Pháp
sư
Tuyên
Hóa,
một
Thiền
Sư
Trung
Hoa
thời
hiện
đại
Pháp
sư
được
xem
là
nhà
truyền
bá
Phật
giáo
Trung
Hoa
thành
công
nhất
trên
đất
Mỹ
ở
cuối
thế
kỷ
XX
này.
Thân
thế
và
dòng
họ:
Pháp
sư
thế
danh
là
Bạch
Ngọc
Thư
,
Pháp
danh
An
Từ,
tự
Độ
Luân,
Pháp
hiệu
Tuyên
Hóa.
Ngài
sinh
ngày
26/04/1918
(nhằm
ngày
thứ
sáu,
16
tháng
3
năm
Mậu
Ngọ)
tại
làng
Kiết
Lâm,
Mãn
châu
thuộc
vùng
Đông
Bắc,
Trung
Hoa,
trong
một
gia
đình
có
tám
người
con.
Thân
phụ
là
cụ
ông
Phú
Hải
và
mẹ
là
người
họ
Hồ.
Ngài
là
người
con
út
trong
một
gia
đình
có
truyền
thống
kính
tín
Tam
Bảo.
Mẹ
của
ngài
ăn
chay
trường
và
tu
theo
pháp
môn
niệm
Phật.
Trước
khi
sanh
ngài
bà
có
một
giấc
mơ
kỳ
lạ.
Một
đêm
nọ,
bà
thấy
một
luồng
hào
quang
của
Đức
Phật
A
Di
Đà
chiếu
sáng
khắp
mọi
nơi
và
làm
chấn
động
đất
trời.
Giật
mình
dậy
bà
ngửi
thấy
mùi
thơm
kỳ
diệu
lan
tỏa
khắp
trong
phòng.
Không
lâu
sau
đó
bà
đã
hạ
sanh
ngài.
Xuất
gia
và
tu
học:
Vào
năm
11
tuổi,
trong
một
lần
băng
qua
một
cánh
đồng
gần
ngôi
làng,
ngài
thấy
một
tử
thi
của
một
đứa
trẻ
nằm
dưới
đống
rơm.
Ngài
chưa
từng
thấy
người
chết
trước
đó,
nên
hỏi
mẹ
ngài
và
mới
biết
đó
là
cái
chết,
cái
sự
hủy
hoại
của
một
kiếp
người.
Trong
tâm
trí
non
nớt
bất
giác
ngài
suy
nghĩ
có
cách
nào
để
thoát
khỏi
sự
chết
chăng
?
và
ngài
được
một
người
quen
khuyên
rằng
"chỉ
có
một
con
đường
duy
nhất
để
thoát
chết
là
tu
tập
theo
con
đường
Đạo
để
giác
ngộ
được
bản
tâm
và
biết
rõ
được
bản
lai
diện
mục
của
mình"
(The
only
way
to
escape
death
is
to
practice
the
Tao/Way
so
as
to
enlighten
one's
mind
and
understand
one's
inner
self).
Do
đó
ngài
muốn
xuất
gia
đầu
Phật
để
có
thể
thực
hành
được
con
đường
đạo
trọn
vẹn.
HT Tuyên Hóa và hai đệ tử người Mỹ
(xem bài về hai vị
này ở đây)
Ngài
đến
bày
tỏ
ý
nghĩ
cao
đẹp
này
với
mẹ
và
được
mẹ
khuyên
rằng:
"xuất
gia
là
chuyện
tốt,
nhưng
cũng
không
phải
là
chuyện
dễ
làm.
Cần
phải
có
thiện
căn,
phải
có
đại
nguyện
lực,
phải
phát
đại
Bồ
đề
tâm
thì
mới
có
thể
thành
tựu
được
Vô
thượng
đạo.
Nay
con
phát
tâm
như
vậy,
mẹ
lòng
ủng
hộ
và
điều
này
cũng
khế
hợp
với
giấc
mơ
của
mẹ
năm
xưa.
Tuy
nhiên,
nay
mẹ
đã
già,
ngày
tháng
chẳng
còn
bao
lâu
nữa,
các
anh
chị
của
con
đều
đã
tự
lập,
con
nên
ở
lại
để
phụng
dưỡng
cha
mẹ
tuổi
già,
khi
cha
mẹ
qua
mãn
phần
rồi,
con
xuất
gia
cũng
không
muộn".
