Thích Minh Châu (1963)
Bản dịch Việt ngữ: "Pháp Hiển, Nhà Chiêm Bái", Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1997),
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành
Phần I
Nhân
cách của Pháp Hiển và cuộc chiêm bái
Một điều hiển nhiên
là ảnh hưởng đầu tiên trên tâm hồn non nớt của một đứa
trẻ đóng vai trò quan trọng trong sự tạo thành nhân cách
về sau, khi trẻ ấy lớn lên. Bởi thế, chúng ta không lấy gì
làm lạ khi thấy cao tăng Pháp Hiển, họ Cung người đất Vũ
Dương, Bình Dương, đã có một lòng tận tụy đối với đời
sống Tăng lữ suốt cuộc đời ngài, vì mới 3 tuổi ngài đã
xuất gia làm chú tiểu. Không phải vì thân phụ ngài sùng tín
đạo Phật gì cho lắm, mà chỉ vì ba người con trai trước
của ông đã chết yểu. Muốn cứu vãn con trai thứ tư khỏi
chịu chung số phận, ông đã cho Pháp Hiển cạo tóc làm chú
tiểu khi mới được 3 tuổi, những vẫn giữ chú ở nhà. Nhưng
sau đó chú cũng ốm nặng suýt chết. Người cha hoảng kinh
gởi đến chùa thì chú lại hết bệnh. Ở Trung Quốc cũng như
Việt Nam, có một truyền thống lạ lùng là cha mẹ mỗi khi có
con nhỏ hay đau ốm, dễ chết non thì lại cho con đến chùa làm
chú tiểu, với hy vọng nhờ sự che chở của Ba ngôi báu mà
con mình được cứu thoát. Và quả thực như thế, trong trường
hợp chú bé Pháp Hiển. Ðiều này không có gì lạ, vì đời
sống chú tiểu trong một tự viện khéo tổ chức quả thật
an bình và lành mạnh hơn bất cứ trong một gia đình cư sĩ nào,
dù giàu có đến đâu. Nhưng khi đã đếm được phúc lạc
của đời sống không nhà, chú bé Pháp Hiển không chịu trở
lại với gia đình nữa, mặc cho cha mẹ năn nỉ. Mẹ ngài vì
thương yêu đứa con duy nhất sống sót, nên luôn luôn muốn
giữ ngài bên cạnh. Nhưng ngài nhất định không nhượng bộ
trước ý muốn của mẹ mình. Bởi thế bà đã phải làm
một cái chòi nhỏ bên ngoài cổng chùa để dễ dàng lui tới
thăm con. Năm ngài 10 tuổi, thân phụ Pháp Hiển qua đời. Trước
tình cảnh bà mẹ góa bựa đơn côi, ông chú viết thư khuyên
ngài hãy hoàn tục. nhưng Pháp Hiển cương quyết trung thành
với nếp sống ngài đã theo, và sự trả lời của ngài cho
thấy quyết tâm của ngài, với một ước nguyện cùng động
cơ chân chính: "Không phải vì cha mà cháu đi tu; mà chỉ
vì muốn từ bỏ dục vọng và tránh những chuyện thế tục".
[Chih2: 13a, 2-4]. Người chú rất hài lòng vì câu trả lời
ấy nên không ép ngài thêm nữa.
Cao Tăng Truyện kể
một giai thoại cho thấy ngài rất nhanh trí khi bất thần
chạm mặt với hiểm nguy và đe dọa. Một hôm, trong khi cùng
một nhóm tiểu Tăng gặt lúa ngoài đồng, thình lình một vài
tên cướp xuất hiện muốn cướp lúa. Tất cả các chú
tiểu khác đều bỏ chạy, ngoại trừ Pháp Hiển ở lại
một mình. Ngài bảo bọn cướp: "Nếu các ông cần lúa,
cứ tha hồ mà lấy đi. Chính vì trong các đời trước, các
ông đã không thực hành hạnh bố thí cho nên bây giờ mới
bị nghèo đói như vậy. Bây giờ các Ông lại còn muốn đi
ăn cướp của người khác, thì tôi sợ rằng đời sau, các
Ông sẽ gặp hoàn cảnh còn tệ hơn nữa. Tôi chỉ đau buồn
cho số phận các Ông mà thôi". Nói xong ngài bỏ đi.
Những lời lẽ của ngài đã gây ấn tượng sâu xa đối
với những người ăn cướp đến nổi họ bỏ đi không lấy
một nắm lúa nào. Nhiều vị Tăng đến khen ngợi ngài.
[Chih2: 13a, 3-4].
Một giai thoại khác
trong Cao Tăng Truyện kể về đức vô uý của Pháp Hiển khi
gặp hiểm nguy đe dọa tính mạng: Cách thành Vương Xá hơn 30
dặm, có một ngôi chùa nơi ngài dừng chân vào lúc sẩm tối,
Pháp Hiển muốn tiếp tục đi lên đỉnh Linh Thứu nhưng
những vị Tăng trong chùa ngăn cản: "Ðường lên núi
hết nguy hiểm, nhiều sư tử đen thường xuất hiện bắt người
ăn thịt, làm sao ông đi được?". Pháp Hiển trả lời:
"Tôi đã đi từ xa xôi ngàn dặm với ước nguyện đến
được đỉnh núi Linh Thứu, bất kể thân thể tánh mạng. Làm
sao tôi chịu được ước nguyện từ bao nhiêu năm của mình
giờ đây phải tan tành, lúc đã gần đến đích. Dù nguy
hiểm đến đâu, tôi cũng không sợ". Thấy không can nổi,
những vị Tăng bèn cử hai người dẫn đường. Khi lên đến
đỉnh núi trời đã tối, ngài muốn ở lại. Hai tu sĩ dẫn
đường sợ hãi quay trở về. Pháp Hiển ở lại một mình trên
đỉnh núi, đốt hương đảnh lễ nơi Thánh địa. Với lòng
sùng kính và niềm cảm khái sâu xa, ngài chiêm ngưỡng chốn
thiêng liêng, tưởng như bậc Thầy thánh thiện vẫn đang còn
ở đấy. Nửa đêm có ba con sư tử đen xuất hiện ngồi
thụp trước mặt ngài vừa liếm môi vừa vẫy đôi. Pháp
Hiển vẫn tụng kinh không dứt, tâm trí để cả vào những
lời cầu nguyện dâng lên đức Phật. Khi ấy những con sư
tử bèn cúi đầu cụp đuôi và quỳ dưới chân ngài Pháp
Hiển đưa tay vuốt chúng và nói: "Nếu các ngươi muốn
ăn thịt ta, thì hãy chờ ta tụng kinh xong đã. Nhưng nếu các
ngươi muốn thử ta, thì nên đi chỗ khác". Những con sư
tử ở nán lại một lúc rồi bỏ đi. [Chih2: 13a, 10-14].
