năm di cư vào Nam từ thuở lên sáu tuổi, nên hình ảnh chốn chôn nhau
cắt rún, xã Thư Lang, tỉnh Hà Nam hoàn toàn xa vắng trong ký ức của chú.
Trái lại, miền Nam, khắp bốn vùng chiến thuật, nơi nào cũng có vết chân
của chú, nơi nào cũng đậm đà giăng mắc bao kỷ niệm khó phai. Do đó, tuy
thân thích bên chú không còn ai trong nước, tất cả đều nhanh chân chạy
ra nước ngoài trong cơn biến động năm 1975 - chú vẫn nôn nóng đưa vợ trở
về thăm lại miền Nam, sau mười tám năm trời xa cách.
Chú Năm bỡ ngỡ bước xuống sân bay, xúc động nghẹn ngào. Có cái gì khô
héo, tàn tạ phủ giăng trên phi trường loang lỗ, thành phố lở lói tiêu
điều. Có nỗi niềm bâng khuâng, chua xót triền miên đè nặng trên ánh mắt
của thân nhân bè bạn… chuyển biến nụ cười gượng gạo của họ thành những
cái mếu máo ngỡ ngàng. Hình ảnh Saigon thơ mộng năm xưa mà tháng ngày xa
xứ chú vẫn mường tượng, vẽ vời bỗng tả tơi tan biến. Niềm háo hức được
nhìn, được thấy quê hương chợt chùn nhụt rã rời. Chú vồn vã hội nhập với
phái đoàn đón rước của gia đình bên vợ, nói nói, cười cười không ngừng,
mà nỗi niềm khắc khoải thương đau vẫn mang mang vương vấn. Ôi ! Saigon
giờ đây chẳng còn gì để nhớ ! họa chăng chỉ còn tình người, tình đồng
bào, tình gia đình tha thiết đậm đà. Chú Năm đón nhận tình họ hàng đó,
qua hình ảnh của thím đang rộn ràng chào đón từng người, mừng mừng tủi
tủi, nước mắt lưng tròng. Vợ chồng chú được đưa về ngôi nhà người anh vợ
tại xóm Cây Quéo, Gia Định. Tại đây, bao nhiêu món ngon quí giá, bao
trái cây hấp dẫn đã chuẩn bị sẵn sàng cho khách phương xa, nhưng thím
Năm lại thèm những thứ tầm thường như trái cóc, chùm ruột, mắm sặc, mắm
còng…, những thứ không ai ngờ tới. Vả chăng, chú thím đâu còn bụng dạ
nào để an nhiên thưởng thức, khi phải liên tục trong mấy ngày, bận rộn
tiếp đón thân hữu gần xa, viếng thăm nườm nượp. Mỗi người là một bầu tâm
sự, mỗi tâm sự là một chuỗi đắng cay não nề. Chú thím xốn xang nhận thấy
mớ tiền bạc mang về, phân manh mún ra thành những món quà nhỏ nhoi chẳng
thấm tháp gì đối với nhu cầu của họ. Chú thím chỉ biết nhẫn nại lắng
nghe kể lể. Lắng nghe với tất cả lòng thành, với tất cả lòng thương yêu
san sẻ… để hi vọng nỗi khổ đau trĩu nặng của người đối thoại được vơi
chút nào chăng ? Chú thím đã chọn lối phục sức tầm thường giản dị để dễ
hòa hợp với mọi người, nhưng vẫn cảm thấy mình kỳ cục chẳng giống ai.
Điểm khác đó có lẽ đã phát xuất từ môi trường sống, nên thân nhân bên
nhà ai cũng có nét chịu đựng pha lẫn vẻ ngơ ngác, khô cằn. Ngay như anh
Hai, gia đình có con ở nước ngoài chu cấp, không phải bương chải ngày
đêm tìm sống, mà con người bặt thiệp, hiếu động trước kia đã trở nên lẩm
cẩm, rụt rè, sợ sệt bâng quơ. Lắng nghe và quán sát tùng người để thấy
tình thương tràn ngập, chú thím lại bồi hồi tự trách mình, đã ung dung
sống trong lãng quên nơi xứ người, mà làm ngơ, bưng tai, bịt mắt trước
những niềm đau tại quê nhà…
Bốn ngày sau, anh Hai thuê được chiếc xe "lô" đưa vợ chồng cô em về Bình
Điền viếng thăm mộ song thân. Xe đi trên quốc lộ số 4 giữa những cánh
ruộng đồng rồi tẽ vào con đường làng lồi lõm đưa về chốn cũ. Chú thím
say mê ngắm nhìn lại hình ảnh quen thuộc ngày xưa, với tất cả lòng
thương nhớ ấp ủ bao năm xứ người. Những mái nhà lá tiều tụy, đồng lúa
hàng hàng lớp lớp, rặng dừa lêu nghêu, buồng chuối mập ú, ao bông sún lơ
thơ, … cho đến bụi mắc cỡ, vầng chầu, cỏ may, cỏ cú hoang dại, tất cả
đều hiển hiện thành những bài thơ mộc mạc, giản dị mà đậm đà tình nước.
Thím Năm lặng lẽ nhìn vào khu vườn cây ăn trái và ngôi nhà ngói của cha
mẹ ngày xưa, nay do người ngoài chiếm giữ. Thím thầm nhủ : "Ai chiếm
cũng được, không bỏ hoang là quí rồi". Thím không mảy may phiền giận,
tiếc rẻ, nếu tiếc chẳng qua chỉ ước mơ được đứng tựa vào gốc mận, vú
sữa…, những cây mà thuở ấu thời thím leo trèo hà rầm trên đó. Phần mộ
gia đình tuy phải thu hẹp nhưng may mắn không bị xâm phạm. Thím Năm quét
dọn, dẩy cỏ, rồi đốt nhang, đảnh lễ từng ngôi mộ ông bà, cha mẹ. Thím
vẹt giây nhãn lồng mọc lang qua nền xi măng, chợt khám phá một trái con
con vừa "hườm", vội ngắt bỏ vào miệng. Vị cũng chua chua ngọt ngọt,
nhưng cái hương vị tuyệt vời mà thuở lên năm thím nếm, để rồi mường
tượng nhớ nhung cả đời không còn nữa. Tất cả đều tan biến, đều qua đi,
thì làm sao thím có thể tìm lại được vòng tay ấp ủ tình thương của mẹ
ngày trước. Thím trầm ngâm thật lâu bên mộ mẹ, nghẹn ngào tủi phận mình
bất hiếu không ở cạnh bà trong phút lâm chung. Mẹ ra đi trơ trọi bên
cạnh con trai và dâu, dẫu bà rất hả dạ về hoàn cảnh đó nên đã yên tâm
nhắm mắt nhẹ nhàng sau khi đón nhận tin đám cháu nội cưng đã an toàn
trên đường vượt biên hiểm nghèo.
Xa trở về Gia Định. Chú thím Năm yêu cầu được "thả" tại chợ Bà Chiểu, để
hai người có thể tự do tung tăng trên đoạn đường phố quen thuộc. Thím rẽ
về ngõ hẻm xéo rạp Cao đồng hưng tìm lại tổ ấm hai vợ chồng ngày trước,
hi vọng nhìn lại cây mận hồng đào mà thím đã đích thân lấy giống từ ngã
ba Trung Lương về trồng. Đầu hẻm là quán cà phê "ôm" mới mọc, cạnh đó là
xửng lẩu đồ lòng, gánh chè, rổ chuối nấu… Con bé chuối nấu gầy gò, đói
rách quá gợi thím hình ảnh trơ xương của trẻ con Ethiopia và Somalia
thường chiếu trên màn ảnh truyền hình, khiếm thím sửng sờ đau nhói cả
tim. Thím nhét vội cho em mớ tiền rồi níu tay chồng quày quã trở ra.
Thím không còn nhu cầu nhìn lại tổ ấm, và cây mận nữa. Những mất mát của
thím, dầu là thứ kỷ niệm vô giá, đều nhỏ nhoi vô nghĩa so sánh với những
mất mát của người khác, những mất mát của "tuổi nhãn lồng" hồn nhiên thơ
dại.