Ngài
vâng
lời
mẹ
và
ở
lại
phụng
dưỡng
cha
mẹ.
Ngày
ngày
ngài
theo
mẹ
tu
pháp
môn
niệm
Phật
và
lạy
Phật
sám
hối
để
tiêu
trừ
nghiệp
chướng.
Đến
năm
ngài
19
tuổi
thì
mẹ
ngài
qua
đời.
Ngài
đến
Chùa
Tam
Duyên
,
đãnh
lễ
và
chính
thức
xuất
gia
với
Hòa
Thượng
Thường
Trí
.
Sau
đó
ngài
trở
lại
quê
nhà
để
tiếp
tục
nghiên
cứu
kinh
điển
và
tu
tập
trong
một
thiền
thất
nhỏ
bên
ngôi
mộ
của
mẹ
trong
ba
năm
để
tỏ
lòng
hiếu
đạo.
Trong
suốt
thời
gian
này,
ngài
tinh
tấn
tọa
thiền,
tụng
kinh
và
lạy
sám
hối.
Ngài
chỉ
ăn
mỗi
ngày
một
bữa
và
có
lúc
nhập
định
ba
ngày
liên
tục,
có
khi
đến
một
tuần
lễ
mới
xả
thiền.
Rồi
một
đêm
nọ,
người
dân
trong
làng
hoảng
hốt
thấy
thiền
thất
của
ngài
bỗng
phát
hỏa.
Hàng
trăm
người
xách
nước
chạy
đến
để
chữa
cháy.
Tuy
nhiên
khi
tới
nơi
họ
thấy
thiền
thất
của
ngài
vẫn
tĩnh
mịch
lặng
yên
và
ngài
vẫn
an
nhiên
trong
thiền
định.
Năm
1947,
sau
đệ
nhị
thế
chiến
(1940-1945),
Pháp
sư
bắt
đầu
chuyến
vân
du
hoằng
hóa.
Cuối
cùng,
trải
qua
hơn
ba
ngàn
dặm,
ngài
đến
chùa
Hoa
Nam
để
bái
kiến
Thiền
sư
Hư
Vân
(Hsu
Yun/Empty
Clound),
lúc
ấy
Thiền
sư
Hư
Vân
đã
109
tuổi.
Thiền
sư
Hư
Vân
vừa
nhìn
thấy
ngài
thì
liền
nhận
ra
hoa
trái
tu
tập
của
ngài
trong
thời
gian
qua.
Thiền
sư
Hư
Vân
nói:
"Như
thị,
như
thị",
và
ngài
cũng
đáp
lại:
"Như
thị,
như
thị
"
(Thus
it
is).
Thiền
sư
Hư
Vân
liền
ấn
chứng
sở
đắc
của
ngài
và
ngài
chính
thức
trở
thành
tổ
thứ
9
của
Thiền
phái
Quy
Ngưỡng
(Wei
Yang
Sect)
và
là
vị
tổ
thứ
49
của
Thiền
tông
Ấn-Hoa.
HT
Tuyên Hóa và hai đệ tử người Mỹ
(xem bài về hai vị
này ở đây)
Đạo
nghiệp:
-
Tại
Hồng
Kông:
Mùa
hè
năm
1949
cuộc
cách
mạng
trong
nước
bùng
nổ,
ngài
đến
tị
nạn
ở
Hồng
Kông.
Đến
nơi
không
có
một
đồng
xu
dính
túi,
ngài
đi
thẳng
đến
một
sơn
động
và
ngồi
kiết
già
nhập
định
trong
hai
tuần
lễ.
Lúc
bấy
giờ
đoàn
người
tị
nạn
kéo
sang
Hồng
Kông
ngày
càng
đông
từ
Hoa
lục.
Ngài
phải
rời
hang
động
và
tạo
ngân
quỹ
để
cứu
giúp
người
dân.
Hồng
Kông
là
mảnh
đất
của
Gia
Tô
giáo
từ
năm
1842
khi
Thực
dân
Anh
chiếm
cứ
ở
đây.
Do
đó
mọi
việc
Phật
pháp
phải
làm
lại
từ
đầu.