Nội một điều ngài
dám làm cuộc phiêu lưu sang Ấn, qua những sơn đạo chưa có
dấu chân người, qua những sa mạc kinh hoàng, qua những đỉnh
núi tuyết, những phương trời xa lạ với khí hậu khắc
nghiệt, chính sự kiện đó cũng đủ làm một kỳ tích mà
chỉ nhờ có đức can đảm và lòng sùng tín vô biên mới làm
được. Ðoạn sau đây trong Cao Tăng Truyện đã tả một vài
hiểm nguy và gian khổ ngài đã gặp trên đường hành hương
đến đất Ấn:
"Từ Tràng An, ngài
đi về phía Tây, qua sa mạc Cát Di Chuyển, ở đấy trời không
chim bay, đất không thú chạy. Sa mạc trải dài vô tận khắp
cả bốn phương. Chỉ nhìn mặt trời mà đi, và nhờ những
bộ xương người để đánh dấu đường. Những luồng gió nóng
và linh hồn ác ma chực báo điềm chết cho bất cứ ai gặp
phải chúng. Pháp Hiển phó thác đời mình cho số mệnh, cứ
tiến bước vượt qua nhiều gian nguy. Sau một thời gian ngài
đến Pamirs ở đấy mùa đông, mùa hè đều có tuyết phủ. Có
những rồng dữ phà ra những luồng gió độc và mưa xuống cát
sỏi. Con đường núi ngoằn ngoèo hiểm trở, vách đá dựng
đứng hàng ngàn mũi nhọn. Những người xưa đã đẽo một
đường mòn trên vách đá, với những bực cấp. Ngài phải
mất hơn bảy ngày để đi qua. Ngài lại còn qua sông tại hơn
mười chỗ bằng những chiếc cầu dây treo lơ lửng. Ngay cả
hai sứ thần Trung Quốc ngày xưa (Chang Chien và Kan Ying - Trương
Mạch và Cam Anh đời Hán - đi Trung Á vào năm 97 sau Tây lịch)
cũng không xa đến như vậy. Kết tiếp, Pháp Hiển gặp một
trận mưa đá dữ dội. Thầy Huệ Cảnh, một trong hai bạn đồng
hành của ngài bệnh nặng không thể đi tiếp, đã bảo Pháp
Hiển: "Tôi đã gần kề cái chết. Thầy nên tiến lên,
đừng ở lại đây mà cùng chết cả". Nói xong ông thở
hơi cuối cùng. Pháp Hiển vỗ thi hài khóc nói: "Chưa đến
đích mà Thầy đã chết rồi". Và Pháp Hiển một mình
một bóng tiếp tục cuộc hành trình vượt qua đỉnh núi
hiểm trở. Ngài đã đi qua hơn 30 nước trước khi đến đất
Ấn" [Chih2: 13a, 5-10].
Pháp Hiển là một nhà
chiêm bái đặc biệt. Mục đích cuộc chiêm bái của ngài là
côt đi đảnh lễ những Phật tích ở Ấn, nhưng ngoài ra còn
có mục đích khác nữa; đó là "để quan sát cách hành
trì giới luật tại các nước ngài đi qua, nhất là tại Ấn,
và để thỉnh những bản văn Luật tạng đem về Trung Quốc".
Ðấy là một nhu cầu khá tự nhiên, vì ngài vốn là người
tuân thủ giới Biệt giải thoát một cách nghiêm túc. Suốt
cuộc hành trình, ngài luôn gắng tuân giữ phép an cư ba tháng
mùa mưa mỗi năm mà đức Phật đã chế định tại thành Vương
Xá cho tất cả Tăng Ni phải tuân theo. Thế là tại xứ sở
Agzi, Udyàna và Sankasya, Pháp Hiển đã cẩn thận giữ phép
hạ cư mặc dù có mỏi mệt vì cuộc hành trình hoặc có hăm
hở muốn tiếp tục hành trình càng sớm càng hay. Ngay cả khi
đi tàu từ đảo Yava đến Trung Quốc, Pháp Hiển cũng tuân
giữ phép hạ an cư ngay trên tàu. Trên đường trở về Trung
Quốc, ngài cũng không quên phận sự an cư nhập thất 3 tháng
tại Lao Shan.
Ðiều lôi cuốn
mạnh mẽ sự chú ý của ngài là đời sống tu viện tại các
xứ sở ngài viếng thăm, nhất là tại đất Ấn. Pháp Hiển
rất tinh tế khi quan sát cung cách uy nghi của tu sĩ Ấn. Qua ký
sự của ngài, chúng ta được biết trong tu viện Gomati (Cù-ma-đế)
tại nước Khotan (Vu Ðiền) có 3.000 tu sĩ và trong thành
Pataliputra có từ 600 đến 700 Tăng sĩ. Chư Tăng sống trong 3
tu viện ở Bồ-đề tràng giữ giới luật rất tinh nghiêm và
hành xử rất có uy nghi. Giới luật ấy được truyền xuống
từ thời Phật. Pháp Hiển cũng ghi nhận một vài pháp tu được
Phật đặt ra và chư Tăng Ấn Ðộ đến lúc ấy vẫn còn duy
trì nguyên vẹn. Tại đất Ấn, ngài đã quan sát cách người
ta đón tiếp một khách Tăng và lễ dâng y Ca-thi-na, được chư
Tăng tuân giữ một cách nghiêm nhặt. Ngài cũng không quên
nhắc đến tên tuổi một vài vị danh Tăng mà ngài tình cờ
gặp hoặc nghe nói đến trên đường chiêm bai. Nhờ tập ký
sự của ngài mà chúng ta được biết tại thành Pataliputra [Ba-liên-phất]
bấy giờ có hai vị danh Tăng tên Manjusri (Văn-thù) và
Rathasvami, có giới đức thuần tịnh khiến mọi người kính
ngưỡng. Ở xứ Simhala, có vị cao Tăng tên Dharmakirti (Pháp
Xứng) được mọi người trong xứ cung kính tôn trọng. Ngài
đã nhập thất trong hang đá bốn mươi năm, trải tâm từ đến
đến tất cả hữu tình bao gồm cả thú vật. Cũng trong xứ
ấy ngài đã chứng kiến lễ hỏa táng một vị La Hán trong
tu viện Mahavihara (Ðại Tòng).
Ký sự của Pháp
Hiển còn cho ta biết chư Tăng ở Ấn có địa vị rất cao,
được từ vua chúa đến thường dân kính trọng. Tại Mathura,
Pháp Hiển ghi rằng mỗi khi cúng dường chư Tăng, các bậc
vua chúa thường cởi bỏ vương miện và cùng với hoàng tộc
và triều thần, họ thường tự tay phục vụ thức ăn cho Tăng
chúng. Trước mặt Tăng chúng, họ không dám ngồi trên ghế
hay giường. Một nét đặc sắc của đời sống tu viện
khiến Pháp Hiển chú ý là các bậc vua chúa cũng như cư sĩ
tại đây tận lực hổ trợ giới Tăng lữ; họ được cung
cấp về ăn, mặc, ở, bệnh không thiếu thứ gì. Pháp Hiển
cũng kể rằng vua chúa đình thần cư sĩ đều xây chùa, cúng
dường Tăng chúng những ruộng vườn, nhà ở, người làm và
súc vật.
Như vậy, cảnh tượng
nhìn chung về đoàn thể Tăng già nghiêm trì giới luật, về
sự cung kính cúng dường trọng hậu mà chư Tăng được hưởng
từ các vua chúa, thần dân, đã khiến Pháp Hiển hết sức hài
lòng, thích thú. Và ngài không khỏi than dài, khi nghĩ đến tình
trạng tồi tệ cửa đời sống giới luật chư Tăng tại nước
mình. Bởi vậy, không đáng ngạc nhiên khi Ta Chen (Ðạo
Chỉnh) bạn đồng hành của ngài, đã quyết định lưu lại
đất Ấn không chịu trở về Trung Quốc. Và có lẽ Pháp
Hiển cũng đã làm như bạn mình, nếu ngài đã không lập
nguyện thỉnh tạng Luật về nước.
Giữ lời nguyện mang
về tạng Luật cho Trung Quốc, Pháp Hiển thu thập ghi chép
một số kinh về Luật tạng mà ngài tìm được ở đất Ấn.