Lửng thửng trở về hướng Lãng Ông, không hội ý mà hai vợ chồng đồng rảo
bước về tiệm cơm ngang Tòa Hành Chánh, nơi một thời là điểm hò hẹn của
cặp tình nhân. Vào quán, trong khi chờ đợi món ăn, thím nhận thấy mươi
người ăn xin lố nhố bên ngoài, phần lớn là trẻ em đang hau háu nhìn thực
khách ăn xong, để nhào vô sớt miếng ăn thừa, trước sự đuổi xô hung hăng
của những người bán quán. Cảnh tượng đó khiến lòng thím nao nao, nhớ lại
quãng đời bất hạnh của mình thuở trước. Năm xưa đó, thân phụ thím tham
gia vụ trí thức Caravelle rồi lâm cảnh tù tội, nhà cửa bị tịch thâu. Mẹ
con bơ vơ về nương náu tại một chái lá, che bên vỉa hè nhà người bà con
xa tại một hẻm lầy lội sát chợ Vườn Chuối, đường Phan Đình Phùng,
Saigon. Mẹ suốt ngày bận bịu thăm nuôi và dò la chạy chọt tìm phương
giải cứu chồng, bỏ mặc con bé Mít lang thang nô đùa với đám trẻ con bụi
đời ở đầu đường xó chợ. Trong đám trẻ đó, Mít thân thiết với "thằng Bắc
kỳ", thằng bé danh lợi, nói giọng Bắc, sáng dẫn bà già mù đi lòng vòng
ăn xin tại chợ, tối ngủ lây lất trên các sạp. Xế chiều, chợ tan dần,
thằng Bắc kỳ rảnh rang tìm đám con gái trong xóm rủ rê chơi các trò nhảy
giây, đánh đũa, cò cò… Điều lạ, là hắn rất giỏi các trò chơi con gái.
Nhảy cò cò thì hắn ác ôn cất nhà liên tiếp cho thiên hạ phải phóng xa
trối chết. Mít không nhảy nổi, phụng phịu thì hắn xẻ cho một "cái chái",
rồi dỗ dành : "Ơ hay ! sao lại hờn mát rồi ! tớ cất nhà thì cũng dành
cho đằng ấy ở chung kia mà !". Chỉ một thời gian ngắn, thân phụ thím
được phóng thích, tài sản phục hồi, và do đó hoàn cảnh cơ cực của gia
đình thím sớm chấm dứt. Dù vậy, kỷ niệm tháng ngày bụi đời đó không bao
giờ phai nhạt trong tâm khảm thím. Thím luôn luôn giữ tình thương đặc
biệt, lân mẫn với những kẻ khốn cùng, và sau nầy, gặp gỡ chú, "cảm" chú
như bị tiếng sét ái tình, có lẽ vì chú đã có đôi mắt láu lĩnh của thằng
bé Bắc kỳ năm xưa. Mê miết thả hồn về dĩ vãng, thím mới ăn được một góc
nhỏ dĩa cơm tấm bì, thì chú đã vét sạch sành sanh phần chú rồi. Một
thằng bé ăn xin chờn vờn chờ chú buông đũa thì a vào chuẩn bị sớt cơm
thừa, khiến người bồi bàn hét vang :
- Để yên cho khách ăn uống mầy ! Láng cháng tao đá cho dập mật bi giờ !
Miếng cơm đang nuốt bỗng nghẹn ngang, thím lên tiếng can thiệp :
- Tôi ăn xong rồi !
Ngoắc thằng bé vào, đưa dĩa cơm của mình cho nó, thím dịu dàng tiếp lời
:
- Ngồi đây ăn dĩa cơm nầy đi cháu !
Thằng bé thoạt ngần ngại, lấm lét ngước mặt nhìn thím Năm dò xem phản
ứng thế nào, rồi mới rụt rè nhích tới, vồ lấy dĩa cơm lùa nuốt ngấu
nghiến ngon lành. Đang ăn ngon trớn bỗng thằng bé ngưng ngang, rồi cẩn
thận sớt phần cơm còn lại vào một túi ny lông bẩn thỉu đã có chút đỉnh
cơm thừa cá cặn xà bần trong đó.
Thím Năm sốt ruột ngăn cản :
- Nè cháu ! cứ từ từ mà ăn ! dì chờ cháu ăn xong mới đi, không ai đuổi
xô cháu đâu !
Dạ ! con ăn xong rồi ! phần nầy con đem về cho em của con !
Cảm thấy đôi mắt cay cay, thím mang vội cặp kiếng mát che đậy, nhét cho
thằng bé mớ tiền, căn dặn nho nhỏ :
- Con mang tiền nầy về cho má mua gạo !
Thím Năm thờ thẩn ra về, nhưng vừa ra khỏi cửa liền bị vây quanh bởi hơn
mười người ăn mày xòe tay van xin rên rỉ. Chẳng chút đắn đo, thím Năm ưu
ái mở ví trao tặng tiền cho những kẻ khốn cùng thật rộng rãi. Điểm bất
ngờ là số lượng người ăn xin cứ tăng lên mãi. Kẻ may mắn thông báo người
đồng cảnh ngộ tìm đến, và có người nhận tiền rồi lại bôi mặt quanh lại
mong kiếm chác đợt hai. Do đó, dù đã chuẩn bị mang theo số tiền khá to,
cuối cùng thím Năm cũng nhẵn túi.
- Tôi hết tiền mang theo rồi ! hẹn dịp khác nghen ! thím Năm lúng túng
giải thích và cũng chìa cái bốp trống không ra để minh chứng.
Thế nhưng coi bộ không ai tin tưởng thím, người ta vẫn tiếp tục xòe tay
van nài than thỉ, khiến thím bối rối chẳng biết xoay trở cách nào. Đến
khi biết chắc chẳng còn chút hi vọng gì, tiếng rên rỉ van xin bỗng biến
thành tiếng xỉa xói chửi thề. Có kẻ còn hung hăng níu cả tay thím Năm
dục dặc đòi tiền, kẻ quơ tay múa chân làm dữ, khiến thím hốt hoảng mặt
mũi xanh xao, cơ hồ sắp ngã xỉu.
Chú Năm chứng kiến cảnh vợ bị xô đẩy dằn kéo không chịu đựng lâu hơn
nữa. Máu "du côn" của chú nổi dậy, chú hét lên một tiếng, vẹt đám người
ăn xin qua bên, lôi vợ đi một bước.
Lên xe về tới xóm Cây Quéo rồi mà mặt mày thím vẫn ủ rủ khiến chú Năm
xốn xang, cất tiếng vỗ về.
- Em à ! bỏ qua chuyện hồi nãy đi em ! buồn giận những kẻ bất hạnh đó
làm chi cho nhọc xác vậy em !
- Không ! em chẳng buồn phiền hờn giận họ đâu ! Những người khốn khổ đó
trọn đời đã phải hứng chịu bao nỗi bất công, bị khinh khi, chửi mắng…;
họ thường bị lường gạt, nghe hứa "cụi" hoài nên mất niềm tin… vậy nếu họ
thô lỗ cũng đáng thương hơn đáng trách. Em buồn vì khả năng mình hạn hẹp
không giúp đỡ họ nhiều hơn mà thôi !
- Khó thật là khó ! nhưng em nghĩ còn điểm khác khó hơn là phương thức
bố thí phải làm sao cho người nhận cảm thấy được niềm an ủi và tình
thương chân thật ngập tràn. Chớ xem ra dường như em đã không an ủi gì họ
! họ túng cùng thì phải nhận tiền, nhưng lòng họ chắc khổ đau khó chịu
vô cùng, họ vừa cảm thấy tự ái thương tổn, vừa tủi thân, ganh tị… với kẻ
may mắn hơn họ, và như vậy thì kết quả hành động của em rất đáng nghi
ngờ !
- Chính vì vậy nên Phật giáo mình chủ trương tứ nhiếp pháp. Bố thí phải
được thi hành kèm với ái ngữ, lợi hành và đồng sự thì tình thương mới đủ
chất liệu ngọt ngào, xoa dịu được niềm đau của kẻ khác ! Ngày xưa, quốc
sư Đại Đăng (1), đang được vua và toàn dân sủng ái cung kính cúng dường,
mà bỗng bỏ đi làm kẻ ăn mày sống lam lủ dưới gầm cầu, thực sự chung đụng
với giới ăn mày để cảm hóa họ, sự bố thí của người mới thật là toàn vẹn…
- Ôi ! chỉ có bậc bồ tát hành hạnh từ bi mới có đủ dõng mãnh để làm việc
phi thường, chớ tuy tu sĩ nào cũng tự coi mình là khất sĩ, nhưng khất sĩ
theo kiểu nhận cúng dường thì dễ, chớ dám đi ăn xin để gánh chịu sự khổ
nhục, khinh khi rẻ rúng của người đời thì mấy ai làm nỗi !