Trong
12
năm
hoằng
pháp
tại
Hồng
Kông,
ngài
đã
xây
dựng
chùa
Tây
Lạc
Viên,
Chùa
Từ
Hưng
Thiền
và
một
giảng
đường,
ngài
đã
tổ
chức
in
ấn
lại
một
kinh
sách
và
thuyết
pháp
giảng
kinh
cho
dân
chúng.
Đặc
biệt
là
ngài
cho
xuất
bản
tờ
báo
Tâm
Pháp
(Mind
Dharma)
để
phổ
biến
giáo
lý.
Các
bộ
Kinh
được
ngài
thuyết
tại
Hồng
Kông
gồm
có
Kinh
Hoa
Nghiêm
(Shurangama
Sutra),
Kinh
Địa
Tạng
(Earth
Store
Sutra),
Kinh
Kim
Cang
(Vajra
Sutra)
và
Kinh
A
Di
Đà
(Amitabha
Sutra)
...
và
chính
nhờ
các
pháp
hội
này
mà
PG
đã
nhanh
chóng
lan
tỏa
và
phát
triển
mạnh
ở
Hồng
Kông
trong
một
thời
gian
ngắn.
Trong
thời
gian
10
năm
lưu
trú
tại
đây,
pháp
sư
cũng
tổ
chức
các
chuyến
đi
hoằng
pháp
ở
các
nước
Thái
Lan
và
Miến
Điện
để
thuyết
giảng,
tìm
hiểu
và
nghiên
cứu
PG
Nam
Tông.
Ngài
mong
muốn
qua
ngài
sẽ
thiết
lập
thành
một
khối
thống
nhất
mạnh
mẽ
giữa
hai
truyền
thống
Nam
và
Bắc
truyền
của
Phật
giáo.
Tại
Úc
châu:
Năm
1959,
ngài
nhận
được
tin
Thiền
sư
Hư
Vân
viên
tịch
ở
Trung
Hoa,
thọ
thế
120
tuổi,
ngài
giả
từ
Hồng
Kông
và
đến
hoằng
pháp
tại
Úc
châu.
Tại
đây
ngài
được
mời
dạy
Hoa
ngữ
tại
một
đại
học
ở
Sydney
và
tổ
chức
thuyết
pháp
giảng
kinh
cho
Phật
tử
trong
cộng
đồng
người
Hoa
ở
New
South
Wales.
Năm
1961,
ngài
được
Hội
Phật
giáo
tại
tiểu
bang
Victoria
cung
thỉnh
về
chứng
minh
đại
lễ
Phật
đản
và
thuyết
pháp
trong
dịp
này.
Thời
gian
còn
lại
ngài
hướng
dẫn
cho
một
số
nhóm
thiền
sinh
tu
tập,
tuy
nhiên
công
việc
Phật
sự
chưa
đủ
nhân
duyên
để
khởi
phát
tại
Úc,
và
đến
cuối
năm
1961,
ngài
lên
đường
đến
California,
Hoa
Kỳ
để
tiếp
tục
sứ
mạng
cứu
khổ
độ
sinh
của
mình.
-
Tại
Mỹ
châu:
Tại
San
Francisco,
Ngài
sống
và
tu
tập
trong
một
căn
hộ
nhỏ
ở
khu
có
đông
người
Hoa.
Tại
đây
ngài
ẩn
nhẫn
tu
tập
thiền
định
để
chờ
đợi
cơ
duyên
thuận
lợi
để
ra
hoằng
pháp.
Lúc
bấy
giờ
ngài
tự
gọi
mình
là
Nhà
sư
trong
phần
mộ
(Mộ
Trung
Tăng/The
Monk
in
the
Grave).Thời
gian
đầu
ngài
chỉ
được
biết
đến
trong
cộng
đồng
người
Hoa,
nhưng
lần
lần
giảng
đường
của
ngài
có
nhiều
người
Mỹ
khác
đến
nghe
pháp,
đặc
biệt
nhiều
sinh
viên
người
Hoa
và
Mỹ
cũng
đến
nghe
pháp.