Vì tại Bắc Ấn, tạng Luật được khẩu truyền không ghi chép,
nên Pháp Hiển phải đi đến Trung Ấn để sưu tập Luật
tạng. Tại một tự viện thuộc phái Mahàsànghika - Ðại chúng
bộ - ngài tìm được Luật bản của bộ phái này, được
xem là bản giới luật đầu tiên mà Tăng đoàn thời Phật tuân
giữ và được truyền tụng ở tinh xá Jetavana - Kỳ Viên.
Theo Pháp Hiển, thì mười tám bộ phái đều có bộ Luật riêng,
tuy thế cả 18 bộ đều nhất trí về những giới điều
thiết yếu, chỉ khác nhau về tiểu tiết. Ngài cũng xác
nhận Giới bổn của Ðại chúng bộ là đầy đủ nhất. Ngài
cũng tìm được một bản Luật của Phái Nhất thiết hữu
bộ - Sarvàstivàda - gồm bảy ngàn bài kệ tụng mà theo ngài,
cũng chính là những giới luật Tăng sĩ Trung Quốc phải tuân
giữ. Những giới Luật này chỉ được thầy trò khẩu
truyền cho nhau, không thành văn bản. Cũng trong tự viên này,
Pháp Hiển tìm được một bản Samyuktàbhi - dharmahrayasàstra [Tạp
A-tỳ-đàm Tâm Yếu Luận] gồm sáu ngàn bài kệ, một bản
luận của Mahàsàngikà [Ðại chúng bộ]. Khi ở nước Simhala,
nơi ngài lưu lại hai năm. Pháp Hiển được một bản Luật
của phái Mahysàsaka, một bản kinh Dìrghàgama [Trường A-hàm],
kinh Samyuktàgama [Tạp A-hàm], và Sannipata [Tiểu bộ]. Những
kinh sách này chưa được biết đến ở Trung Quốc. Khi trở
về quê hương, ngài dịch bộ kinh Ðại Bát-niết-bàn cùng
với ngài Buddhabhadra [Phật Hiền], một tăng sĩ Ấn thời Ðông
Triều 317-420. Bản dịch gồm 6 tập 18 chương. Dịch phẩm
thứ hai của ngài là Samyuktapitaka. Một bản dịch khác cộng
tác với Buddhabhadra là Mahàsanghi - kabhi kabhik shunivinaya-pràtimoksa
- Giới biệt giải thoát của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thuộc phái
Ðại chúng bộ - gồm một quyển.
Tác phẩm duy nhất do
ngài viết có tên là Cao Tăng Pháp Hiển Truyện, còn gọi là
Phật Quốc Ký - ký sự về các nước theo đạo Phật. Trong
quyển sách này, Pháp Hiển kể lại cuộc hành trình cuả ngài
từ lúc khởi sự tại Tràng An, thủ đô Trung Quốc bấy giờ,
cho đến lúc ngài đến Lao Shan. Sách kể tên những nước và
thành phố mà ngài đã viếng thăm như sau: xứ Agni, Khotan,
Chakuka, Agzi, Khalcha, Darada, Udyàna, Suvastu, Gandhàra, Takshasilà,
thành phố Purushapura, đô thị Hilo, xứ Nagarahàra, Lakki, Harana,
Uchcha, Mathurà, thành Sankàsya xứ Kanyàkubja, làng Hari, thành
Vaisàlì, Aràvastì xứ Kosala, thành Napuka, thành Kapilavastu, xứ
Ràmagràma, thành Magadha, làng Ka2lapinàka, đô thị Pàtaliputra
mới thuộc xứ Magadha, Tân vương Xá trước kia là vương đô
của vua Bimbisàra, thành Gayà, thành Vàrànasi, xứ Kausàmbì,
xứ Dakshinà, Champà, thành Tàmralipti, xứ Simhala, xứ Yavadvìpa.
(*)
Qua ký sự của ngài,
ta được biết những đặc điểm địa hình, nhân văn, khí
hậu, cây cối ở một số quốc gia. Nhưng đóng góp cao quý
nhất của Pháp Hiển là bức tranh ngài đã lại về sinh
hoạt Tăng đoàn ở Ấn Ðô và Tích Lan vào thế kỷ thứ năm
sau Tây Lịch. Chẳng những qua đó ta biết được rằng chư Tăng
tuân giữ giới luật Pha65t chế rất nghiêm minh, mà còn biết
rằng họ được sự cung kính cúng dường rất trọng hậu
của các vua chúa và thường dân cư sĩ. Ký sự của Pháp
Hiển thỉnh thoảng có điểm thêm những giai thoại dật sử
chắp nối lại, cho ta một hình ảnh khá đầy đủ về nếp
sinh hoạt của đức Thế Tôn và các đại đệ tử của ngài
lúc sinh thời. Mặc dù Phật Quốc Ký của Pháp Hiển không
sao so bì được với tài liệu phong phú trong tác phẩm Tây Du
Ký của Huyền Trang, song nó cũng có một đóng góp giá trị
cho lịch sử Phật giáo ở Ấn và Tích Lan vào thế kỷ thứ
năm sau tây lịch. Nếu Huyền Trang có thể dưọc tôn xưng là
nhà khảo cổ về xư Ấn, thì Pháp Hiển chính là sử gia đầu
tiên về Phật giáo trên đất PHật.
Từ cuộc đời,
cuộc chiêm bái, ước nguyện của Pháp Hiển và các dịch
phẩm của ngài về Phật giáo, ta thấy rõ Pháp Hiển là một
vị Sư đề cao giới luật số một. Không những ngài trì
luật một cách nghiêm túc, không bỏ an cư kiết hạ trong
suốt cuộc du hành, mà trong Ký sự, ngài cũng toàn tập trung
chú ý vào đời sống Tăng lữ tại Ấn Ðộ và Tích Lan. Ngài
muốn biết tu sĩ Ấn Ðộ thực hành đời sống xuất gia như
thế nào, để hy vọng cải thiện tình trạng Tăng già Trung
Quốc thời đó dường như rất tồi tệ. Chúng ta được ngài
cho biết thời ấy Tăng sĩ Trung Quốc tuân giữ Giới bổn phái
Hữu bộ, do vậy ta có thể nói Pháp Hiển là một vị Tăng
theo Tiểu thừa thuần túy; khác với Huyền Trang, một nhà Ðại
thừa tận xương tủy. Trong tất cả kinh điển mà Pháp Hiển
mang về Trung Quốc chỉ có một kinh Phương Ðẳng Ðại Bát-niết-bàn
với 5.000 bài kệ, có thể được xem là kinh Ðại thừa, còn
những kinh sách khác đều có tính chất thuần túy Tiểu
thừa. Tất cả những tác phẩm mà ngài dịch thuật cũng đều
thuộc giáo phái Tiểu thừa. Dấu hiệu duy nhất Ðại thừa nơi
ngài là, trong cuộc du hành đường biển từ Tích Lan đến đảo
Yava và từ đảo Yava đến Trung Quốc, hai lần tàu bị bão
tố dữ dội, Pháp Hiển đều niệm đức Quan Âm xin cứu mang.
Ngoài sự cầu nguyện với một Bồ-tát Ðại thừa này ra, thì
quan điểm và sự tuân giữ giới luật nơi ngài hoàn toàn có
tính cách Tiểu thừa.
Chúng ta thấy một điểm
khác nhau rõ rệt về quan điểm và tính tình giữa hai ngài Pháp
Hiển và Huyền Trang. Trong khi Pháp Hiển chỉ chú trọng Luật
tạng, thì Huyền Trang thiên nặng về Luận tạng. Chủ đích
của Huyền Trang du hành đến Ấn Ðộ chính là để học
Luận Ðại thừa Du già Sư Ðịa và mang về Trung Quốc, còn
Pháp Hiển khởi hành cuộc hành trình gian khó vì muốn sưu
tầm các bản văn về Luật tạng và xem xét đời sống tu
viện cùng giới Luật của chư Tăng trên đất Ấn.