- Ở nước mình cũng có những tu sĩ hành hạnh nguyện đó. Gần nhất, vào
thời chúa Nguyễn, có "ông ba bị" (2), là vị khất sĩ vô danh đi ăn xin
thực sự, người luôn luôn mang ba bị : một bị đựng đồ chay để Ngài dùng,
một bị đựng đồ mặn để chia cho bè bạn ăn xin khác và một bị lớn để treo
trên mái đình mà ngồi ngủ; do đó Ngài còn được người đời tôn xưng là
Trung Đình hòa thượng. Ngài sống lang thang lây lất đầu đường xó chợ,
đầu bù tóc rối, quần áo không có phải đóng khố che thân, nhơ nhớp hôi
hám, đến nỗi người đời ghê tởm mượn bí danh "ông ba bị" để dọa nạt trẻ
con… Còn xưa hơn nữa, vào cuối đời nhà Trần có vị tu sĩ khác, cũng hòa
mình chung sống với những kẻ ăn mày để tu dưỡng thân tâm và cũng để cảm
hóa họ nữa…
*
* *
Từ gác chuông, chùa Vân Yên, núi Yên Tử, sư Trí Lâm bâng khuâng nhìn
xuống cánh đồng mênh mông trải dài tận chân trời rồi ngâm nga hai câu
thơ của thi hào Tô Đông Pha :
"Ca sa vị trước hiềm đa sự
Trước dĩ ca sa, sự cánh đa !" (3)
Sư tấm tắc cảm phục người xưa, tuy không xuất gia mà có thể thấu rõ
những bí ẩn nghịch thường tại tự viện, điều mà chỉ riêng giới tu sĩ mới
thấm thía khám phá. Sư thở dài tự hỏi lòng mình, không hiểu mình còn
gượng gạo bám víu vô vọng vào nếp sống đa sự nầy mãi đến bao giờ ?
Sư lăn lóc bon chen chốn quan trường đã chán ngắt cảnh xâu xé tranh dành
mùi danh lợi tanh hôi, những tưởng nương cửa Phật cho tâm hồn thanh
tịnh, ngờ đâu khi chánh thức xuất gia sư lại khám phá rằng nơi nầy cũng
đa sự chẳng kém chốn trần tục là bao. Sư tục danh Phạm Ngũ Thư, người
làng Phù Ủng, Hải Dương là cháu ba đời của tướng Phạm Ngũ Lão, bậc đại
công thần tài kiêm văn võ tiền triều. Thân phụ Thư mất sớm, nhưng người
đã gởi gấm con côi cho bạn đồng liêu là Thái Bảo Trần Nguyên Hảng nâng
đỡ. Nhờ vậy, mới vừa tròn hai mươi tuổi, đỗ kỳ thi hội, Thư đã được thụ
bổ làm Lĩnh úy (4), huyện Mỹ Đức, Hà Đông, rồi chỉ trong vòng ba năm, đã
được thăng chức chánh An phủ sứ (5), trấn Thiên Hưng. Vị phụ tá của Thư,
Ngô Văn Liễu, tuổi hơn tứ tuần, cả đời lận đận học hành thi cử, tận tụy
theo đuổi công danh mà chỉ mới được thăng chức phó An phủ sứ, thường bày
tỏ lòng khâm phục thanh thế của Thư và thiết tha mong Thư nâng đỡ, giới
thiệu mình gần gũi chư đại quan tại chốn kinh sư, hầu dễ thăng quan tiến
chức. Thời bấy giờ, vua Trần Nghệ Tông mù quáng tin yêu Hồ Quí Ly, nghe
lời dèm siễm của y mà giết hại và xa lánh trung thần. Do đó. Hồ Quí Ly
ngày càng lộng quyền, công khai gài kẻ thân cận giữ các chức vụ có quyền
lực để mưu sự thoán đoạt mà chẳng úy kỵ gì cả. Bản chất cương trực và
trung thành, dĩ nhiên, Thư oán ghét hành vi của Hồ Quí Ly và hằng nôn
nóng mong các bậc trung thần tại kinh đô ra tay trừ khử kẻ gian manh.
Thư thường mang tâm sự mình giải bày cho viên phụ tá, và được người nầy
nhiệt liệt tán dương coi như kẻ đồng tâm đồng chí. Trái với niềm ước mơ
của Thư, Thái Bảo Trần Nguyên Hảng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân,
mới vừa liên kết được một số trung thần âm mưu khôi phục uy quyền vua
Trần thì công việc bị bại lộ. Hồ Quí Ly liền ra tay tàn sát nhóm trung
thần, kể cả đàn bà, trẻ con…, số người bị giết lên đến 370 mạng người.
Vừa khổ đau đón nhận tin dữ. Thư đã điên đầu với tình trạng nội bộ bất
thường. Viên phụ tá Ngô Văn Liễu, xưa nay vốn tùng phục, nịnh bợ Thư…
bỗng trở chứng ngang ngạnh lấn áp kẻ chỉ huy. Hắn hiu hiu đắc chí bật mí
là đã móc nối được phe cánh họ Hồ, và bóng gió dọa nạt sẽ thẳng tay
trừng trị những kẻ dại khờ không biết xoay sở theo thời thế. Thư hiểu
địa vị mình đã lung lay, ngay mạng sống cũng khó bảo toàn, vì chắc chắn
tên thuộc hạ phản trắc đã báo cáo cho đám Hồ Quí Ly thái độ bất mãn của
chàng. Sau mấy ngày ăn ngủ không yên, Thư quyết định viện cớ bịnh tim di
truyền, để xin từ quan dưỡng bịnh. Thỉnh nguyện của Thư được nhanh chóng
chuẩn chấp, và không ngoài sự tiên liệu của chàng, tên Ngô Văn Liễu được
thăng chức chánh An phủ sứ. Thư rời quan trường âm thầm không kèn không
trống, bên mình chỉ có tên gia nhân trung thành lủi thủi quảy túi đồ quí
giá theo sau. Trĩu nặng lòng tận trung với Vua, Thư đắn đo suy nghĩ
những phương kế nhằm phục hưng cơ nghiệp nhà Trần, mà mãi chưa tìm được
đáp số thỏa đáng. Bước đầu là phải tổ chức và kết hợp, nhưng mấy ai là
kẻ có lòng ? Thư ngổn ngang suy tính, rồi vô tình lần về huyện Mỹ Đức,
Hà Đông, địa phương chàng trấn nhậm đầu tiên, từng thi ân bổ đức cho bao
người, để dọ xét dân tình. Từ bến Vân Đình, Thư xuôi đò về bến Đục, đoạn
đổi đò ở bến Suối để viếng thăm chùa Long Vân, ngôi chùa xinh xắn cạnh
giòng suối, nổi tiếng với động thạch nhủ óng ánh màu sắc tuyệt vời. Thuở
ấy, Thư yểm trợ việc trùng tu ngôi chùa đắc lực, được hòa thượng Hoằng
Khai thương quí đặc biệt. Sư thường cầm giữ chàng ở lại để thọ trai,
uống trà đàm đạo tương đắc. Lòng dạ đang rối ren, Thư định thỉnh ý thầy
về giải pháp cứu nước, vừa mong được gần gũi vị thầy đạo cao đức trọng
để an hưởng lần nữa giờ phút thanh thản như ngày xưa ấy… Người thị giả
vẫn nhớ mặt vị huyện quan ngày trước, reo vang chào đón rồi hấp tấp chạy
biến vào phòng hòa thượng để thông báo. Bỗng y trở ra, khép kín cửa liêu
phòng, rồi bẻn lẻn lên tiếng :
- Xin lỗi thượng quan ! hòa thượng con đang bận tiếp chuyện với khách
quí ! Xin thượng quan hoan hỉ chờ một lúc !
Dĩ nhiên là Thư rất hoan hỉ, nhưng sự hoan hỉ của chàng đã tan biến hết
cả rồi mà vẫn chẳng thấy hòa thượng mở cửa tiếp đón. Thư hối thúc chú
tiểu mấy lần thì chú lại trốn biệt. Thư tức tối điên người, thắc mắc
chẳng biết khách quí là nhân vật tối quan trọng như thế nào, nên bực bội
mà gắng gượng nhẫn nại chờ xem khách lạ là ai. Chờ đợi cả giờ, bụng dạ
đói meo, Thư mới thấy cửa liêu phòng rộng mở. Bất ngờ kẻ bước ra lại là
tên lý trưởng làng Yến Vỹ, viên xã quan nầy vốn là tên lính hầu cận của
chàng ngày xưa, hắn cúc cung phục vụ nên được chàng thương yêu nâng đỡ
cho làm lý trưởng. Thư vẫn yên chí hắn là "tên đệ tử suốt đời trung
thành" sẵn sàng sống chết với mình, nên dự tính sẽ liên lạc với hắn…
Tình cờ gặp nhau tại chùa, Thư vừa chớm mừng rỡ, chợt sượng sùng ngay
khi thấy người thuộc hạ xưa lại vênh váo ngoảnh mặt làm ngơ như người xa
lạ. Thư thất vọng não nề trước sự thật quá ư phũ phàng đó ! chàng buồn
cho tình đời đen bạc vừa khám phá rằng việc dấn thân đi kết nạp kẻ đồng
chí hướng chỉ việc không tưởng xa rời. Giờ đây, quê nội chàng tại Hải
Dương, cũng như bất cứ quê quán nào của các bậc công thần xưa, có lẽ đều
bị bọn tai sai họ Hồ kềm kẹp. Chúng cũng theo dõi chàng từng bước, dò
dẫm, dọa nạt những kẻ quen biết xưa để không ai chứa chấp chàng. Ôi !
tìm đâu ra chốn dung thân bây giờ ? Suy cùng nghĩ cạn, Thư dặn dò người
gia nhân mang tín vật, tài sản của chàng về Hải Dương cho mẹ, biên thơ
vắn tắt cho bà biết mình sẽ ẩn tu lánh nạn và khuyên bà cũng nên về quê
ngoại sinh sống qua ngày.
