Thích Minh Châu (1963)
Bản dịch Việt ngữ: "Pháp Hiển, Nhà Chiêm Bái", Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1997),
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành
Phần IV
Những tư liệu địa hình trong
Phật Quốc Ký của Pháp Hiển
--- o0o ---
Pháp
Hiển không quan tâm gì khác ngoài ra để ý tín ngưỡng Phật
giáo được thực hành như thế nào tại những xứ sở Ngài
đã viếng thăm. Bởi thế ta không lấy làm lạ khi ký sự
của Ngài không ghi nhiều dữ kiện liên hệ đến địa hình
và dân tộc học như ta tìm thấy trong Tây Du Ký của Huyền
Trang. Tuy thế sự đóng góp của ngài về lãnh vực này cũng
đáng kể, vì nó gợi cảm hứng cho Huyền Trang về sau để có
những tường thuật kỳ diệu trong Tây Du Ký. Mặc dù không
hoàn toàn chính xác, tài liệu của Pháp Hiển cũng cho ta một
bức tranh khá rõ về một số quốc gia ngài đã đi qua: khía
cạnh địa hình, cư dân, khí hậu và rau cỏ.
I
- Khía cạnh địa hình
1.
Ðôn Hoàng:
"Họ đi đến
Ðôn Hoàng ở đấy có những thành lũy dài khoảng 80 dặm
từ Ðông sang Tây, 40 dặm Bắc Nam" (c: 7a, 5) "Trong sa
mạc này có nhiều Ác ma và gió nóng, gặp phải thì không ai
toàn mạng. Trên trời không có chim bay, dưới đất không có
thú chạy. Sa mạc trải dài vô tận; muốn vượt qua không
biết lấy gì làm dấu ngoại trừ những bộ xương người đã
chết trên đường" (c: 1a, 6-7).
2.
Xứ Thiện Thiện:
"Ðất này gồ
ghề không có rau cỏ" (c: 1a, 8).
3.
Xứ Cao Xương:
"Xứ này ở
giữa dãy núi Tuyết: (c: 1b, 10-11).
4.
Dãy Núi Tuyết (Pamirs)
"Họ đi về Tây
Nam rặng Núi Tuyết trong 15 ngày. Ðường đi rất hiểm nguy,
viền quanh toàn vực thẳm. Những rặng núi giống như những
bức tường đá dựng có hàng ngàn đỉnh nhọn, nhìn đến
hoa cả mắt. Bước thêm một bước là người ta sẽ rớt
xuống vực vì không có chỗ nào để đặt chân bám. Bên dưới
có con sông tên gọi là Indus. Người trước đã đẽo một
con đường đi trong đá, trông giống như một bực thang có
700 cấp. Sau khi qua hết những bực cấp này, họ đi qua sông
bằng một cái cầu dây. Khoảng cách giữa hai bờ sông chừng
80 bước. Sử chép rằng ngay cả hai sứ thần Trung Quốc ngày
xưa cũng không đi xa đến mức ấy (c: 1b, 15-16).
5.
Ô trường [Udyàna]:
"Ðây là vùng đất
xa nhất về phía Bắc Ấn" (c: 1b, 19-20).
6.
Kiền-đà-vệ [Gandhàra]:
"Sau khi đi về phía
Ðông 5 ngày, họ đến quốc gia Gandhara, ngày xưa là vương đô
của con trai vua A-dục" (c: 2a, 4-5).
7.
Xứ Uchcha:
"Từ đây - xứ
Harana - họ đi về phía Ðông 3 ngày, và lại qua sông Indus nơi
hai bờ ngang nhau" (c: 2b, 12).
8.
Phía Nam Trung Thổ (Ấn Ðộ):
"Sau khi qua sông
Indus thì đến phía Nam Diêm-phù-đề và cho đến biển nam
hải cách đó 40.000 - 50.000 dặm, đất toàn bằng phẳng, không
có núi lớn và thung lũng, chỉ có sông lớn sông nhỏ"
(c: 3a, 7-8).
9.
Thành Kanyàkubja:
"Thành này ở trên
bờ sông Hằng" (c: 3b, 8).
10.
Thành Ba-liên-phất:
"Sau khi qua sông
đi về phía Nam một do-tuần họ đến thành Ba-liên-phất phía
Nam Ma-kiệt-đà. Ba-liên-phất là đô thị dưới quyền cai
trị của vua A-dục ngày xưa. Trong thành này vua đã ra lệnh
cho phi nhân xây cung điện và chồng chất những tảng đá làm
tường. Những chạm trổ điêu khắc đều không thuộc thế
gian này. Phế tích những nơi ấy đến nay vẫn còn" (c:
5a, 9-11). "Trong toàn thể Ấn Ðộ, thành Ba-liên-phất này
lớn nhất" (c: 5a, 17).
11.
Ðô thành cũ của vua Bình-sa:
"Sau khi rời thành
Vương Xá mới, đi về hướng Nam 4 dặm, họ vào trong một
thung lũng có 5 ngọn đồi vây quanh như thành lũy. Ðây là thành
cũ của vua Bình-sa. Thành dài từ Ðông sang Tây 5-6 dặm, Nam-Bắc
5-8 dặm" (c: 5b, 8-9)
12.
Ðại quốc Champà:
"Xuôi dòng sông
Hằng đi về hướng Ðông 18 do-tuần, họ đến đại quốc
Champà ở về phía bờ Nam" (c: 7a, 9-10).
13.
Tàmralipti:
"Từ đây đi về
hướng Ðông chừng 50 do-tuần, họ đến nước Tamralipti nằm
trên bờ biển' (c: 7a, 11).
14.
Nước Sư Tử:
"Họ đi thuyền
14 ngày đêm đến nước Sư Tử. Theo người địa phương,
khoảng cách chừng 700 do-tuần. Nước này nằm trên một đảo
lớn Ðông Tây 50 do-tuần, Nam Bắc 30 do-tuần. Hai bên phải trái
có khoảng 100 hòn đảo nhỏ cách nhau 10, 20 hoặc 200 dặm.
Tất cả những đảo này đều tùy thuộc vào đảo lớn. Có
một vùng vuông vức 10 dặm sản xuất ngọc ma-ni. Quốc vương
đặt người canh gác vùng này và đánh thuế 3/10 những châu
ngọc kiếm được" (c: 7a, 12-14).
II.
Dân cư
1.
Xứ Thiện Thiện:
"Dân cư ở đây
mặc y phục hơi giống người Hán, chỉ khác là dùng vải làm
bằng dạ". (c: 1a,8) "Cư sĩ và Tăng già đều tuân
theo những tập quán phong tục thực hành ở Diêm-phù-đề,
một số người tuân hành chặt chẽ, một số không chặt
chẽ. Tình trạng tương tự thịnh hành khắp các nước mà
họ đã đi qua trên đường tiến về phía Tây. Chỉ có ngôn
ngữ các xứ này là không giống nhau. Nhưng những người có
đạo thì học sách Ấn Ðộ và nói ngôn ngữ Ấn Ðộ (Diêm-phù-đề)"
(c: 1a, 8-9).
2.
Xứ Agni [Ô-di]:
"Người nước Ô-di
không tuân giữ phép lịch sự và chỉ đãi khách qua loa"
(c: 1a, 11) "Vì suốt lộ trình không có cư dân nên cuộc hành
trình hết sức gian khổ". Những vất vả trên đường vượt
qua dãi đất này thật không bút nào tả xiết" (c: 1a,
12).
3.
Xứ Vu Ðiền [Khotan].
"Nước này rất
giàu có hạnh phúc. Cư dân có đời sống thịnh vượng và đều
là những tín đồ Phật giáo. Họ sung sướng thực hành Pháp".
4.
Xứ Cao Xương:
"Về phía Ðông dãy
núi, cư dân mặc một thứ vải thô như ở Trung Quốc, nhưng
nỉ dạ của họ thì khác" (c: 1b, 10).
5.
Dãy Tuyết Sơn - Parmirs:
"Cư dân đất này
được gọi là người Núi Tuyết" (c: 1b, 12).
6.
Xứ Udyàna [Ô-trường]:
"Xứ này là vùng
đất xa nhất về phía Bắc của Diêm phù-đề. Tất cả mọi
người đều nói ngôn ngữ của Diêm phù đề gọi là Kinh đô
Trung Thổ. Y phục và thực phẩm cũng giống như Trung Thổ"
(c: 1b, 19-20).
7.
Trung Thổ:
"Dân chúng giàu có
hạnh phúc, không bị gánh nặng của thuế má và quan lại.
Chỉ những người cày đất của vua mới phải nộp thuế.
Họ muốn đi đâu ở đâu tùy ý. Quốc vương cai trị không
cần dùng đến tra tấn và tử hình. Những người có tội
chỉ phải phạt vạ bằng tiền, nhiều ít tùy theo tội nặng
nhẹ. Những kẻ âm mưu chống lại triều đình chỉ có bị
chặt tay phải. Những người hầu cận vua được lương
bổng và tiền hưu trí. Dân xứ này chừa bỏ sát sanh, uống
rượu và ăn hành tỏi. Chỉ có những người làm nghề ác
được gọi là Chiên đà la thì sống cách biệt mọi người.
Mỗi khi bước vào thành thị, họ gõ một mảnh gỗ để báo
trước sự hiện diện của họ cho người khác biết để tránh.
Trong xứ này không ai nuôi heo gà, cũng không buôn bán sinh
vật. Không có những người đồ tể hay người bán rượu
trong các chợ búa. Trong giao dịch thương mại họ dùng vỏ
ốc làm tiền. Chỉ có những người Chiên-đà-la làm nghề săn
bắn chài lưới mới bán thịt cá" (2b, 16-20).