Khi đọc Phật Quốc
Ký của Pháp Hiển, chúng ta nhận thấy sự khiêm hạ của
một vị Sư sùng tín, bàng bạc khắp từng trang giấy của
tập Ký sự. Ngài không che dấu sự yếu kém của mình,
những lần suýt ngã quỵ khi đối diện với những gian khó
của cuộc hành trình, và những vố đấm tàn khốc của định
mệnh. Nhiều lần ngài đã rơi lụy, khiến người đọc cũng
phải đồng cảm với ngài trước sự không may. Thành tích ngài
đạt được quả thật lớn lao không ai sánh kịp trong lịch
sử Phật giáo ngoại trừ thành tích của Huyền Trang. Nhưng dường
như ngài không ý thức đến sự vĩ đại của mình, mà chỉ
cho rằng sứ mệnh hoàn thành được là nhờ Tam Bảo che chở
hộ trì. Những lời lẽ của ngài sau đây phản ảnh trung
thực bẩm chất khả ái đấy: "Nhìn lại những gì mình
đã trải qua trong cuộc hành trình, bất giác tim tôi run lên,
toát mồ hôi hột. Tôi đã dấn mình vào nguy hiểm, dẫm lên
chướng ngại vật không kể gì thân xác. Vì có một mục đích
quyết định và bản tính cương trực, tôi đã liều mạng
trong một cuộc hành trình ở đó cái chết hầu như là
chuyện chắc chắn, chỉ hy vọng sống sót một phần vạn"
[c: 8b; 12-13]. Chính thái độ thẳng thắn của ngài, và sự
trung thành với mục đích gợi cho chúng ta niềm yêu mến thán
phục. Chúng ta hoàn toàn tán đồng với một vị Sư vô danh
đã ghi lại cuối tập Ký sự của Pháp Hiển vài dòng để
chứng tỏ lòng thán phục đối với nhà chiêm bái vĩ đại
ngày xưa: "Chúng tôi rất xúc động khi đọc ký sự của
ngài. Một nhân cách như vậy thật vô cùng hiếm có và quý báu
xưa cũng như nay. Từ ngày Ðại giáo được truyền đến phương
Ðông, không một người nào sánh bằng Pháp Hiển trong việc
xả thân tầm đạo. Nhờ vậy mà chúng ta biết rằng lòng thành
đem lại kết quả vô biên; và khi quyết tâm đạt mục đích
thì không việc gì không thành tựu. Vì, phải chăng sự thành
công của ngài là nhờ ngài đã bất chấp cái mà người khác
coi trọng, và coi trọng cái mà người khác xem thường?".
[c: 8b; 13-14].
Ðược tháp tùng
bởi Huệ Cảnh, Ðạo Chỉnh, Huệ Ứng, Huệ Ngôi, Pháp Hiển
khởi hành cuộc chiêm bái đất Ấn vào năm thứ hai niên
hiệu Hoằng Thỉ [năm 399 sau Tây lịch], năm Kỷ Hợi. Rời Tràng
An, họ vượt qua những rặng núi ở đất Lủng và đến xứ
Càn Quy, ở đó họ kiết hạ an cư. Sau đó tiếp tục đi đến
xứ Nhục Ðàn, qua núi Dương Lâu và đến thị trấn Trương
Dịch. Xứ này gặp lúc loạn lạc đường xá nguy hiểm. Ðáp
lời cầu thỉnh của Quốc vương ở đấy, Pháp Hiển lưu
lại cùng với các bạn đồng hành. Tại đây ngài gặp
những vị Tăng khác là Trí Nghiêm, Huệ Giản, Tăng Thiệu,
Bảo Vân, Tăng Cảnh, những vị cùng chí hướng đi Ấn tìm
học giới luật. Họ cùng nhau kiết hạ an cư tại đấy. Xong
hạ, họ tiếp tục đi đến xứ Ðôn Hoàng. Ở đấy họ lưu
lại hơn một tháng. Pháp Hiển và 4 vị Tăng khác khởi hành
đi trước cùng với một hướng đạo, để Bảo Vân và
những người khác ở lại. Họ được viên thái hậu ở Ðôn
Hoàng tên Lý Hạo cung cấp lương thực để đi qua sa mạc. Sa
mạc có đầy những ác ma và gió nóng quái quỷ, khiến
nhiều người mất mạng ở đây. Ngay cả chim chóc và thú
rừng cũng phải tránh né chốn nguy hiểm này. Giữa sa mạc mênh
mông không có một con đường ló dạng; chỉ có những bộ xương
người chết được dùng làm mốc cho Pháp Hiển và đồng
bạn đi tới.
Sau 17 ngày gian nan
tột cùng, họ đã đi được khoảng 1.500 lý (250 dặm Anh) và
đến nước Thiện Thiện. Họ lưu lại đấy hơn một tháng
rồi lại lên đường đi về phía Tây Bắc 15 ngày đến nước
Ô-di (Agni). Pháp Hiển được một viên chức người Trung
Quốc tên Fu Hsien Sun mời lưu lại hai tháng. Ngài ở lại đấy
cho đến khi gặp lại Bản Vân cùng các vị khác cũng đến nơi.
Vì người xứ Ô-di
không tỏ lòng hiếu khách lắm, nên các vị Trí Nghiêm, Huệ
Giản, Huệ Ngôi trở lại Cao Xương - Kaashar - để kiếm lương
thực đi đường; trong lúc Pháp Hiển và những vị khác nhờ
đã được Fu Kung Sun - Công Tôn - cung cấp đầy đủ hành
trang nên bèn lên đường đi hướng Tây Nam. Giữa đường bèn
lên đường đi hướng Tây Nam. Giữa đường không gặp nhà dân,
họ trải qua gian nan khốn khổ không bút nào tả xiết. Cuộc
hành trình kéo dài một tháng năm ngày, rồi họ đến quốc
gia Khotan - Vu Ðiền.
Pháp Hiển cùng đoàn
ngưòi được Quốc vương ở đấy đón tiếp và trú ngụ
trong một ngôi chùa Ðại Thừa tên Cù-ma-đế - Gomati. Các
vị sư Huệ Cảnh, Ðạo Chỉnh và Huệ Ðạo đã đi trước
đến Khalcha - Kiệt xoa, còn nhóm Pháp Hiển ở lại thêm 3 tháng
để xem lễ rước tượng.
Vào tháng thứ tư khi
lễ rước tượng đã xong, thầy Tăng Thiều cùng với một đạo
sĩ người Hồi đi đến nước Kàsmìra - Kế Tân, trong khi nhóm
Pháp Hiển đi 15 ngày đến quốc gia Chakuka - Tử Hợp. Xong
họ đi về hướng Nam 4 ngày đến Pamirs - Tuyết Sơn và cuối
cùng đến xứ Agszi (Huy), ở đấy họ an cư kiết hạ.
Hết mùa an cư, đoàn
Pháp Hiển tiếp tục đi về hướng Bắc đến xứ Khalcha -
Kiệt-xoa sau 25 ngày đường. Ở đây họ gặp lại Huệ
Chỉnh và những vị khác. Ðoạn họ cùng du hành theo hướng
Tây, mất một tháng để leo núi tuyết Pamirs, ở đấy tuyết
phủ cho đến cả vào mùa hạ. Suốt cuộc hành trình, những
trận mưa lũ, gió quái và tuyết rơi cùng những cơn bão cát
hãi hùng trút xuống vào mọi lúc. Người ta kể rằng trong
10.000 người không có một người nào có thể sống sót được
qua những hiểm nguy ấy.