Thế rồi, Thư giả trang thành kẻ thư sinh tầm thường, len lỏi về huyện
Yên Hưng, Quảng Yên leo lên đỉnh núi Yên Tử, tìm đến chùa Vân Yên, yết
kiến Vô Trước quốc sư thuật rõ chuyện mình và thỉnh cầu xuất gia đầu
Phật. Thư biết rõ sư cụ là đệ tử đời thứ sáu của phái Trúc Lâm (6), một
phái thiền liên hệ với tiền triều, nên chẳng hề dấu diếm tâm tư hoài bảo
của mình. Thế nhưng, tuy sư cụ tiếp đãi Thư ân cần, hứa cho chàng nương
náu, mà lại rất do dự về ý định xuất gia của chàng. Thư năn nỉ vặn hỏi
mãi mới được giải thích :
- Con ạ ! truyền thống Yên Tử chỉ nhận kẻ xuất gia vì lý tưởng, tu hành
giải thoát để cứu độ chúng sanh, chớ không nhận kẻ xuất gia vì "chán
ngàn tình đời". Kẻ chán đời vào chùa sẽ khám phá rằng nếp sống của chùa
chẳng gì hấp dẫn, để rồi họ sẽ tiếc rẻ mơ tưởng lộn về đời sống thế tục
mà thôi. Ngoài ra, kẻ đã từng đỗ đạt, từng có địa vị cao…, tuy có lợi
điểm là học hỏi kinh luận nhanh chóng, mà chướng ngại cũng vô cùng. Họ
quen được trọng vọng đề cao nên ngã chấp to, đức nhẫn nhục kém. Họ lại
khư khư ôm ấp bám chặt vào ngôn ngữ, văn tự, thành kiến hay dựa lề lối
suy tư khuôn mẫu cứng ngắt thì khó mà đón nhận được suối nguồn sống động
của đạo pháp…
Lãnh hội thâm ý sư cụ, Thư suy tư nhiều ngày nhưng cuối cùng cương quyết
giữ vững ý hướng xuất gia. Lần nầy, chàng phát nguyện dấn thân cho lý
tưởng đạo pháp và đồng thời cũng nguyện xin được "huấn nhục", chấp nhận
chịu đựng những thử thách nhằm phá vỡ chấp kiến thủ kiên cố của hạng trí
thức khoa bảng…
Thỉnh nguyện của chàng, lần nầy mới được thầy vui vẻ chấp nhận. Thế rồi,
buổi lễ thí phát giản dị mà trang nghiêm được sớm tổ chức. Thư quì xuống
lắng nghe thầy ban đạo từ, truyền giới, rồi thầy cũng đích thân cạo mái
tóc trần tục của chàng, và ban cho chàng pháp danh Trí Lâm. Trong giây
phút đó, Thư cảm giác như mình đã trút bỏ được bộ áo quan lại phiền
toái, dứt khoát với danh lợi, thương yêu, thù hận… của thế tục, để biến
thành con người mới, trong trắng, tinh nguyên,… dõng mãnh tiến bước trên
con đường tầm đạo giải thoát. Niềm hoan hỉ tràn ngập, tâm bồ đề cao
ngất, người tu sĩ sơ cơ thành khẩn phát bổn lời đại nguyện :
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành…
Lễ xuất gia vừa chấm dứt thì niềm xúc cảm lâng lâng của người tu sĩ tập
sự cũng hao mòn nhanh chóng khi phải đối diện với nếp sống tu tập thực
sự tại chùa. Từ uy thế thượng khách của sư cụ viện chủ, thân mật tiếp
xúc đàm đạo, ăn uống chung mâm với người, bỗng tuột xuống thành chú sa
di tập tễnh tu, địa vị thấp nhất trong chúng, nên dù đã chuẩn bị tinh
thần, và được đại chúng hoan hỉ tiếp nhận, chàng cũng cảm thấy chới với
ngỡ ngàng. Vả chăng, từ bé đến nay, chàng quen "chỉ tay năm ngón" ra
lệnh cho người hầu hạ, chớ chưa hề lâm vào hoàn cảnh bị những kẻ kém cỏi
hơn chỉ dẫn, sai bảo đâu ? Chàng khao khát học giáo lý thượng thặng Phật
giáo thì không được sở nguyện, trong khi chàng ngượng ngập vụng về tay
chân thì cứ bị buộc chấp tác những thứ vặt vãnh tầm thường ! Đã bối rối
về việc tu học trì trệ, chấp tác trơ trẽn vô tích sự, chàng lại điên đầu
với nhóm đại chúng xô bồ đa sự nữa. Đại chúng mỗi người mỗi vẻ, kẻ thô
lỗ cộc cằn, người khờ khạo chậm lụt, lại cũng có hạng ba hoa chích chòe…
mà chẳng ai có thể hạp nhãn chàng. Hai bà già công quả bếp núc, thuộc
thứ già sanh tật, lầm bầm, cau có suốt ngày. Điển hình nhứt là anh chàng
chuyên cóp chép, xào nấu thơ xưa làm của mình để khoe khoang khoác lác.
Ông khác chuyên thêu dệt chuyện trời ơi, đất hởi ! Còn cái ông "lang băm
thuốc xổ" mới đặc biệt. Ông đắc ý một điểm giáo lý mới học, thế là gặp
ai ông cũng bám riết để thuyết pháp, nhất định phải nhét vào lỗ tai
người, bất kể người đối thoại muốn nghe hay không ? Tuy học đòi làm y
vương, nhưng ông là thứ lang băm chuyên xài thuốc xổ để trị bá bệnh. Gặp
ai ông cũng đè bắt uống hết, nên đại chúng thấy ông ai cũng tránh xa để
khỏi mang họa lỗ tai… Đại chúng đã xô bồ, mà những vị đại sư huynh được
thầy tín cẩn giao trách nhiệm điều hành tự viện cũng không khá ! Thầy
giáo thọ đạo mạo mà thâm hiểm, âm thầm dìm những kẻ có khả năng. Thầy
tri sự sân si gây gỗ suốt ngày. Thầy tri khách cười nói ngọt ngào, mà
thiếu chân thật… Tóm lại, chàng chẳng cảm tình được với ai, mà có lẽ
cũng không mấy ai mến chàng. Trong chùa, ngoài sư phụ, Trí Lâm chỉ ưa
được sư muội Trí Duyên. Sư muội khởi tu tại ni viện Hổ Sơn, gặp việc bất
như ý trong chúng, nên thỉnh cầu sư phụ cho về tu tại Vân Yên, hầu tiếp
tay với bà Bảy, bà Năm lo việc ẩm thực tại đây. Sư cô từng bị hất hủi
tại ni viện, nên đối xử với kẻ khoa bản trí thức bất đắc chí như Trí
Lâm, sư cô có phần cảm thông, nhờ vậy chàng cũng còn có chỗ an ủi trong
lòng.
Ban ngày bất như ý, đến đêm chàng lại bị những giấc chiêm bao hành hạ.
Chàng thường thấy mình, trong tư cách quan lại cũ, đang bùng nổ ra uy
với đám huynh đệ trong tự viện hoặc đang say sưa rượu thịt linh đình,
thì tỉnh dậy. Chàng nghĩ có lẽ những ẩn ức ban ngày mà chàng dụng công
đè nén - bất mãn huynh đệ và chán ngán chai lạt, đã tự tìm cách thoát ra
ngoài bằng mộng mị, nên vẫn âm thầm xấu hổ. Tuy nhiên, giấc mộng ám ảnh
chàng không nguôi là cảnh chàng thấy mình trong vai một công tử mê mệt
cô gái thanh lâu xinh đẹp. Chàng quyến rủ người đẹp theo mình, khiến mấy
gã đã ứng tiền thuê bao nàng bực bội đòi tiền lại. Tức giận, chàng hạ
lệnh cho thuộc hạ đập mấy tên vỡ mặt, một tên què chân… để trừng trị.
Thức giấc, nhớ lại từng chi tiết nhỏ, chàng bối rối về hình dạng giống
nhau kỳ lạ giữa người trong mộng và sư cô Trí Duyên. Chàng tuy có cảm
tình với sư cô nhưng nào có tư tưởng dâm đảng tồi bại đâu, mà giấc mơ
quái gở đó lại xuất hiện ?