Trong
dịp
này
Pháp
sư
Tuyên
Hóa
đã
tuyên
bố
với
tín
đồ
về
mục
đích
chính
của
Ngài
có
mặt
ở
Mỹ
là
:
"Đem
giáo
lý
Phật
đà
qua
phương
Tây
và
thành
lập
ở
đây
một
cộng
đồng
Tăng
già
chánh
truyền
;
tổ
chức
và
hỗ
trợ
công
tác
phiên
dịch
toàn
bộ
kinh
điển
Phật
giáo
sang
tiếng
Anh
và
nhiều
thứ
tiếng
khác;
quảng
bá
một
nền
giáo
dục
hướng
thiện
qua
việc
thành
lập
các
trường
tiểu,
trung
và
đại
học
Phật
giáo".
Năm
1968,
Ngài
mở
một
giảng
đường
để
thuyết
pháp
tại
lầu
4
của
chung
cư
Waverly,
nơi
đây
từng
là
một
ngôi
đền
của
đạo
lão
và
ngài
bắt
đầu
thuyết
giảng
Kinh
Lăng
Nghiêm
(Suramgama
Sutra/
Flower
Adornment),
pháp
hội
này
kéo
dài
đến
96
ngày.
Sau
pháp
hội
này
ngài
tuyên
bố
rằng
:
"Năm
nay
hoa
Chánh
pháp
sẽ
nở
rộ
trên
đất
Mỹ-
một
đóa
hoa
năm
cánh"
(This
year
the
Dharma
flower
will
bloom
in
America
-
a
five-petalled
flower).
Đặc
biệt
trong
pháp
hội
Lăng
Nghiêm
này
có
30
sinh
viên
đến
từ
Đại
học
Wasington
ở
bang
Seattle
để
nghe
pháp.
Và
sau
khóa
tu
này
có
năm
sinh
viên
người
Mỹ
phát
tâm
xuất
gia
đầu
Phật.
Mùa
đông
năm
1969,
ngài
cho
trùng
tu
lại
ngôi
giảng
đường
và
đặt
tên
là
Tu
viện
Kim
Sơn
(Gold
Mountain
Monaster).
Kim
Sơn
là
danh
hiệu
của
một
ngôi
chùa
ở
Trung
Hoa
và
sinh
hoạt
tại
đây
đều
theo
quy
củ
thiền
môn
truyền
thống
của
PGTH.
Và
cũng
trong
năm
này,
Ngài
thành
lập
Viện
Dịch
Kinh
(The
Buddhist
Text
Translation
Society),
một
tổ
chức
chuyên
trách
việc
phiên
dịch
và
in
ấn
kinh
điển
và
đã
xuất
bản
trên
200
dịch
phẩm,
trong
đó
phần
lớn
được
dịch
sang
tiếng
Anh,
tiếng
Việt
và
tiếng
Tây
Ban
Nha.
Vào
ngày
7
tháng
7
năm
1972,
Ngài
mở
đại
giới
đàn
để
truyền
giới
cho
hơn
200
Tăng
Ni
ở
Mỹ
và
các
nước
lân
cận
về
thọ
giới
trong
dịp
này,
đặc
biệt
trong
đó
có
năm
vị
tăng
sĩ
người
Mỹ,
đây
là
lễ
truyền
trao
giới
pháp
đầu
tiên
trên
đất
Mỹ,
đàn
giới
kéo
dài
108
ngày.
Theo
Mahavamsa
(bộ
đại
sử
của
Tích
Lan,
vua
Mahanama
cho
rằng
"Phật
giáo
không
thật
sự
cắm
rễ
trên
một
đất
nước
cho
tới
khi
nào
một
người
dân
của
xứ
sở
ấy
được
thọ
giới
ngay
trên
quê
hương
của
anh"
(Buddhism
could
not
truly
be
said
to
have
taken
root
in
a
country
until
a
native-born
son
could
be
ordained
in
his
native
land).
Điều
kiện
này
hôm
nay
nước
Mỹ
đã
hội
đủ.
Năm
1974,
pháp
sư
đã
mua
lại
một
bệnh
viện
ở
California
để
thành
lập
Vạn
Phật
Thánh
Thành
(City
of
Ten
Thousand
Buddhas).
Đây
là
một
cơ
sở
hoằng
pháp
vĩ
đại
nhất
từ
trước
tới
nay
tại
Mỹ
với
diện
tích
rộng
488
mẫu
(rộng
gấp
25
lần
tòa
Bạch
ốc).