Sau khi vượt dãy
Tuyết Sơn, họ đi vào Bắc Ấn và đến một nước nhỏ tên
là Darada (Ðà lịch). Rồi họ đi về Tây Nam 15 ngày vượt
qua núi Tuyết, đường đi có vô số chướng ngại. Con đường
có 700 bực cấp được đẽo từ núi đá, núi một đầu thì
dựng đứng, một đầu thì đầy những vực sâu hãi hùng. Bên
dưới, có con sông Tân-đầu chảy qua, hai bờ cách nhau 80 bước.
Ðoàn người lần theo những bực cấp núi đá ấy và vượt
qua sông bằng một cái cầu dây.
Sau khi vượt qua sông
Tân-đầu, họ đến quốc gia Udyàna (Ô-trường). Huệ Cảnh,
Huệ Ðạo và Ðạo Chỉnh đi trước đến xứ Nagarahàra (Na-kiệt)
để xem bóng Phật trong khi Pháp Hiển và những vị khác ở
lại Ô-trường để an cư kiết hạ.
Sau mùa an cư, họ du
hành về phía Nam, đến xứ Tú-ha-đa (Suvastu) đi về phía Ðông
trong 5 ngày họ đến quốc gia Kiền-đà-vệ (Gandhara). Từ đây
đi về hướng Ðông 7 ngày họ đến xứ Trúc-sát-thi-la (Takshasila)
có nghĩa là chặt đầu. Lại vẫn đi về hướng Ðông thêm 2
ngày, họ đến một nơi ngày xưa đức Phật Thích Ca trong
một tiền kiếp đã xả thân cho cọp đói ăn thịt.
Sau khi đi về hướng
Nam 4 ngày, họ đến xứ Purushra - Phất-lâu-sa. Tại đây Bảo
Vân và Tăng Cảnh cúng dường bát của Phật xong rồi trở
về Trung Quốc, còn Huệ Cảnh, Huệ Ðạt và Ðạo Chỉnh đã
đi đến xứ Na-Kiệt đảnh lễ bóng Phật, răng và xương đảnh
của ngài. Huệ Ðạt một mình trở về nước Phất-lâu-sa
gặp lại Bảo Vân và Tăng Cảnh rồi cùng họ trở về Trung
Quốc. Bây giờ thì chỉ còn lại một mình Pháp Hiển. Những
bạn đồng hành cuả ngài có thể nói đã bỏ cuộc ngoại
trừ Huệ Cảnh và Ðạo Chỉnh đang ở Na Kiệt. Vẫn không
nao núng, Pháp Hiển ra đi một mình đến chùa thờ xương đảnh
Phật. Sau khi du hành về phía Tây 16 do-tuần, ngài đến thành
Hilo (Ha-lê) ở biên giới nước Na-Kiệt. Quay về hướng Bắc
một do-tuần, Pháp Hiển đến thủ đô Na-Kiệt. Rồi ngài đi
vào trong thung lũng, theo hướng Tây đi 4 ngày đường gặp ngôi
chùa thờ áo Phật.
Sau 3 tháng ở Na-Kiệt
gặp lại hai bạn đồng hành Ðạo Chỉnh và Huệ Cảnh, họ
lại lên đường đi về hướng Nam qua dãy núi Tiểu Hy-lạp,
nơi tuyết phủ cả vào mùa hè. Khi đang leo sường Bắc của
núi, họ bị một cơn bão tố băng giá. Huệ Cảnh không đi
thêm được nữa, mồm sủi bọt mép vá chết ngay khi trối trăn
hai bạn đồng hành nên tiếp tục lên đường đừng ở lại
chết chung. Pháp Hiển vào Ðạo Chỉnh vô cùng bi thương trước
định mệnh tàn khốc này, nhưng rồi họ cũng lên đường, vượt
qua sườn núi phía Nam để đến xứ La-di [Lakki]. Pháp Hiển và
bạn đồng hành ở lại đây 3 tháng an cư mùa hạ, xong họ
đi xuống phía Nam đến xứ Bạt-na [Harana]. Người trong xứ này
đón tiếp họ rất nồng nhiệt và lấy làm ngạc nhiên trước
thành tích cuả hai vị Tăng Trung Quốc xa xôi dám vượt hiểm
nguy đi tìm Chánh pháp. Họ cung cấp hai khách Tăng những gì
cần thiết và thết đãi theo truyền thống Phật giáo.
Hai nhà truyền thống
đi tiếp về hướng Tây Nam khoảng tám mươi do-tuần, ngang
qua một số chùa viện và đến xứ Mathura [Ma-đâu-la]. Tại
đây họ qua sông Yamunà [Bồ-na] một lần nữa. Từ Mathura
họ đi về hưóng Ðông Nam 18 do-tuần, đến xứ Sankàsya [Tăng-già-thi].
Pháp Hiển cùng bạn
đồng hành ở lại kiết hạ an cư trong chùa Rồng, rồi lại
tiếp tục lên đường, đi hướng Ðông Nam bảy do-tuần thì
đến Anyàkubja. Họ vượt sông Hằng, và sau khi đi thêm 3 do-tuần
về hướng Nam, họ đến một thôn tên gọi Hali [Ha-lê]. Rồi
họ đi về Ðông Nam mười do-tuần để vào đại quốc Aisàkha
[Sa-kỳ]. Bấy giờ họ quay về hướng Bắc tám do-tuần, đến
đô thành Sràvastì [Xá vệ] thuộc nước Kosala [Câu-tát-la].
Khi Pháp Hiển và Ðạo
Chỉnh viếng tinh xá Jetavana [Kỳ-hoàn] nơi Phật đã ở 25 năm,
họ ngập tràn bi cảm, bất hạnh vì bị sinh vào chốn biên
địa xa xôi. Họ chạnh lòng nghĩ đến những bạn đồng hành
đã cùng đi qua nhiều xứ sở, mà bây giờ người thì đã
chết, người trở lui về Trung Quốc, chỉ còn lại Pháp
Hiển và Ðạo Chỉnh, hai vị không khỏi ngậm ngùi. Những
vị Tăng ở Xá-vệ khi biết Pháp Hiển và bạn đồng hành đã
từ một nơi xa xôi như thế đến thỉnh kinh, thì vô cùng
ngạc nhiên cảm phục trước kỳ tích của hai vị sư Trung
Quốc.
Ðoạn hai nhà chiêm bái
từ Xá-vệ lại ra đi về hướng Ðông nam 12 do-tuần, đến
thành phố Napika. Từ đây về phía Bắc trong vòng một do
tuần, họ đến một thành phố nơi Phật Kanakamuni [Câu-na-hàm-mâu-ni]
đản sinh, và đi thêm một do tuần về phía Ðông, họ đến
xứ Kapilavastu [Ca-tỳ-la-vệ], nơi sinh của Phật. Vì xứ này
đã hoang phế, đầy sư tử trắng và voi cư trú, nên hai nhà
chiêm bái phải hết sức thận trọng khi đi đường.