Tình trạng thường trực bất an dai dẳng chỉ vơi nhẹ khi Trí Lâm, vận động
với thầy tri sự để được đi chăn bò với chú Trí Lạc. Chú Trí Lạc sinh
trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, quen cực khổ nên một mình đã
thừa sức đảm trách tất cả mọi việc liên quan đến bầy bò. Chàng đi theo
"hụ hợ" lấy lệ mà ung dung tiêu hao ngày tháng. Bù lại, chàng cũng tận
tình hướng dẫn sư đệ học đọc và viết những phẩm kinh nhật tụng thông
thường, ngoài ra, thỉnh thoảng lại kể cho sư đệ nghe những mẫu truyện
hấp dẫn của Trung Hoa như Tam Quốc, Đông Châu Liệt Quốc, Tây Du… Trí Lạc
bội phục sư huynh học rộng tài cao, còn vị sư huynh cũng tìm được người
để phô trương sở học bao la dồn chứa đầy nhóc trong đầu. Dó đó, tuy tuổi
tác chênh lệch, gốc gác cách biệt mà huynh đệ rất hòa hợp nhau. Thời giờ
chăn bò hóa ra là những giờ phút nhàn nhã và thoải mái nhất trong nếp
sống tu tập của Trí Lâm. Đến giờ ngọ, chú Trí Lạc chạy nhanh về chùa
mang cơm ra để anh em thong dong ăn uống dưới bóng tùng râm mát. Chú dễ
thương, nên sư cô Trí Duyên thường "dúi" cho chú thêm vài trái chuối,
bánh, kẹo… để làm quà, và đặc biệt hôm nay, chú lại lo le hai củ khoai
lang sống. Thế là hai anh em rộn ràng quơ quào cành cây, lá khô để đốt
lửa bừng lên, đoạn vùi khoai dưới lớp tro đầy cho đến khi vỏ khoai cháy
thành than. Hai anh em lụp chụp khều củ khoai đen đúa ra thanh toán ngay
tức khắc, ăn khoai "lùi tro" phải ăn khi "nóng hổi, vừa thổi vừa ăn" thì
mới thưởng thức trọn vẹn hương vị thơm tho, dịu ngọt của nó. Sư đệ háo
ăn thế nào mà để trên mép chút khoai trắng trắng, còn mặt mũi thì vằn
vện lọ nghẹ như một chú hề con, khiến Trí Lâm buộc miệng cười vang rền.
Trí Lạc không biết gì cũng ngô nghê rộn rã "cười hùn", rồi chú mang mặt
lem luốc hề chạy tìm đàn bò đang tản mát đây đó. Trí Lâm leo xuống suối
rửa mặt. Tự ngắm dung nhan mình ảnh hiện trên mặt nước bất chợt chàng
cảm thấy ngượng ngùng. Mặt chàng cũng hề, cũng tèm lem lọ nghe như chú
Trí Lạc có khác gì đâu, vậy mà chàng cứ tưởng mặt mày mình sạch sẽ nên
mới cười chê chú. Trí Lâm bỗng nhiên tưởng đến ẩn ngữ thiền : "như nhau,
dọc mũi ngang mày" mà rúng động cả toàn thân. Té ra là như vậy. Ai cũng
như ai, mũi cũng nằm dọc, chân mày cũng nằm ngang cả. Đứng trên bình
diện thuần lý, thì ai chẳng có Phật tánh, ai chẳng có khả năng giác ngộ,
bình đẳng không khác, vậy thì mọi người đồng đáng tôn quý như nhau. Còn
luận trong vòng sanh diệt thì ai cũng tham, sân, si chất ngất, cũng hư
hèn chứa đầy thói hư tật xấu, dù rằng có kẻ thô người tế, kẻ khéo che
dấu, người vụng về lộ liễu mà thôi. Trí Lâm biết rõ con người mình hơn
ai hết. Thời làm quan, tuy chàng cũng biết thương dân, nhưng chàng đâu
phải thánh thiện. Chàng cũng ham danh, ham lợi, ham tiền, ham được tâng
bốc, ham sắc dục như ai…, thế mà chàng cao ngạo, tự hào mình là bậc
chính nhân quân tử, đáng tôn kính. Vào chùa, mình tu tập có tiến bộ gì
đâu, tham sân si chỉ đổi hướng xoay chiều mà thôi. Giờ thì mình ham làm
tổ sư, ham danh đắc đạo cao tăng, ham chùa to, ham được đệ tử tôn thờ,
tự cao tự đại về sở học Phật pháp, mà còn ngấm ngầm ganh tị bới lông tìm
vết bạn đồng tu dìm đạo đức họ xuống. Trừ mình ra thì ai cũng xấu xa, hư
hèn cả. Thào nào mình chẳng cô đơn, chẳng hòa hợp được với đại chúng.
Từ ngày khám phá được gương mặt lọ lem của mình, con đường tu tập của
Trí Lâm chuyển sang khúc quanh khác hẳn. Chàng chỉ còn thấy lỗi mình,
không còn thấy lỗi người nữa. Nhờ thường trực quán sát vọng niệm mình
không chút lơ đểnh, nên chàng lần lần tự kiểm soát được thân tâm, tiếp
xúc với chánh niệm trong từng nhịp thở. Tiếp xúc được chánh niệm, chàng
bắt đầu biết thấy biết lắng nghe và biết chiêm ngưỡng thế giới sinh động
mầu nhiệm quanh mình bằng tình thương tràn ngập… Giờ chàng mới để ý đến
nỗi nhọc nhằn thức khuya dậy sớm, lưng còng, tay chân run rẫy cùng những
giọt mồ hôi của dì Bảy… trong những tháng năm dài bền bỉ lo cơm nước cho
đại chúng. Dì Bảy không còn mang hình ảnh một mụ già nhà quê dốt nát,
lãi nhãi than phiền suốt ngày nữa, mà là vị bồ tát trải thân nấu bếp để
hộ trì tam bảo. Chàng cũng không phải tránh né chú Trí Danh tức "nhà
lang băm thuốc xổ" nữa. Chàng bình tỉnh, thương yêu ngồi nghe chú thuyết
pháp. Lắng nghe là học hạnh nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát, lắng nghe là
tạo cho người có nhu cầu nói cơ hội được giải bày những điều dồn nén sôi
sục trong lòng. Chỉ lắng nghe mà tạo cho người niềm vui, sao mình không
làm được nhất là đối với kẻ có lòng, thiết tha hoằng dương chánh pháp
như chú Trí Danh. Tóm lại, bất cứ huynh đệ nào chàng cũng khám phá được
nét thánh thiện, để noi theo hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát, mà tùy hỉ tán
thán công đức của họ. Từ đó, dưới nhãn quan mới của chàng, ngôi tự viện
trước kia chất chứa phiền não, đa sự nay đã chuyển biến thành chốn đạo
tràng thanh tịnh, và đại chúng ai ai cũng là những bậc thiện tri thức,
thuận hành hay nghịch hành, dẫn dắt Trí Lâm trên con đường tu học.
Bảy năm thắm thoát trôi qua, Trí Lâm tu hành tinh tấn, nên thường được
thầy cho phép nhập thất tĩnh tu một thời gian dài tại Long Động, một
hang đá thiên nhiên cách Vân Yên nửa giờ leo núi. Mỗi lần chuẩn bị nhập
thất đều có chú Trí Lạc kề cận đưa tận nơi, mãn hạn thì chú cũng hân
hoan chờ đón. Hằng ngày, cũng chính chú đảm trách việc tiếp tế cơm nước,
nhưng chú chỉ mang đến cửa động chớ không hề tiếp chuyện. Lần nhập thất
nầy sư phụ ấn định là một năm, để chàng giải quyết công án "Phật là ai
?". Trái lệ thường, mãn hạn tĩnh tu, ra khỏi động, Trí Lâm không thấy sư
đệ, mà lại có sự hiện diện của sư cô Trí Duyên đang đăm chiêu nét mặt.
- Có điều chi hung hiểm cho sư đệ, mà trông sư muội tỏ vẻ lo âu như vậy
?
- Sư huynh ạ ! thời gian sư huynh tĩnh tu thì bọn nhà Minh đã đem quân
tiêu diệt nhà Hồ, xâm chiếm trọn vẹn đất nước ta rồi. Chúng chủ trương
đồng hóa dân ta, nên một mặt chúng cưỡng ép người mình phải sống theo
phong tục họ, mặt khác chúng ra tay tịch thu sách vở do người xưa sáng
tác để tiêu diệt văn hóa nước Nam nữa. Ba hôm trước, sư phụ được tin
chúng sẽ chiếm giữ hệ thống chùa chiền thiền phái Trúc Lâm, đốt hết kinh
sách của chư tổ biên soạn, nhằm tiêu diệt thiền phái đặc thù của dân
tộc. Vì vậy, sư phụ đã ra lệnh cho chôn dấu kinh sách, giải tán môn đồ
và khuyên mọi người nên tùy phương tiện riêng mà lánh về những ngôi chùa
làng nho nhỏ ẩn thân qua cơn ách nạn. Đại chúng náo loạn, mạnh ai nấy lo
thân, chỉ có sư để Trí Lạc và muội còn nhớ đến sư huynh ẩn tu nơi nầy.