Pháp
sư
Tuyên
Hóa
đã
nói
về
nhân
duyên
thành
lập
Vạn
Phật
Thánh
Thành
(VPTT)
:
"Có
thể
nói
rằng
nhân
duyên
thành
lập
VPTT
đã
được
định
trước
từ
vô
lượng
kiếp.
Làm
sao
chúng
ta
có
thể
xây
cất
được
bảy,
tám
chục
tòa
nhà
như
thế
?".
Thật
ra,
nơi
này
là
một
bệnh
viện
do
chính
quyền
California
xây
dựng
từ
năm
1930,
tất
cả
vật
liệu
kiến
trúc
và
các
thiết
bị
bên
trong
đều
thuộc
loại
thượng
hảo
hạng.
Toàn
khu
bệnh
viện
có
hơn
70
tòa
nhà
thuộc
loại
công
trình
kiến
trúc
lớn,
trên
2000
phòng,
3
sân
chơi
bóng
chày,
1
trạm
cứu
hỏa,
1
hồ
bơi,
1
lò
đốt
rác,
cùng
nhiều
thiết
bị
cung
cấp
nước
chữa
lửa
nằm
rải
rác
dọc
vệ
đường.
Một
con
đường
tráng
nhựa
ngoằn
ngoèo
ăn
thông
với
các
ngả,
hai
bên
có
trụ
đèn
đường
và
nhiều
cây
cổ
thụ
hơn
cả
trăm
năm.
Tất
cả
các
ống
dẫn
nước,
mạng
nối
các
thiết
bị
điện,
hệ
thống
dẫn
điện
dùng
cho
máy
sưởi
và
máy
điều
hòa
đều
được
thiết
kế
dưới
mặt
đất.
Các
công
trình
đều
được
nghiên
cứu
một
cách
cẩn
thận
về
cả
mặt
thiết
kế
lẫn
vật
liệu.
Toàn
khu
bệnh
viện
có
đủ
chỗ
cho
hơn
20000
người
cư
trú.
Vào
giữa
năm
1970,
bang
California
gặp
phải
một
trận
đại
hạn
hán
vô
tiền
khoáng
hậu,
nạn
thiên
tai
này
đã
ảnh
hưởng
vô
cùng
nghiêm
trọng
đến
sinh
hoạt
của
bệnh
viện
này.
Chính
phủ
có
mời
công
ty
đào
giếng
nổi
tiếng
nhất
ở
Mỹ
đến
đào
nhưng
không
có
nước,
Chính
phủ
lâm
vào
cảnh
bế
tắc,
đành
phải
chuyển
bệnh
nhân
đi
nơi
khác
và
bán
bệnh
viện
này
với
giá
rẻ.
Sau
khi
mua
lại
bệnh
viện
này,
pháp
sư
Tuyên
Hóa
đã
tái
tạo
thành
VPTT.
Nhằm
giải
quyết
nạn
khan
hiếm
nước,
ngài
đã
dùng
tuệ
nhãn
để
xác
định
vị
trí
mạch
nước
ngầm,
và
công
việc
này
đã
thành
công.
Đây
là
một
sự
kiện
bất
khả
tư
nghì,
và
cho
đến
hôm
nay,
mỗi
khi
nhắc
lại
sự
kiện
này
mọi
người
đều
thấy
vui,
xúc
động
pha
lẫn
hào
hứng.
Cổng Tam Quan Vạn Phật Thánh Thành
Vạn
Phật
Thánh
Thành
là
nơi
hội
tụ
của
những
người
có
đạo
đức
trí
tuệ
chân
chính.
Tại
đây
tuyệt
đối
không
có
sự
phân
biệt,
chia
rẽ,
Nam-Bắc
tông
đều
thông
giao,
văn
hóa
Đông
Tây
đều
hòa
hợp,
nhân
sĩ
trên
thế
giới
xem
đây
là
một
cõi
để
quay
về
tự
tâm.
Pháp
sư
Tuyên
Hóa
đã
khẳng
định
rằng
"VPTT
không
phải
là
một
cơ
sở
của
tư
nhân,
nó
thuộc
quyền
sở
hữu
của
tất
cả
Phật
tử
trên
thế
giới,
kể
cả
tín
đồ
của
mọi
tôn
giáo
khác".