Sau một thời gian
ngắn ở Kapilavastu, họ du hành về hướng Ðông năm do-tuần
đến nước Ràmagràma. Ði thêm bốn do-tuần về hướng Ðông,
họ đến Tháp thờ Tro. Lại tiếp tục đi về hướng Ðông
12 do-tuần nữa, họ đến đô thành Kusinagara. Sau khi viếng thăm
các Thánh tích của Phật, họ đi về Ðông Nam 12 do-tuần về
đến nơi mà ngày xưa những người dòng họ Licchavis [Lê-xa]
không được Phật cho phép đi theo đến nơi Ngài nhập Niết
bàn. Ði thêm năm do-tuần nữa về hướng Ðông, họ vào xứ
Vaisàlì [Tỳ-xá-ly].
Từ Tỳ-xá-ly họ đi
về hướng Ðông 4 do-tuần đến chỗ hợp lưu của 5 dòng sông.
Chính giữa vùng này, Tôn giả A-nan đã dùng tam-muội hỏa để
thiêu thân. Họ qua sông và đi thêm một do-tuần về phía Nam
đến đô thị Ba-liên-phất (Pataliputra) ở xứ Magadha (Ma-kiệt
đà). Từ Ba-liên-phất họ du hành về hưóng Ðông Nam 4 do-tuần
đến một đỉnh núi đá đứng đơn độc, trên đỉnh có cái
hang đá trong đó có hình ảnh Ðức Phật ngồi. Ði thêm một
do tuần về hướng Tây Nam, họ đi vào khu làng Kàlapinàka nơi
sinh Tôn giả Xá-lợi-phất. Họ đi thêm một do-tuần về hướng
Tây thì đến thành Vương Xá mới do vua A-xà-thế xây cất.
Sau khi rời thành này bằng cổng phía Nam đi thêm 4 dặm, họ
đến một thung lũng vây quanh bằng 5 ngọn đồi ở đấy vua
Bình sa đã xây dựng thành Vương Xá cũ. Trên đường đi, hai
nhà chiêm bái ngang qua những nơi Xá-lợi Phất và Mục Kiền
Liên lần đầu tiên gặp vị thầy ngoại đạo Asvajis, nơi
ngoại đạo Ni-kiền-tử đã đào hố lửa và soạn thức ăn
đầu độc Ðức Phật, và nơi vua A-xà-thế đã thả voi say
hại Phật. Họ cũng đi ngang cảnh tàn phế của một ngôi chùa
mà Javàka đã xây để cúng đức Phật và 1.250 đệ tử của
Ngài.
Tiếp tục đi về hướng
Ðông Nam thêm 15 dặm, họ đến núi Linh Thứu, nơi Ðức
Phật đã giảng nhiều bài Pháp quan trọng. Pháp Hiển đã
mang hương hoa đèn dầu và lên đến đỉnh núi nhờ sự hướng
đạo của hai tu sĩ địa phương. Tại đấy ngài đốt hương,
thắp đèn, dâng hoa, lễ bái Thánh địa. Khi đứng tại chỗ
mà ngày xưa đức Như Lai đã từng sống, Pháp Hiển không sao
ngăn được cảm xúc và ngài đã bật khóc, tự than đã sinh
quá muộn màng, không được chiêm ngưỡng thân sắc vàng
của Phật và lắng nghe Ngài thuyết giảng kinh Lăng Nghiêm
tại nơi này. Rồi Pháp Hiển tụng kinh Lăng Nghiêm ở đấy
ngay trước hang động, và trải qua đêm trên đỉnh núi Linh
Thứu. [Cao Tăng Truyện còn kể câu chuyện Pháp Hiển đã
gặp ngài Ðại Ca-diếp, vị đại đệ tử khổ hạnh đệ
nhất của Ðức Phật. Mẫu chuyện này dường như phù hợp
với truyền thuyết cho răng Ma-ha Ca-diếp vàn còn sống trong
một khe núi Linh Thứu.] Ngày hôm sau ngài trở xuống thành Vương-Xá
mới.
Rời Vương Xá, Pháp
Hiển cùng bạn đồng hành đi về phía Tây và đến đô thị
Gayà. Lại đi thêm 20 lý về phía Nam, họ đến nơi mà ngày xưa
Ðức Phật đã tu khổ hạnh 6 năm. Ðoạn họ đi 3 dặm về
phía Tây để thăm viếng nơi đức Phật tắm và được một
thiên nhân đưa ra khỏi nước. Họ cũng thăm viếng một Thánh
tích cách đó 2 lý về phía Bắc, nơi Ðức Phật được các
cô gái Gramika dâng cúng cháo sữa. Lại đi thêm 2 lý về phía
Bắc, họ đến một nơi đức Phật đã ngồi xuống trên
một phiến đá dưới gốc cây lớn để dùng cháo.
Rồi họ du hành về
phương Ðông Bắc nửa do tuần, đến hang động ở đấy đức
Phật đã ngồi kiết già nhìn về phương Tây. Từ Bồ-đề
tràng họ đi về hướng Nam 3 dặm, đến núi Kê Túc (Kukkutapàda),
ở đấy tương truyền đức Ðại Ca-diếp còn ở trong núi.
Pháp Hiển quay về thành Ba-liên-phất, và từ đây ngài đi
về phía Tây dọc sông Hằng 10 do-tuần đến chùa Atavi nơi đức
Phật đã từng lưu lại một thời gian. Vẫn đi dọc sông
Hằng, họ nhắm huớng Tây đi được 12 do-tuần vào đô thị
Vàrànasi thuộc xứ Kàsi. Rồi họ viếng thăm vườn Nai ở cách
đô thị ấy 10 dặm về phía Bắc. Ði 60 bước về hướng
Bắc là nơi Ðức Phật ngày xưa đã ngồi day mặt về phương
Ðông mà thuyết giảng bài Pháp đầu tiên; 20 bước về phía
Bắc là nơi đức Phật đã tiên đoán sự ra đời của đức
Phật Di-Lặc trong tương lai. Ði thêm 50 bước về phía Nam là
nơi con rồng Elapatra (Ưu-bát-la Long Vương) hỏi Ðức Phật đến
bao giờ nó mới được thoát khỏi lốt rồng.
Họ lại khởi hành
đi đến xứ Câu-Diệm-di ở cách 13 do-tuần phía Tây Bắc vườn
Nai. Ðoạn họ đi về hướng Nam. Sau khi vượt qua 200 do-tuần,
họ đến một nước tên gọi Dakfina. Vì đường sá ở đây
không được an toàn cho cuộc lữ hành nếu không được vũ
trang hộ tống, nên Pháp Hiển không thể đến đấy mà chỉ
viết ký sự về nơi này qua lời kể của dân địa phương.
Sau đó từ Varanasi,
Pháp Hiển cùng bạn đồng hành trở về Ba-liên-phất. Vì ở
Bắc Ấn không có kinh sách về Luật tạng, nên Pháp Hiển
phải đến Trung Ấn ở đấy ngài có thể tìm thấy một
Luật bản của phái Ðại Chúng bộ tại một chùa Ðại
thừa giáo. Ngài cũng được một bản Luật phái Hữu bộ
gồm 7.000 bài kệ, và nhiều kinh luận khác.
Pháp Hiển ở lại đấy
3 năm để học sách Phạn ngữ và để ghi chép những kinh sách
nói trên. Bấy giờ Ðạo Chỉnh quyết định ở lại đất
Ấn vì thấy nơi đây Giới Luật được Tăng sĩ Ấn Ðộ tuân
hành nghiêm cẩn. Ngài than phiền về tình trạng giữ giới
tồi tệ ở Trung Quốc, và nguyện sẽ không bao giờ sinh vào
nơi biên địa. Thế là Ðạo Chỉnh ở lại Ấn Ðô, không cùng
Pháp Hiển trở về quê hương Trung Quốc. Vì Pháp Hiển đến
Ấn với mục đích mang về Giới Luật xuất gia, nên ngài
phải khởi hành chuyến về một mình không bầu bạn, lên
đường đến nước Sư Tử [Simhala] rồi về quê nhà.