Sư đệ còn phải lo nâng đỡ sư phụ xuống núi, nên sư muội mới lãnh phần
lên đây thông báo tin cho sư huynh. Sư huynh chỉ còn có ba ngày là hoàn
mãn thời tĩnh tu, nên dù rất nôn nóng, muội vẫn cố gắng không dám khinh
động…
- Đa tạ sư muội ! sư muội đã hi sinh chờ đợi huynh hoàn mãn khóa tu.
Tình thế xem ra khá nghiêm trọng, có lẽ chúng ta cũng phải nhanh chân
thoát khỏi chốn nầy ngay. Sư muội đã có dự định chọn chốn nào dung thân
chưa ?
- Muội bối rối quá chẳng biết đi về đâu ? Sư huynh liệu định cho muội
được không ?
- Như thế nầy nhé ! huynh sẽ đưa sư muội về Nộn Sơn. Chùa ấy tương đối
nhỏ bé, chắc không bị quân Minh gây phiền nhiễu. Sau đó, huynh sẽ về quê
mẹ, nương náu một thời gian rồi tùy cơ mà tu tập…
Trí Lâm chụp lấy tay nải mang vài vật dụng cần thiết rồi hối hả đưa sư
cô đi con đường tắt, tuy gian nan nhưng may ra tránh được quân Minh.
Đường đi cheo leo, sư cô lại đủng đỉnh, thành thử khi hai người đang lội
qua giòng suối Giải Oan, thì đã bị toán tiền sát của quân Minh phát
giác. Không thể thoát thân một mình, Trí Lâm đành theo lệnh chúng quay
trở lên bờ nạp mạng. Tên trưởng toán, lúc đầu dùng lời lẽ ôn hòa dò hỏi
chàng về tung tích của hòa thượng Vô Trước, sau đó, hò hét nộ nạt chàng
mà vẫn không thấy kết quả, bèn nổi cơn thịnh nộ ra lệnh cho thủ hạ dã
man tra tấn chàng. Sư cô khóc van lạy chúng tha sư huynh một cách vô
vọng, cô chạy đến cạnh sư huynh thì chúng lôi trở lại. Sự lôi kéo vùng
vẫy vô tình khiến vạt áo nâu sòng rách một mảnh lớn, làm lộ làn da trắng
nõn, khiến cho bọn lính hung hản khoái trá hô hố cười dâm loạn. Tên chỉ
huy xé toạt áo quần sư cô để làm hổn, trước sự vỗ tay hoan hô của đồng
bọn. Trí Lâm vốn hành hạnh nguyện nhẫn nhục, bị tra tấn vẫn vui vẻ chịu
đựng lòng không oán hận, nhưng trước hoàn cảnh của sư cô, chàng không
thể an nhiên bất động nữa. Chàng vùng dậy toan giải cứu sư cô thì bị bọn
chúng vây quanh dùng gậy đánh đập chàng túi bụi, đến khi chàng gục ngã
bất động mới thôi. Hoàn cảnh sư cô càng bi đát hơn. Sư cô bị bọn chúng
thay phiên nhau cưỡng hiếp liên tục, khi chúng bỏ đi, thì sư cô cũng chỉ
còn là một cái xác không hồn.
Đêm khuya vắng lặng. Tiếng suối Giải Oan thều thào hòa lẫn với tiếng côn
trùng nỉ non, tạo thành điệu nhạc não nùng ai oán. Vầng trăng lưỡi liềm
nhợt nhạt trốn biệt trong cụm mây thưa để khỏi phải soi rọi cảnh tang
thương dưới trần thế. Thầy Trí Lâm lần lần hồi tỉnh. Thầy nghe đau nhức
rã rời, tay chân rũ riệt mà không biết mình đang ở đâu và việc gì đã xảy
ra. Trí óc khôi phục dần, nhớ lại nội vụ, thầy hốt hoảng đảo mắt tìm Trí
Duyên thì thấy thân xác bất động của sư cô co quắp không xa. Thầy chồm
dậy nhưng sụm xuống tức khắc, đau đớn đến độ muốn ngất xỉu, chân trái
chàng có lẽ đã gãy, không thể lay động nỗi. Thầy nghiến răng lết từng li
một, khoảng cách mấy thước mà tưởng chừng như cả dậm trường. Cuối cùng
thầy cũng lết đến cạnh sư cô. Thầy thấy sư cô nằm nhắm mắt im lìm, da
xanh mét như một xác chết, vội vã lay gọi :
- Sư muội ơi ! sư muội !
Sư cô bỗng nấc một tiếng, rồi khóc òa lên :
- Muội muốn chết sư huynh à !
- Không nên có ý nghĩ như vậy ! sư muội ạ !
- Khổ đau nhơ nhuốc quá sức như thế nầy, muội làm sao sống nỗi hả sư
huynh !
Chờ một chút không thấy thầy Trí Lâm lên tiếng, sư cô mở mắt ra nhìn mới
biết thầy đã ngất xỉu tự bao giờ. Thầy đã vận dụng hết sức bình sanh lê
thân xác bê bết máu đến bên sư cô là kiệt quệ. Sư cô thân thể cũng tê
dại rã rời, tưởng không nhúc nhích nỗi, nhưng vừa thấy tình trạng thê
thảm của sư huynh đã lồm cồm dậy. Sư cô quên đau đớn, quên giá lạnh buốt
xương, tìm được mảnh bình bát bể, bò xuống suối múc nước lau mặt mày cho
sư huynh, rồi nâng đầu bón từng ngụm nước.
Trí Lâm tỉnh dậy, thân thể đau nhức mà trí óc rất sáng suốt. Chàng xúc
động nghẹn ngào trước sự lo lắng và chăm sóc tận tình của sư cô. Chàng
thầm nghĩ, sau hoạn nạn khủng khiếp nầy, chắc sự gần gũi của hai người
khó dừng lại trong tình pháp huynh pháp muội. Ta và nàng ắt hẳn đã có
giây buộc ràng từ kiếp trước, cùng tạo chung cộng nghiệp, để rồi ngày
nay còn chung gánh vác tai ương; giấc mộng từng ám ảnh ta năm xưa có lẽ
không phải là huyễn hoặc. Ta nguyện chia xẻ khổ đau với nàng, không nỡ
để nàng thui thủi gậm nhấm đắng cay nầy suốt cả cuộc đời.
Nghĩ suy chín chắn rồi, Trí Lâm thều thào từng tiếng, nhỏ mà rõ rệt :
- Nầy sư muội ! sự thể xảy ra như thế nầy huynh nghĩ chúng mình khó lòng
tiếp tục tu hành. Thời buổi loạn lạc như vầy tìm chốn nương thân an toàn
cho muội cũng không phải đơn giản. Hay là muội theo sư huynh về quê thưa
với mẫn thân thành hôn với muội.
Sư cô không lên tiếng, chỉ khẽ gật đầu, nhưng trên gương mặt thảm sầu đã
lộ được niềm tin yêu hi vọng.