Đời
sống
tu
học
tại
VPTH
được
áp
dụng
cả
năm
Tông
phái
lớn
của
PGTH,
đó
là
Luật
tông
(Vinaya/Disciple),
hành
giả
thọ
trì
250
giới
dành
cho
Tỳ
kheo
và
348
giới
dành
cho
Tỳ
kheo
ni,
5
giới
dành
cho
Phật
tử
tại
gia;
Thiên
Thai
tông
(T'ien
T'ai
),
chuyên
chú
đến
việc
học
kinh
và
tụng
Kinh;
Mật
tông
(Esoteric),
thọ
trì
thần
chú
và
các
môn
Đà
ra
ni;
Tịnh
độ
tông
(Pureland),
tụng
kinh
và
niệm
danh
hiệu
Phật
A
Di
Đà
(Namo-om-i-t'o-fa)
và
Thiền
tông
(Ch'an/Zen)
bao
gồm
tọa
thiền
và
tham
công
án
(Kung-an).
Đặc
biệt,
Pháp
sư
Tuyên
Hóa
khuyên
dạy
các
đệ
tử
phải
tinh
tấn
thọ
trì
Sáu
nguyên
tắc
sống
(lục
đại
tông
chỉ)
mà
chính
nó
đã
giúp
cho
ngài
thành
tựu
được
đạo
nghiệp,
Đó
là:
Không
tranh
,
Không
tham,
Không
tìm
cầu,
Không
ích-kỷ,
Không
mưu
cầu
tự
lợi,
và
Không
nói
dối.
(Six
great
principles:
do
not
fight,
do
not
be
greedy,
do
not
seek,
do
not
be
selfish,
do
not
pursue
personal
advantage,
and
do
not
lie-bringing
benefit
to
the
multitudes)
Sáu đại
tông chỉ của HT Tuyên Hóa ( bấm vào hình để xem lớn hơn)
Lời
kết:
Pháp
sư
Tuyên
Hóa
cũng
nổi
danh
về
đức
khiêm
cung
vô
ngã
và
lòng
từ
bi
vô
biên
đối
với
chúng
sanh.
Ngài
hành
đạo
không
biết
mệt
mỏi
cho
đến
suốt
đời.
Ngài
đã
viên
tịch
vào
ngày
mùng
10
tháng
5
năm
Ất
Hợi
(1995)
tại
VPTT,
Los
Angeles,
California,
Hoa
Kỳ.
Sự
ra
đi
của
Pháp
sư
giống
như
mặt
trời
khuất
bóng,
khiến
ai
cũng
thương
cảm
thống
thiết.
Cuộc
đời
tu
tập
và
hành
đạo
của
ngài
là
một
tấm
gương
sáng
ngời
cho
tất
cả
chúng
sanh.
Với
tinh
thần
từ
bi,
trí
tuệ
và
tận
tụy
với
chúng
sanh,
ngài
đã
cảm
hóa
được
hàng
vạn
người
trở
về
với
Chánh
Pháp,
đi
theo
con
đường
thanh
tịnh
và
giải
thoát.
Hy
vọng
rằng
sự
nghiệp
giáo
hóa
của
ngài
sẽ
được
duy
trì
và
ngày
càng
phát
triển
hơn
nữa
trên
đất
Mỹ.
Tham
khảo
theo
các
tài
liệu:
John
Snelling,
The
Buddhist
Handbook,
the
complete
guide
to
Buddhist
Schools,
Teachings,
Practice,
and
History,
Inner
Traditions,
Rochester,
Vermont,
1998.
Rick
Fields,
How
the
Swans
came
to
the
lake,
A
Narrative
History
of
Buddhism
in
America,
Shambhala,
Massachusetts,
USA,
1992.
Paul
Croucher,
A
History
of
Buddhism
in
Australia
1848-1988,
NSWU
Press,
1989.
Website:
Dharma
Realm
Buddhist
Association
(http://www.drba.org/)
-
o0o
-
|
Khai
thị
của
Hòa
Thượng
Tuyên
Hóa
|
---o0o---
---o0o---
|Danh
Nhân
Phật Giáo Thế
Giới | Tủ sách
Phật Học |
---o0o---
Kỹ thuật vi tính: Hải
Hạnh,
Ðàm
Thanh,
Diệu
Nga,
Tâm
Chánh,
Nguyên
Tâm
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 01-04-02
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục