Thích Minh Châu (1963)
Bản dịch Việt ngữ: "Pháp Hiển, Nhà Chiêm Bái", Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1997),
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành
Mục
lục
·
Phần I: Nhân cách của Ngài Pháp Hiển và
cuộc chiêm bái
·
Phần III: Những dữ liệu lịch sử do Ngài
Pháp Hiển ghi lại
·
Phần IV: Những tư liệu địa hình trong
Phật Quốc Ký
Lời nói đầu
[^]
Sách này viết về
Cao Tăng Pháp Hiển, một nhà chiêm bái nổi tiếng khác của
Trung Quốc. Ngài đã du hành đến Ấn Ðộ và Tích Lan vào đầu
thế kỷ thứ năm sau Tây lịch, và đã để lại một ký sự
về cuộc chiêm bái của mình. Chính sự thành công của ngài
Pháp Hiển đã gợi cảm hứng cho ngài Huyền Trang hai trăm năm
sau, để theo đuổi cùng một sứ mệnh đi tìm chân lý và Chánh
pháp.
Pháp Hiển cũng như
Huyền Trang cùng có chung một niềm khát ngưỡng sâu xa đối
với Chánh Pháp, một đức vô uý bất khuất trước hiểm
nguy, và một lòng xả thân phụng sự Phật pháp. Chính tâm
hồn khát khao sự thật, vì Pháp quyên thân đó đã thúc
giục các ngài trong cuộc chiêm bái ky kỳ của họ, nâng đỡ
họ vượt qua vô vàn gian nan hiểm trở để đưa sứ mệnh đến
kết quả thành công.
Nhưng mục đích
cuộc chiêm bái của Pháp Hiển có khác với Huyền Trang. Trong
khi về Huyền Trang ta có thể nói ngài đồng thời là một nhà
chiêm bái, một nhà biện bác, một dịch gia, một văn nhân và
một nhà thần bí, thì về Pháp Hiển, chỉ có một danh từ
đơn giản sau đây toát yếu được tất cả nguyện vọng và
tư chất của ngài: "Pháp Hiển, nhà Chiêm bái thuần túy".
Huyền Trang khởi hành cuộc chiêm gái với mục đích là để
học luận Du-già Sư Ðịa, và để tìm kiếm những giáo lý
chưa được biết đến ở Trung Hoa; còn Pháp Hiển thì chỉ
muốn đi để quan sát kỹ cương đời sống tu viện ở đất
Phật, ngõ hầu cải thiện tình trạng tín ngưỡng tại quê
nhà vào lúc ấy dường như đang lâm vào tình trạng rất
tồi. Trong khi phạm vi nghiên cứu của Huyền Trang khá rộng rãi,
bao gồm cả Kinh tạng và phần lớn tạng Luận, thì sự chú
ý của Pháp Hiển chỉ tập trung vào tạng Luật và những gì
liên hệ mật thiết đến đời sống tu sĩ.
Huyền Trang tự thâm
tâm, là một nhà Ðại thừa, mọi hoạt động của ngài ở
Ấn cũng như ở Trung Quốc là chỉ cốt để hoằng dương,
cổ vũ lý tưởng Bồ-tát-đạo. Pháp Hiển ngược lại, có tư
chất và nguyện vọng của một nhà Tiểu thừa thuần túy.
Dấu vết duy nhất của Ðại thừa ở nơi ngài là, ngài cầu
nguyện Bồ-Tát Quan Âm, một vị Bồ-tát của Ðại thừa,
trong lúc tàu ngài đi bỗng gặp bão tố trên đường từ đảo
Lanka đến đảo Yava và từ Yava-dvìpa đến Trung Quốc. Nhưng
nét nổi bật nhất của Pháp Hiển là bản chất khả ái
của một nhà tu chân thật, khiêm cung. Khi đọc ký sự của
ngài, dần dần xuất hiện trước mắt ta hình ảnh của một
vị sư giản dị, không hợm mình, không bất cứ một kiểu cách
nào. Cuộc hành hương của ngài là một kỳ tích về lòng
mộ đạo, sức kiên trì không ai sánh kịp cho đến khi hiện
tượng Huyền Trang nổi lên hai thế kỷ sau. Thế nhưng,
ngài vẫn cho rằng mọi sự mình thành đạt chỉ là nhờ Tam
Bảo gia hộ, để thoái thác tất cả công trạng mà ngài
xứng đáng được tuyên dương.
Pháp Hiển khởi hành
cuộc chiêm bái vào năm 399 sau Tây Lịch, phải mất sáu năm
mới đến Jambudvipa. Ở đấy ngài lưu lại thêm sáu năm, và
chuyến về kéo dài 3 năm, đến Trung Quốc vào năm 414; Huyền
Trang khởi hành Tây du vào năm 629, mất trọn 17 năm mới về
đến Trung Quốc vào năm 646. Pháp Hiển tuổi đã khá cao khi
khởi hành cuộc chiêm bái vào năm ngài 65 tuổi, và khi về nước,
ngài đã 79 tuổi. Huyền Trang lúc khởi hành chỉ mới 26
tuổi, trở về năm 43 tuổi, còn tràn đầy nghị lực tuổi
trẻ và lòng nhiệt thành với sứ mệnh hoằng pháp.
Cuộc Tây du của cả
ai bậc Ðại sư đều xuất phát từ kinh đô Tràng An và thủ
đô của Trung Quốc bấy giờ, nhưng Huyền Trang đi theo một
con đường hơi quanh co để đến đất Ấn, trong khi Pháp
Hiển chọn con đường trực chỉ nên ít vất vả hơn và cũng
mất ít thời gian hơn. Từ Tràng An đến Takshasilà, Pháp
Hiển đi theo con đường ngang qua các xứ: Chien Kibi (Kiện-bì],
Ju tan, Chang Yeh, Tun Huang [Ðôn Hoàn], Shen Shen [Thiện Thiện],
Agni, Khotan, Chakuta, Chakika, Agzi, Khalcha [Cao Xương], Darada, Udyàna
[Vu Ðiền], Suvastu, Gandhàra. Huyền Trang, trẻ tuổi hơn và có
tinh thần phiêu lưu, đã viếng thăm các nước và thành phố
như sau: Chin Chou, Lan Chou, Liang Chou, Kua Chou, Yi Wu, Pali Li, Wu
Pan, Tu Ching, Agni, Kucha, Baluka, đô thị She Che, Bing Yul, Talas,
Ðô thị Nước Trắng, đô thị Kuyu, Nejkend, Chaj, Sutrishna,
Samarkand, Kochania, Kharaghan, Bokhara, Betik, Khwarism, Kesh, Tukhara,
Kunduz, Bahlika Tapassu, Bhalluka, Gachi, Mamian, Kapisà, Lampaka,
Nagarahàra, Gandhàra, Puskaravati, Udakakkhanda, Udyàna, Takshasila.
Tại đảo Jambu, hai
nhà chiêm bái theo một hành trình hoàn toàn khác nhau. Từ
Takshasilà đến Sràvastì [Xá-Vệ], Pháp Hiển đi qua các xứ
sở và đô thị như sau: Purushupura, Nagarahàra, Lakki, Vaisàkha và
Sràvastì [Xá Vệ]. Còn Huyền Trang luôn thích chọn lộ trình
dài hơn, đã viếng Simhapura, Urasà, Kasmira, Punack Ràjapura,
Cheka, Jayapura, Sàkala, Cìnabhukti, Jàladhara, Kulùta, Satadru, Pariyàtra,
Mathurà, Sthànvasara, Srughna, Brahmapura, Ahichhatra, Vilasana,
Kapittha, Kanyàkubja, Ayodhyà, Ayamukha, Prayàga, Kausàmbì [Câu-diệm-bì],
Visoka, trước khi đến Sràvastì.
Khi viếng thăm Kosala
[Câu-tát-la] và Magadha [Ma-kiệt-đà], Pháp Hiển chọn thành
Pataliputra [Ba-liên-phất] làm trung tâm liên kết, như được
thấy trong lộ trình sau đây: Sràvastì, thành Napika, Kapilavastu
[Ca-tỳ-la-vệ]. Ràmagràma, Kalapinàka, Ràjagrha [Vương Xá], Gayà,
Kukkunapàda, Pàtaliputra, Vàranasì [Ba-la-nại], Kamsàmbi, Dakhinà,
Pàtaliputra. Huyền Trang chọn Nàlanda làm nơi thường trú và
theo lộ trình như sau: Sràvasti, Kapilavastu, Kusinagara, Vàrànasì,
Yuddhapati, viếng thăm Tàmralipti một thành phố biển thuộc
miền Tây Bengal.
Pháp Hiển quen lối
đi thẳng, đến Taralipti qua các nước Champà, Kajangala,
Pundravardhana, Karnasuvarna, Samatata. Từ Tàmralipti, ngài trở về
Trung Quốc bằng đường biển, chỉ ngừng ở đảo Lanka và
đảo Yava, trong khi Huyền Trang thì từ Tàmralipti viếng thăm vùng
Nam và Tây Ấn, trở về Nàlanda, viếng thăm Kàmarùpa,
Kajangala, tiến đến Kanyàkubja và Prayàga. Từ đây ngài trở
về Trung Quốc bằng đường bộ.