Trong tay nải may mắn còn bộ y khác cho sư cô tạm che thân. Sư cô băng
bó cấp thời những vết thương cho Trí Lâm, rồi nâng đỡ sư huynh lần từng
bước về Hà Nam. Đường đi vất vả nhọc nhằn, nhưng đã trải qua ách nạn
khủng khiếp rồi thì trở lại nào cũng tầm thường vô nghĩa. Chỉ tiếc là
chân trái Trí Lâm bị gãy, không được chạy chữa kịp thời, xương nối liền
nhau không đúng khớp nên phải chịu khập khiểng suốt đời. Thời bấy giờ,
Hà Nam được đặt dưới quyền cai trị của viên huyện quan họ Nguyễn, là cựu
quan lại của nhà Hồ ra hàng giặc. Tuy làm quan cho quân Minh, nhưng
Nguyễn đại phu lại hết lòng bảo vệ lo lắng cho dân, do đó, trong khi các
địa phương lân cận bị bọn cướp nước sách nhiễu hãm hại dân lành, thì Hà
Nam lại được an cư lạc nghiệp. Phạm Ngũ Thư đi tu biệt tích, nay trở về
cưới vợ khiến bà mẹ hoan hỉ vô tận. Nàng dâu đảm đương và hiếu thảo lại
sanh cho bà ba đứa cháu nội, khiến bà thêm hỉ hả. Trong thời gian mười
hai năm trời an vui hạnh phúc gia đình, Ngũ Thư vẫn không quên nghĩa vụ
người trai thời loạn. Chàng gia nhập lực lượng khởi nghĩa chống quân
Minh của nhóm miêu duệ nhà Trần, hoạt động không được bao lâu thì tân
vương ra tay sát hại trung thần, khiến lực lượng tan nát và Ngũ Thư đành
rã ngũ quay về nhà. Mấy năm sau, người anh hùng áo vải đất Lam Sơn
trương cờ khởi nghĩa, tạo dựng thanh thế khá vững vàng. Lực lượng nghĩa
quân tuy dũng cảm có thừa, chiến thắng nhiều trận gay go, nhưng quân số
kém cõi không đủ sức đương đầu với giặc trong thế trận địa chiến. Bình
Định Vương phải rút quân về Chí Linh ẩn náu mấy lần. Ngũ Thư tìm đến
Bình Định Vương, tình nguyện thành lập hệ thống tình báo để nắm vững
địch tình. Chân sẵn tàn tật, chàng giả trang thành kẻ ăn xin để đi lại
khắp nơi thu lượm tin tức mà địch chẳng nghi ngờ. Tai mắt chàng phần lớn
là những đồng chí ăn xin tồi tàn. Họ càng dơ dáy, cùi hủi ghẻ lở, thì
lại càng được việc, họ có thể ngang nhiên "liều mạng cùi" xông bừa vào
chỗ đóng quân, kho lương của địch để quan sát, và la cà khắp nơi để
chuyển tin nhanh chóng mà an toàn. Nhờ tổ chức tình báo của Thư hoạt
động đắc lực, am tường tình trạng suy yếu của địch tại Nghệ An, Bình
Định Vương quyết định kéo quân vào Nam vây đánh nơi nầy. Sau Nghệ An,
quân ta tiếp tục cuộc tổng phản công trên khắp trận địa, rồi chỉ trong
vòng ba năm đã hoàn toàn đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước nhà.
Nền độc lập vừa vãn hồi thì Phạm Ngũ Thư đã viện cớ tàn tật để khước từ
quan chức. Bị Vua ép, chàng chỉ nhận tước làm là Đại Trí Tự và phần
thưởng hai trăm mẫu ruộng hương hỏa tượng trưng mà thôi.
Rời được chốn quan trường "đa sự" để về quê nhà, sống đạm bạc mà thanh
thản trong hạnh phúc gia đình, quả thích hợp với người hằng thiết tha
với nếp sống tu dưỡng thân tâm. Tuy tình nghĩa vợ chồng mặn nồng, tuy
hạnh phúc tràn đầy, mà lòng Thư vẫn mang niềm xao xuyến, ước muốn ra đi
vẫn thôi thúc trong lòng. Cả năm rồi, Thư định giải bày cho vợ ý nguyện
của mình nhưng cứ ngại ngùng. Thương nàng quá ! khổ thân nàng quá ! cả
đời nàng chỉ biết tận tụy hi sinh cho chồng. Chàng bôn ba việc nước,
nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ già, quán xuyến tề gia, nuôi dạy con
thơ. Nay nàng vừa mừng đoàn tựu thì mình đã tính chuyện ra đi ! tội
nghiệp làm sao ? Thư khẽ vuốt những sợi tóc bạc lòa xòa trên trán vợ, âu
yếm lên tiếng :
- Phu nhân ạ ! ta muốn bàn với em việc nầy !
- Vâng ! xin phu quân dạy !
- Thời lang thang lo việc nước, ta đã chung sống với giới ăn xin, cảm
thông được nỗi đau thương chua xót vô biên của những con người khốn khổ
bị xã hội khinh khi ruồng rẫy. Ta hằng phát nguyện sẽ chia xẻ, cứu giúp
xoa dịu thương đau cho họ…
- Sư huynh yên tâm ! Tài sản chúng ta không nhiều, nhưng nếu bán đi hết
thì cũng đủ cho sư huynh hoàn thành phần nào tâm nguyện cứu giúp người
nghèo mà!
Thư được vợ gọi là sư huynh thật là đẹp ý. Khi bàn bạc đạo lý, hai người
thường xưng hô huynh muội như thời tu tập trên núi Yên Tử, đàm luận
thoải mái hơn cương vị vợ chồng. Chàng vội tiếp lời :
- Huynh xin nhiệt liệt tán thán lượng "Quán Âm" của sư muội. Phần huynh,
huynh rất hiểu những kẻ khốn cùng, họ thù hận, chửi bới, oán ghét loài
người; dẫu buộc lòng nhận của bố thí để ấm no trong chốc lát, họ lại bị
dày dò trong mặc cảm, nghi kỵ, oán hờn. Bố thí cho họ một cách bình
thường nghĩ có lẽ mình nên hành tứ nhiếp pháp, chung sống ăn mày, ngọt
ngào tâm sự, đồng san sẻ ấm no, vui buồn, nhiên hậu tạo niềm cảm thông
thật sự nơi họ, và như vậy, mới chân thực an ủi họ. Nầy sư muội ! sư
muội có tán đồng hạnh nguyện của huynh không ?
Trên cương vị sư muội thì bà có thể gượng gạo tán đồng, còn trên cương
vị người vợ đã quen tôn kính chồng, bà chỉ biết cắn răng, gạt nước mắt
tiễn chồng ra đi.
Như người ăn mày chân chính. Ngũ Thư chống gậy trúc, áo quần rách rưới,
ăn xin sống qua ngày. Chàng tùy thuận theo nếp sống của giới ăn mày, rày
đây mai đó, nơi nào có hội hè, đình đám… làm ăn được thì qui tụ đến. Bậu
bạn với họ, người mới hiểu hết nỗi đau thương của họ, để san sẻ, khuyên
lơn, an ủi họ. Trong đêm lạnh run rẫy bên nhau chuyền hơi ấm, lúc đói
lòng chia chác chút cơm thừa, khi bắt chí vần công, rửa ghẻ lau máu mủ
tanh hôi cho nhau…, người lựa lời nhắc nhở họ về lý nghiệp báo hay
khuyên họ xả bỏ thù hằn, nghi kị…, khơi nguồn cho tình người tuôn chảy…
Phạm phu nhân ở nhà, thương chồng thương cả hạnh nguyện của chồng, bà
phát tâm "Quán Thế Âm", nghe tiếng kêu thương của thế gian liền hiện để
cứu giúp. Bà giúp cô nhi quả phụ, kẻ già yếu tàn tật, bà lo tang ma cho
kẻ chết đầu đường xó chợ. Chồng ra đi biền biệt, nhớ thương chồng chất,
phu nhân nghĩ đến giải pháp xây cất ngôi chùa riêng cho chồng tu, rồi
thuê người dò la tin tức rước ông về. Cuối cùng bà cũng tìm được chồng
trong dịp trẩy hội chùa thầy (7) tại làng Láng. Chứng kiến cảnh người
chồng già nua trong nếp sống tồi tàn, rách rưới, phu nhân xúc động nghẹn
ngào, cất tiếng van nài :
- Phu quân lao khổ thiếp rất đau lòng ! Thiếp đã dựng chùa sẵn để rước
phu quân về trụ trì, phát triển đạo tràng độ chúng. Mong phu quân chấp
thuận !
- Sư muội ! ta tùy thuận mà đi, trôi nổi như mây như gió, không ràng
buộc đã quen ! vả lại, với ta nơi nào chẳng là đạo tràng tu tập…
Bà đắn đo nhìn chồng, hiểu ý người, nhưng thương quá, bà vẫn cố gắng
lung lạc lần chót :
- Đành vậy, nhưng theo thời gian phu quân đã già rồi…, phu quân cần phải
tịnh dưỡng…
Lão ăn mày già, mỉm cười :
- Thời gian trôi thì ta cứ như thế mà bồng bềnh trôi, chớ ta nào có già
!
Phu nhân giựt mình, ngắm nhìn lang quân. Trong dáng dấp tồi tàn của
người hành khất, bà thấy hiển hiện sáng ngời nguồn sống rạt rào của kẻ
thong dong không chướng ngại, nhậm vận mà đi, tùy duyên mà hóa đạo. Bà
nghĩ mình không có quyền bận bịu ông nữa. Bà điềm tỉnh cất tiếng :
- Cảm tạ sư huynh đã nhắc nhở muội "tánh không già không chết, không nhơ
không sạch, không thêm bớt" đó. Sư huynh không già thì muội cũng chẳng
hề già. Sư huynh có hạnh nguyện của sư huynh thì muội cũng có hạnh
nguyện của muội. Muội chỉ mong sư huynh, khi thấy sắp gởi xác thân lại,
thì cũng nên về nhà cho con cháu thấy hành trạng của sư huynh mà quy
ngưỡng để tu dưỡng thân tâm.
Người ăn mày già khẽ gật đầu.
