VÀ
HIỆP
HỘI
THÁNH
ĐIỂN
PÀLI
Ở
ANH
QUỐC
Ông Thomas W.Rhys Davids
Đầu
thế
kỷ
thứ
19,
các
quốc
gia
ở
châu
Âu
hùng
mạnh
lên
với
sự
phát
triển
của
kỹ
thuật
từ
cuộc
cách
mạng
công
nghiệp,
họ
đẩy
ra
bên
ngoài
hàng
loạt
cuộc
chinh
phạt
thế
giới
dưới
sức
mạnh
của
chủ
nghĩa
thực
dân
châu
Âu,
các
quốc
gia
ở
châu
Á
là
mục
tiêu
của
họ
và
họ
đã
thành
công.
Ngược
lại,
tư
tưởng
Phật
giáo
(PG)
lại
có
cơ
hội
để
truyền
bá
sang
thế
giới
phương
Tây.
Hơn
thế
nữa,
sự
khám
phá
ra
kho
tàng
văn
hóa
phong
phú
của
châu
Á
và
triết
lý
độc
đáo
của
PG
đã
làm
thức
tỉnh
và
ảnh
hưởng
sâu
đậm
trong
giới
trí
thức
châu
Âu,
các
cộng
đồng
tôn
giáo
và
nói
chung
là
các
xã
hội
phía
bên
Tây
bán
cầu.
Thông
qua
sự
nỗ
lực
của
một
nhóm
chuyên
gia
về
ngôn
ngữ
học,
các
tác
phẩm
lớn
của
Phật
Giáo
được
truyền
bá
sang
Âu-Mỹ
trong
một
thời
điểm
mà
nhiều
người
đang
tìm
kiếm
một
phương
cách
để
trật
tự
hóa
những
đổi
thay
rộng
lớn
giữa
hai
lĩnh
vực
công
nghiệp
hóa
và
đô
thị
hóa.
Vào thời điểm đó, nhiều học giả phương Tây thường phục vụ trong các chính quyền thuộc địa của họ ở châu Á và đây là cơ hội đưa họ đến với Phật Giáo . Đáng kể nhất trong số này là ông William Jones (người Iran), ông Charles Wilkens (một dịch giả Sanskrit người Anh), ông A. Csoma de Koros (một nhà ngôn ngữ học người Hungary), ông Houghton Hodgson (người Anh), ông Eugene Burnouf (một dịch giả Pàli người Pháp) ; đặc biệt trong số trên có ông Thomas William Rhys Davids, một chuyên gia ngôn ngữ người Anh, người đã có công sáng lập nên Hiệp hội Thánh điển Pàli tại Luân Đôn, Anh quốc vào năm 1881.
Cũng
như
nhiều
học
giảPhật
Giáo
châu
Âu
khác,
ông
Rhys
Davids
bắt
đầu
sự
nghiệp
của
mình
là
một
viên
chức
của
Hoàng
gia
Anh
làm
việc
tại
các
chính
quyền
thuộc
địa
ở
trong
vùng
Nam
Á.
Tuy
nhiên,
khi
khám
phá
ra
kho
tàng
trí
tuệ
Phật
Giáo
đang
ẩn
tàng
phía
sau
những
bộ
kinh
Pàli
đồ
sộ
ở
Tích
Lan,
ông
đã
quyết
định
chấm
dứt
con
đường
danh
vọng
của
mình
mà
đi
thẳng
vào
lĩnh
vực
học
thuật
và
nghiên
cứu
ngôn
ngữ
Pàli.