8.
Xứ Tăng-già-thi [Sankàsya]:
"Xứ này phì nhiêu,
dân cư đông đúc thịnh vượng và hạnh phúc vô song. Khách
từ phương xa đến đều được chào đón, cung cấp đủ
thứ cần dùng" (c: 3b, 2).
9.
Xứ Ca-tỳ-la-vệ:
"Xứ này trống
rỗng hoang tàn, rất ít dân cư. Ðưòng xá mất an ninh vì có
nhiều voi trắng và sư tử. Người ta không thể du hành nếu
không đề phòng cẩn thận" (c: 4b, 5)
10.
Thành Xá vệ:
"Trong thành này dân
không đông lắm chỉ có khoảng 200 gia đình" (c: 3b,
11-12).
11.
Thành Câu-thi-na:
"Thành này cũng
rất ít dân, chỉ có một số Tăng và cư sĩ" (c: 1b, 14).
12.
Thành Ba-liên-phất:
"Dân chúng giàu có
thịnh vượng và tranh nhau làm các công đức... Trưởng giả
và cư sĩ trong xứ này đã xây dựng những bệnh viện thí
trong thành. Người nghèo, cô nhi, tàn tật, ốm đau đều đến
những cơ sở từ thiện này, được cung cấp những thứ
cần dùng, có y sĩ săn sóc, cho thực phẩm và dược phẩm thích
hợp để phục hồi sức khoẻ. Khi lành mạnh họ tự động
rời khỏi nơi này". (c: 5b, 1-2).
13.
Thành Vương Xá mới:
"Thành này trống
rỗng hoang phế, không có cư dân" (c: 2a...)
14.
Ðô thành Gaya:
"Thành này cũng
hoang tàn vắng vẻ" (c: 6a, 2).
15.
Xứ Dakshinà:
"Ðất này trơ
trụi hoang vu không người ở" (c: 6b, 20).
16.
Xứ Sư tử:
"Ngày trước
tại xứ này không có dân cư, chỉ có phi nhân và rồng cư trú.
Những thương gia từ các xứ khác đến buôn bán. Lúc giao
dịch, phi nhân không xuất hiên, chỉ bày ra kho báu và đề giá
cả, người buôn trả đủ số rồi đem hàng đi. Vì các thương
gia thưòng lui tới nơi này, người các xứ nghe nói cũng đến
và cuối cùng một vương quốc lớn được thiết lập".
(c: 7a, 14-15).
III.
Khí hậu và thảo mộc
1.
Xứ Thiện Thiện.
"Ðất ở đây
gồ ghề không có thảo mộc" (c: 7a, 8).
2.
Trung thổ - Ấn Ðộ:
"Khí hậu ở
Trung Thổ điều hòa, không có sương tuyết" (c: 2b, 16).
3.
Xứ Cao Xương:
"Xứ này có
nhiều núi và thời tiết rất lạnh, ngũ cốc không mọc được
trừ lúa mạch. Sau khi chư Tăng đã thọ tuế (sau an cư mùa mưa)
thời tiết thường trở lạnh giá. Bởi thế Quốc vương yêu
cầu chư Tăng thọ tuế sau mùa lúa". "... Xứ này ở
giữa rặng núi Tuyết. Từ đây trở đi, cây trái đều khác.
Trừ tre, mía, những cây cối và trái ở đây đều khác Trung
Quốc" (c: 1b, 8-11).
4.
Núi Tuyết:
"Trong dãy Núi
Tuyết, luôn luôn có tuyết về mùa đông cũng như mùa hè.
Lại có những con rồng độc mỗi khi phật ý thì phun gió độc,
mưa tuyết và bão cát. Trong vạn ngưòi không có một ngưòi nào
toàn mạng khi vượt qua núi này" (c: 1b, 11).
5.
Núi Tuyết Nhỏ (Tiểu Hy-mã-lạp sơn):
"Sau khi ở lại
Nagarahara ba tháng mùa đông. Pháp Hiển cùng hai bạn đồng hành
đi về hướng Nam vượt qua dãy Núi Tuyết Nhỏ. Núi này cũng
phủ tuyết cả mùa đông lẫn mùa hè" (c: 2b, 9).
6.
Xứ Tăng-già-thi [Sankàsya]:
"Xứ này giàu có
phì nhiêu" (c: 3b, 2).
7.
Xứ Sư Tử:
"Xứ này khí
hậu điều hòa, mùa đông mùa hè không khác, quanh năm cây
cối xanh tốt; muốn cày ruộng lúc nào cũng được không định
mùa" (c: 7a, 15-16)
--
Hết --
| Mục lục |
Trình bày : Mỹ Hạnh - Thiện Hưng
Cập nhật ngày: 01-02-2002
Nguồn: www.quangduc.com