Từ dạo đó, phu nhân an nhiên và thanh thản xa chồng. Bà cứ dõng mãnh
tiếp tục hạnh nguyện ban vui cứu khổ, và người ăn mày già thì cứ tiếp
tục ăn mày.
Ba năm sau, tự nhận thấy thân xác sắp trả về cho cát bụi, người ăn mày
già quay trở về Hà Nam. Đúng giờ tí, ngày rằm tháng ba, người lần đến
sân đình làng Thư Lang, nằm nghiêng bên phải, đầu hướng Bắc, mặt nhìn
phương Tây, hai chân tréo nhau, mà lìa đời.
Như thường lệ, khi phát giác một xác chết vô thừa nhận, xóm làng cầu cứu
vị phu nhân hiền đức gánh vác phí tổn chôn cất. Thoáng nhìn dáng nằm
kiết tường (8) của người hành khất, phu nhân biết ngay là ai. Bà trang
trọng mang xác về nhà, theo đúng di chí của chồng mà làm lễ tang ma.
Người ăn mày chỉ muốn chôn cất theo cương vị ăn mày nên mẹ con bà lặng
lẽ quấn chiếu người đem chôn, trên mộ bia chỉ ghi năm chữ đơn giản :
Phạm khất sĩ chi mộ - mộ của người ăn mày họ Phạm -.
Từ ngày người ăn mày chết tại sân đình, làng Thư Lang sung túc hẳn lên :
mưa thuận gió hòa, ruộng lúa trúng mùa, sĩ tử đỗ đạt… Cảm ân đức phù hộ
của người, dân chúng đồng tôn thờ người làm thành hoàng xã Thư Lang.
Vào ngày kỵ của người ăn mày, con cháu họ Phạm và người dân sùng mộ, giữ
tục lệ đặc biệt; theo đó, họ mặc tang phục chia nhau đến các vùng lân
cận hành nghề ăn mày, xin tượng trưng mỗi nơi một nhúm gạo nhỏ đem về
nấu nắm cơm, giỗ cúng người xưa.
Lệ nầy đối với giòng trưởng lại nghiêm nhặt hơn. Người chánh thức hưởng
của hương hỏa phải thực sự hành nghề ăn mày một tuần trăng, họ phải thấm
thía khổ nhục của kẻ ăn mày, để thương yêu được giới bần cùng thì mới
được coi là vuông tròn chữ hiếu.
*
* *
- Eo ơi ! chuyện lạ lùng quá ! viết ở sách nào em chả thấy vậy anh ?
thím Năm chăm chú nghe chồng kể chuyện xong, tò mò hỏi.
- Dĩ nhiên là chưa có sách nào viết chuyện nấy, vì nó chi ghi và giữ kín
trong gia phả họ Phạm ở Hà Nam mà thôi.
- Vậy té ra…
- Đúng vậy ! bố là con giòng trưởng. Năm mười tám tuổi bố phải lặn lội
đến vùng Nghệ An, trốn lánh thật xa bè bạn, để ăn mày trọn tháng ba cho
đúng với truyền thống tổ tiên. Gia đình di cư vào Nam, bố vẫn bo bo chủ
trương giữ lệ cũ. Em cũng biết đó ! u sanh liên tục bốn cô con gái rồi
mới được đứa con trai, bà cưng giữ rất kỹ. Anh chỉ lẩn quẩn trong nhà
chơi đùa với mấy chị, chưa bao giờ ra khỏi nhà, nghe dự tính của bố sợ
sệt, khóc sướt mướt. U thương quá, phản đối lệ ăn mày quyết liệt, viện
lẽ hương hỏa đâu còn mà giữ gìn. Bố khăng khăng cho rằng nếu vừa mất
hương hỏa bỏ lệ ngay thì hóa ra giòng trưởng xưa nay tham lam hương hỏa
mà theo truyền thống chớ không thật lòng. Thế rồi, vào mùa bãi trường
năm anh học lớp bốn, bố tìm đâu được bà già mù người Nam, trả công cho
bà dẫn anh đi ăn xin một tháng trời khắp các chợ đô thành Saigon. Lúc
đầu anh buồn khổ khóc lóc liên miên, nhưng sau quen dần dần, thì cũng
vui lắm…
Thím Năm trố mắt nhìn chồng, không biết thực hư thế nào ! Chẳng lẽ
"thằng bé Bắc Kỳ" chơi cò cò với mình tại hẻm chợ Vườn Chuối năm xưa lại
là chàng ! Chắc đúng anh chàng chẳng sai ! Chàng cứ lẩn quẩn chơi với
bốn bà chị, thảo nào sành sõi đủ mọi trò chơi con gái. Ngày mới quen
nhau mình đã ngờ ngợ rồi mà ! Thím cười thật vui "rắn mắc" (9) hỏi chồng
:
- Nầy anh ! chừng nào thì anh mới cất nhà cho em đây ! Chú Năm đâu thể
ngờ bà vợ nhớ đến trò chơi cò cò thuở bé, chú nghe vợ hỏi lạc đề sang
chuyện khác hơi ngạc nhiên, nhưng lại nghĩ bà đang tơ tưởng mộng cất nhà
bên sông Cửu Long để về hưu, nên đáp hụ hợ cho qua :
- Ơ ! chưa tìm được sở đất vừa ý, lo chi chuyện xây cất vậy bà !
- Khổng biết đâu ! cất nhà thì phải cho em ở chung đó !, thím trổi giọng
nhỏng nhẽo như cô gái nhỏ.
Chú cũng cười khà khà :
- Tui đâu có mình đồng xương sắt mà dám làm chuyện động trời đó ! Không
cho bà ở thì bà đốt nhà, bà "cạo đầu khô" tui, chớ chịu để yên sao ?
oo0oo
Ghi Chú:
1. Hưng Thiền Đại Đăng quốc sư (Doto, 1282-1337), tổ khai sáng Đại
Đức tự ở Nhật, thuộc dòng thiền Lâm Tế, pháp tự là Tôn Phong Diệu Siêu.
Tương truyền tổ dành một phần ba cuộc đời, sống chung với những người
nghèo hèn ăn xin trú tại gầm cầu Gojo. Tổ cũng đi ăn xin và làm những
công việc hèn hạ, hầu tạo sự gần gũi và niềm cảm thông nơi kẻ bần cùng
mà tế độ họ, bất chấp những cái nhìn miệt thị của giới phong lưu, giới
tu sĩ hưởng thụ đương thời. (Trích theo Thiền Luận, bộ thượng, bản dịch
Trúc Thiên).
2. Trung Đình Hòa Thượng : Ngài là nhân vật lịch sử không lưu lại tên
họ, xuất hiện vào thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777). Ngài mang ba
bị, khất thực trong làng được đồ chay đựng một bị cho Ngài dùng, bị thứ
hai đựng đồ mặn dành cho kẻ ăn xin khác và bị lớn, dùng để treo lên mái
đình mà ngồi. Vì vậy Ngài mang hai bí danh là Ông Ba Bị và Trung Đình
Hòa Thượng. Tu hành đắc đạo, Ngài quyết định tự thiêu trên hỏa đàn dựng
tại chùa Thiên Mụ. Tín thí thỉnh cầu Ngài lưu lại chút di thể, Ngài đưa
lên một ngón tay. Khi lửa bừng lên, gió thổi lệch mũ Quan Âm, Ngài lấy
tay sửa lại cho ngay ngắn, rồi chấp tay niệm kinh cho đến khi tịch. Ngón
tay nguyên vẹn lưu lại, tro và xá lợi đặt trong tháp thờ bên chùa Thiên
Mụ. (Theo Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, T. T. Mật Thể).
3. Dịch nghĩa :
Ca sa chưa mặc than nhiều việc
Được mặc ca sa việc lại nhiều.
4. tri huyện thời mạt Trần
5. tổng trấn
6. Đệ nhất tổ phái Trúc Lâm là Điều-Ngự Giác-Hoàng, tức vua Trần Nhân
Tông.
7. Chùa Thầy tức chùa thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh. Tương truyền thiền sư Từ
Đạo Hạnh dựng am Bổ Đà trước cửa hang Cắc Cớ, núi Sài Sơn tu hành đắc
quả và thác hóa chốn nầy. Vua Lý Nhân Tông sắc đổi tên hang là Thanh
Hóa, dựng am thành chùa Phật Tích. Tại làng Láng tức làng Yên Lãng,
ngoại thành Hà Nội, cũng có chùa Thầy, thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh. Hội
chùa Thầy, tức giỗ tổ Từ Đạo Hạnh, nhằm ngày mùng 7 tháng ba, từ làng
Láng kéo dài đền Sài Sơn, theo như câu ca dao :
Nhớ ngày mùng bẩy tháng ba
Trở vào hội Làng, trở ra hội Thầy.
8. dáng nằm của Đức Phật khi tịch diệt.
9. tinh nghịch.
Đầu Trang |
|