Cả hai nhà chiêm bái
đã để lại một ký sự về cuộc hành trình khá lý thú và
có tầm quan trọng lịch sử. Tác phẩm Phật Quốc Ký của Pháp
Hiển không thể sánh với Tây Du Ký của Huyền Trang về
phạm vi chú tâm, về tính giàu dữ kiện địa hình, tính
phong phú đề tài, vân vân. Tuy thế ký sự của ngài vẫn có
nhữn đóng góp rất giá trị cho lịch sử đạo Phật. Trong
khi Huyền Trang hầu như bỏ quên tạng Luật, thì trái lại Pháp
Hiển không chú ý gì ngoài ra quan sát cách thực hành giới
luật của Tăng sĩ trên đất Phật. Bởi thế, ký sự của ngài
cho ta thấy một bức tranh khá trung thực về đời sống tu
viện tại Ấn Ðộ và Tích Lan và thế kỷ thứ năm, điều
ma các trước tác của Huyền Trang không đề cập. Lại nữa,
Huyền Trang không viếng Tích Lan, nên những ký sự của ngài
về xứ này đề cập những mẫu chuyện huyền thoại nhiều
hơn là dữ kiện lịch sử Pháp Hiển cung cấp một ký sự khá
chi tiết về đời sống tu viện tại Tích Lan, mà có vài khía
cạnh ngay cả tác giả của Cùlavamsa cũng bỏ sót.
Một đặc tính khác
của ký sự Pháp Hiển là tính giản dị chân thực, không có
nhiều biến cố thần kỳ, cũng không chú ý nhiều đến
những huyền thoại. Ðời đức Phật mà Pháp Hiển ghi lại
rất giống những gì mô tả trong Mahàvagga của tạng Pali,
nhất là chuyện kể về những hoạt động của Phật sau khi
ngài đạt giác ngộ tại Bồ đề tràng. Sự mô tả của Pháp
Hiển về kỳ Kết tập đầu tiên có thể xem là dữ kiện
lịch sử đáng tin cậy, trong khi ký sự của Huyền Trang thì
đầy những biến cố thần bí làm lu mờ giá trị lịch sử
của giai đoạn này.
Vì Pháp Hiển chỉ là
một tăng sĩ chân chính bình dị không có tham vọng, nên ký
sự của ngài hầu như toàn đề cập những sự kiện liên
hệ đời sống tín ngưỡng nói riêng, đến Phật giáo nói
chung. Mặc dù ngài có nói đến vài dữ kiện địa dư, song
chúng chỉ là phụ thuộc, còn đời sống tu sĩ và những
biến cố về Phật giáo luôn luôn chiếm vị trí hàng đầu.
Trong lúc soạn tác
phẩm này trong bầu không khí thanh bình của Ðại tòng Lâm Nàlanda
Mới, thì tại miền Nam Việt Nam, bi kịch của Phật giáo đang
bùng nổ. Với lòng thán phục lẫn với lo lắng sâu xa, tôi
đã theo dõi cuộc tranh đấu dũng cảm của Phật tử Việt
Nam để bảo vệ tín ngưỡng mình, và sự đàn áp tàn bạo
của chế độ Ngô Ðình Diệm đối với Phật giáo. Ðã
nhiều lần, công việc này phải ngưng trệ, khi hết vi Tăng này
đến vị Tăng khác tự thiêu để phản đối chính sách đàn
áp. Với sự lật đổ chế độ Diệm, cuộc khủng hoảng
Phật giáo đã đi đến một kết thúc vinh quang; và tác phẩm
này cũng ra đời như muốn san sẻ niềm hân hoan của Phật
tử Việt Nam. Ðể tưởng niệm sự hy sinh của họ và cuộc
đấu tranh anh dũng ấy, Tôi xin hiến tặng sách này cho những
người đã thiết tha tôn quý Chánh pháp của Phật hơn cả
mạng sống của mình. Cũng sự vi pháp vong thân ấy đã giục
giã Pháp Hiển lên đường làm cuộc chiêm bái vĩ đại trong
đó tính mạng ngài có lúc đã tựa như chỉ mành treo chuông.
Mười sáu thế kỷ đã trôi qua giữa bậc Thánh Tăng này
với Phật Tử Việt Nam hiện đại, nhưng niềm tận trung
với Chánh Pháp và sự hi sinh vì một lý tưởng cao thượng
đã xóa nhòa khoảng cách thời không, và đưa họ lại gần
nhau trong việc phụng sự Phật Giáo.
Tỷ kheo Thích Minh Châu.
Lời tựa trong bản dịch
Việt, 1997:
Quyển "Pháp Hiển, nhà
chiêm bái" được hoàn thành và in thành sách là nhờ Ni sư Thích
Nữ Trí Hải và các đệ tử của Ni sư đã trong một thời gian
kỷ lục dịch và đánh vi tính trong 5 ngày. Chúng tôi vô cùng cảm
kích và tán thán công đức của Ni sư. Ngoài ra, chúng tôi cũng xin
tán thán: Họa sĩ Trương Duy, người vẽ bìa chính của cuốn sách;
Sư cô Thích Nữ Tuệ Dung lo phần kỹ thuật; Sa di Tuệ Nguyên và
Sa di Tuệ Nhã đã lo phần đánh vi tính quyển sách. Xin cảm ơn
tất cả quý vị.
Tỷ kheo Thích Minh Châu
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
Trình bày : Mỹ Hạnh - Thiện Hưng
Cập nhật ngày: 01-02-2002
Nguồn: www.quangduc.com