Ðầu tiên ngài đi 18
do-tuần về phía Ðông, đến Ðại quốc Champà, nằm phía
bờ Nam sông Hằng. Ðoạn ngài đi đến Tamràlipti sau khi đi
về hướng Ðông 50 do-tuần. Ngài lưu lại nơi này 2 năm để
chép Kinh và họa hình tượng Phật. Rồi ngài xuống tàu của
những người buôn, sau 14 ngày đêm đến nước Sử tử.
Pháp Hiển đã rời
xa Trung Quốc nhiều năm, đã đi qua nhiều vùng đất xa xôi,
gặp nhiều nền văn hóa lạ lùng, nhiều cảnh và người hoàn
toàn xa lạ, tất cả những người bạn đồng hành Trung
Quốc đã bỏ ngài, một số trở về, một số chết đường,
còn Ðạo Chỉnh thì ở lại đất Ấn. Bởi thế đôi lúc ngài
cũng cảm thấy cô đơn và nhớ quê hương. Khi ngài trông
thấy một chiếc quạt bằng lụa trắng chế tạo ở Trung
Quốc trong ngôi chùa Vô Uý Sơn, một chiếc quạt có lẽ do
một thương gia Trung Quốc nào đó dâng cúng, không thể cầm
được nước mắt ngài đã khóc thảm. Pháp Hiển ở lại nước
Sư Tử 2 năm, viếng thăm các tu viện lớn, xem những đám
diễn hành Phật giáo, và đã mô tả lại hòn đảo này về các
mặt địa dư, khí hậu, khoáng chất, nhân văn. Pháp Hiển
thỉnh được một bản Giới Luật của phái Mahysàsakas, kinh
Trường A-hàm, kinh Tạp A-hàm và kinh Tiểu Bộ, những thứ không
có ở Trung Quốc. Sau khi hoàn tất sứ mạng ở nước Sư Tử,
Pháp Hiển theo một tàu buồm lớn của thương gia trên đường
về nước. Chiếc tàu chở gần 200 hành khách, đằng sau
buộc một thuyền con cho hành khách xuống phòng khi đắm tàu.
Con tàu dong buồm hướng về phương Ðông một cách êm ả
trong hai ngày thì bỗng một cơn bão tố nổi lên tàu có khe
hở bị nước vào. Những người đã xuống được thuyền
nhỏ bèn cắt dây bơi đi thoát thân. Những người buôn kinh
hoảng ném bớt hành lý xuống biển cho tàu nhẹ bớt. Pháp
Hiển cũng phải quăng xuống biển bình nước chậu thau và vài
vật dụng khác của ngài, còn những kinh và tượng Phật thì
ngài cầu nguyện Bồ Tát Quan Âm và chư Tăng Trung Quốc gia
hộ cho ngài mang được an toàn về đất mẹ. Trận cuồng
phong hoành hành suốt 13 ngày đêm nhưng may thay tàu tắp được
vào một hòn đảo để điều chỉnh chỗ bị nứt, rồi lại
dong buồm đi tiếp. Cuộc hành trình kéo dài khoảng 90 ngày
mới đến đảo quốc Yava (Da-bà-đề).
Pháp Hiển ở đây 5
tháng và lại xuống một chiếc tàu buôn lớn khác cùng với
khoảng 200 hành khách. Họ dong buồm vào ngày 16-4 đi về
Quảng Châu, mang theo lương thực đủ ăn trong 50 ngày. Pháp
Hiển giữ pháp an cư ngay trên tàu. Sau một tháng thuận buồm
xuôi gió, bỗng chốc chiếc tàu lại bị một trận bão lớn,
trời tối sầm, mưa trút xuống như thác lũ. Những hành khách
và thủy thủ đều sợ rằng con tàu chắc chắn phải chìm.
Một lần nữa Pháp Hiển lại van vái đức Quan Âm Bồ tát
che chở và cầu sự gia bị của chư Tăng Trung Quốc. Như đáp
ứng lời cầu xin của ngài, con tàu qua được đêm ấy. Ngày
hôm sau những người Bà-la-môn trên tàu bàn với nhau và
quyết định thả ngài Pháp Hiển xuống một hòn đảo, vì
cho rằng chính hiện diện của thầy tu Phật giáo này là nguyên
nhân của bao nhiêu tai nạn gian khổ. Nhưng thí chủ của Pháp
Hiển ở trên tàu cực lực phản đối âm mưu ác độc này và
dọa sẽ về tâu với Hoàng đế Trung Quốc, nếu họ còn cố
loại trừ Pháp Hiển ra khỏi tàu. Lời hăm dọa này đã ngăn
các Bà-la-môn thực hiện kế hoạch của họ, và Pháp Hiển
được cứu thoát khỏi âm mưu tội lỗi kia. Vì bầu trời
mờ mịt dưới những làn mưa liền tiếp, tàu bị lạc hướng.
Trong hơn 70 ngày, con tàu lênh đênh giữa biển cạn hết lương
thực và nước uống. Họ đành phải dùng nước mặn để
nấu ăn, và khẩu phần nước uống phải hết sức hạn chế.
Khi nước uống đã hết, họ bàn nhau vạch một hướng đi
cho con tàu. Bấy giờ tàu đi về phương Tây Bắc cố gặp
được đất liền. Sau 12 ngày, họ đến được bờ Nam của
Lao Sơn thuộc quận Trường Quảng, và thế là chấm dứt
cuộc hành trình gian nan nguy hiểm.
Khi trông thấy rau lê,
lá dâu quen thuộc mọc ở Trung Quốc họ mới biết mình đã
về đến quê hương. Sau khi hỏi thăm những cư dân địa phương,
họ được biết đã đến quận Trường Quảng thuộc Thanh Châu.
Khi nghe Pháp Hiển một vị Tăng Trung Quốc đang ở trên
thuyền cùng với kinh và tượng, thái thú quận Trường
Quảng là Lý Nghi vốn là một Phật Tử, sai người thỉnh
kinh tượng về quận lỵ. Tại đây Pháp Hiển chia tay với
những người buôn để họ tiếp tục đi đến Dương Châu,
Pháp Hiển ở lại Thanh Châu một mùa đông và một mùa hè
theo lời mời của người anh vị hoàng đế tương lai là Lưu
Dũ (Liu Yu). Tại Thanh Châu, Pháp Hiển đã an cư kiết hạ, và
khi giải hạ ngài muốn trở về Tràng An. Ngài đi về hướng
Nam để đến thủ đô. Ngài gặp một vị Tăng Ấn Ðộ tên
Buddahbhadra [Phật Hiền] và cho vị này xem những bản Luật ngài
đã mang về được.
Vậy là Pháp Hiển đã
kết thúc cuộc hành trình gian nan để chiêm bái Thánh tích.
Ngài đã khởi hành từ Tràng An và phải mất 6 năm mới đến
đất Ấn. Ngài đã ở lại nơi đây 6 năm. Cuộc hành trình
trở về mất 3 năm khi ngài đến Thanh Châu. Ngài đã viếng
thăm gần 30 quốc gia; không thể nào kể hết chi tiết đời
sống tu hành tuyệt diệu của nhưng tu sĩ ngài gặp trên đường.
Khi khởi hành ngài đã 65 tuổi, và khi trở về cố quốc ngài
đã 79 tuổi. Thật lạ lùng, là niềm khát khao Chánh Pháp đã
cho Pháp Hiển một sức năng động phi thường đến nỗi
mặc dù tuổi đã cao, ngài vẫn hoàn tất được một cuộc
phiêu lưu đã đánh gục bao nhiêu người trẻ tuổi.
Nếu Huyền Trang đã
khởi hành cuộc chiêm bái đơn độc không bầu bạn, thì trái
lại Pháp Hiển lúc đầu đã có những bạn đồng hành gồm
các vị Tăng Huệ Cảnh, Ðạo Chỉnh, Huệ Ứng và Huệ Ngôi.
Và về sau tại đô thị Chang Yeh, ngài còn được tháp tùng
bởi một nhóm 5 vị tăng khác nữa. Bởi thế, Pháp Hiển lúc
đầu đã được trang bị tốt để khỏi cô độc trong cuộc
hành trình gian nan đến Ấn Ðộ. Nhưng định mệnh trớ trêu
đã muốn cho Pháp Hiển phải đau khổ hơn Huyền Trang vì
cảnh đơn thương độc mã. Ngài đã phải khởi hành chuyến
hồi hương một mình một bóng, trong khi Huyền Trang được người
theo hộ vệ suốt cuộc hành trình trở về, chưa nói đến
sự đón tiếp nồng hậu mà các nhà cai trị và dân chúng các
nơi ngài đến đã dành cho ngài.
Mặc dù có 9 bạn đồng
hành, Pháp Hiển cũng không cùng đi với họ suốt cuộc hành
trình, mà tình thế bắt buộc đã khiến họ thỉnh thoảng
phải tách riêng.
Tại Ðôn Hoàng, Pháp
Hiển và 4 vị Tăng khởi hành đi đến nước Thiện Thiện, còn
Bảo Vân và 4 vị khác ở lại đi sau. Chỉ khi đến nước Ô-di
họ mới có thể gặp nhau lại. Nhưng tại đây họ lại
phải tách nhau: Một toán trở về Cao Xương để tìm lương
thực đi đường, trong khi Pháp Hiển cùng 6 vị khác tiến đến
Khotan [Vu Ðiền]. Tại đây đoàn của Pháp Hiển lại tách ra.
Huệ Cảnh, Ðạo Chỉnh và Huệ Ðạt đi đến trước đến
Cao Xương còn Pháp Hiển và những người khác ở lại Vu Ðiền
để xem lễ rước tượng Phật. Khi lễ rước vừa xong, Tăng
Thiệu cùng một vị Tăng người Hồ đi đến Kasmira, còn nhóm
Pháp Hiển thì đi đến Kasmira, còn nhóm Pháp Hiển thì đi
Chakuka [Tử Hợp] rồi đi Cao Xương. Tại đây họ gặp Huệ
Cảnh và những người khác. Nhưng họ cũng không cùng đi
với nhau lâu dài. Tại Udyana, Ðạo Chỉnh và Huệ Ðạt khởi
hành đi đến Nagarahara, trong khi Pháp Hiển và những người
khác ở lại an cư mùa hạ. Rồi Pháp Hiển cùng với nhóm
của ngài đi đế xứ Suvastu, Gandhara, Takashila và Purushaputra.
Tại đây Bảo Vân và Tăng Cảnh sau khi chiêm bái bình bát
của Phật đã thối thất lời nguyện đi Ấn mà trở về
Trung Quốc. Tại Nagarahara Huệ Cảnh ngã bệnh, Ðạo Chỉnh
ở lại săn sóc, Huệ Ðạt trở lui về Purushaputra một mình
và tháp tùng Bảo Vân cùng Tăng cảnh để về nước. Huệ
Cảnh về sau từ trần tại chùa thờ Bát cuả Phật. Bấy
giờ Pháp Hiển còn lại một mình nhưng với ý chí bất
khuất, ngài khởi hành đến chùa thờ Xương đảnh Phật ở
đấy ngài đã gặp Ðạo Chỉnh và Huệ Cảnh. Trong khi vượt
qua núi Tuyết nhỏ, Huệ Cảnh không chịu nổi gian khổ của
cuộc hành trình được nữa, đã trút hơi thở cuối cùng trước
sự đau đớn sâu xa của hai bạn đồng hành. Trong số người
cùng khởi hành với Pháp Hiển chỉ còn lại Ðạo Chỉnh. Hai
ngưòi hành hương này không khỏi ngậm ngùi than thở khi nghĩ
đến những người bạn đồng hành trước kia và sự cô độc
hiện tại của mình. Nhưng tương lai còn dành cho Pháp Hiển
một định mệnh vô cùng khắc nghiệt.
Khi Ðạo Chỉnh đến
thành Ba-liên-phất trông thấy uy nghi giới hạnh của những Tăng
sĩ tại đấy và nền giới pháp tuyệt hảo, ngài quyết định
ở lại đất Ấn. Từ đây trở đi cho đến khi về lại
Trung Quốc, Pháp Hiển phải làm cho cuộc hành trình đơn độc
trước hết từ thành Ba-liên-phất cho đến Champa rồi
Tamralipti, rồi đi tàu đến nước Sư Tử. Bởi thế thật không
lạ lùng bị khi ta thấy ngài thương cảm mà khóc khi trông
thấy một chiếc quạt lụa Trung Quốc trong chùa Vô Uý Sơn.
Từ nước Sư Tử, ngài một mình xuống tàu đi đến đảo Yàva
rồi trở về Trung Quốc.
Ðối với một người
lữ hành, không có kẻ thù nào tệ hơn sự cô độc, nhất là
khi phải phiêu lưu đến những xứ hoàn toàn xa lạ, với
những phong tục, người và cảnh hoàn toàn không quen thuộc.
Chúng ta không khỏi ngậm ngùi san sẻ với nỗi lòng Pháp
Hiển khi ngài khóc cái chết của Huệ Cảnh, hay lúc ngài
buồn sầu tưởng niệm ở Kỳ Viên và trên đỉnh núi Linh
Thứu, hoặc cảnh ngài rơi lệ khóc tại chùa Vô Uý Sơn.
(*) Tham khảo bản dịch Phật Quốc Ký của HT Trí
Quang thì lộ trình của ngài Pháp Hiển khởi từ Trường An
đã đi qua các xứ và thành phố như sau; Càn-qui, Nhục-đàn,
trấn Trương Dịch, Ðôn Hoàng, Thiện Thiện, Ô-di, Vu-điền,
Kiệt-Xoa, Tử-hợp, nước Huy-đà lịch, Ô-trường (Bắc-Thiên-Trúc),
Tù-ha-da, Kiền-đà-vệ, Trúc-sát-thi-la (cắt đầu), Phất-lâu-sa,
Nhục-chi, Hê-la thủ đô xứ Na-kiệt, La-di, Bạt-na, Tỳ-trà,
Ma-đâu-la, Tăng-già ti (Nam bộ), Kế-nhiêu-di, thôn Ha-lê, Sa-kỳ,
Xá-vệ, quốc đô nước Câu-tát-la, Ca-duy-la-vệ, Lam mạc, Câu-di-na-kiệt,
Tỳ-xá-ly, Ba-liên-phất thủ đô nước Ma-kiệt-đà, làng Nala
sinh quán Sariputra, Vương Xá mới, thành Già-da, Ba-la-nại - Ca-thi,
Câu-diệm di, Ðạt sấn, Chiêm-bá, Ma-lê-đế (cửa biển), Sư
Tử, Da-bà-đề xứ Bà-la-môn giáo, bờ Nam Lao Sơn, thuộc
quận Trường Quảng.
Trình bày : Mỹ Hạnh - Thiện Hưng
Cập nhật ngày: 01-02-2002
Nguồn: www.quangduc.com