Ông
đã
đậu
được
bốn
bằng
tiến
sĩ
(gồm
triết
học,
sử
học,
ngôn
ngữ
học
và
văn
chương)
và
đã
cống
hiến
trọn
đời
mình
cho
công
trình
nghiên
cứu,
phiên
dịch
và
ấn
hành
Ngoài việc tham gia công tác phiên dịch, biên tập ..., ông Davids còn biên soạn những sách Phật Giáo có giá trị như "Từ điển Pàli - Anh" gồm 500 trang, in lần thứ nhất vào năm 1921 và được tái bản vào các năm 1925, 1992 và 1995 ; "Những câu hỏi của vua Milinda" (xuất bản năm 1890) ; "Phật giáo, lịch sử và văn học" (Xb năm 1896) ; "Những pháp thoại của Đức Phật" (Xb năm 1899) ; "Phật giáo Ấn Độ" (Xb năm 1903)...
Dù bận rộn điều hành công việc của Hội, phiên dịch, biên soạn kinh sách, nhưng tiến sĩ Davids vẫn giữ thời giờ nhất định để đi diễn thuyết khắp nơi ở nước Anh và ở nước ngoài, trong đó Tích Lan và Hoa Kỳ là nơi ông thường xuyên lui tới. Từ năm 1881 đến 1894, ông đến Hoa Kỳ nhiều lần để diễn thuyết bài giảng đầu tiên của ông là "Nguồn gốc và sự phát triển của Phật Giáo Ấn Độ", các đề tài khác là về giáo lý PG theo hệ Nikàya, sự hòa hợp giữa PG và Ky-tô giáo, lịch sử tôn giáo thế giới... Trong mỗi dịp xuất hiện trước công chúng Hoa Kỳ, ông không quên giới thiệu về tổ chức PTS. Ông làm việc không biết mỏi mệt cho đến cuối đời, ông tạ thế vào năm 1922. Lúc ấy, Hiệp hội đã in được 70 quyển kinh sách các loại (cả bản gốc Pàli và bản dịch tiếng Anh).
Vào
tháng
5
năm
1882,
trong
buổi
diễn
thuyết
thứ
hai
của
ông
tại
Hibbert,
tiến
sĩ
Davids
thông
báo
cho
cử
tọa
biết
ý
định
thành
lập
Đến
nay,
Với
tôn
chỉ
vô
vị
lợi,
ngay
từ
những
ngày
đầu
của
Hội,
ông
Davids
đã
nhanh
chóng
tập
hợp
được
một
nhóm
học
giả,
các
chuyên
gia
ngôn
ngữ
học
để
biên
tập
lại
Kinh,
Luật
và
Luận
Pàli.
Nổi
bật
trong
nhóm
này
có
các
vị
như
R.
Morris,
E.
Hardy,
M.
Hunt,
E.
Muller,
J.
Minayeff,
E.
R.
Gooneratne,
J.
E.
Carpenter,
E.
Windisch,
W.
Trenckner,
R.
Chalmers,
L.
Feer,
H.
Bode,
H.
Oldenberg,
Wilhelm
Geiger,
E.
B.
Cowell,
P.
S.
Jaini,
E.
W.
Burlingame,
James
Gray,
J.
S.
Speyer,
Pe
Paung
Tin...
đồng
thời
công
bố
danh
sách
các
mạnh
thường
quân
trên
khắp
thế
giới
tài
trợ
cho
công
trình
vĩ
đại
này,
một
trong
những
nhà
tài
trợ
chính
cho
Hội
lúc
bấy
giờ
là
vua
của
Thái
Lan.
Công
việc
của
Hội
khởi
đầu
được
chia
thành
hai
phần
:
thứ
nhất
là
in
lại
toàn
bộ
Tam
tạng
Pàli
để
bảo
tồn
giá
trị
nguyên
thủy
của
nó,
thứ
hai
là
chuyển
ngữ
ra
tiếng
Anh
để
cho
thế
giới
phương
Tây
tiện
bề
học
hỏi.
Để
cho
mọi
giới
biết
rõ
mục
đích
của
Hội,
nên
năm
1882,
ông
Davids
đã
xuất
bản
tờ
Sau
thế
chiến
thứ
nhất,
dù
tài
chánh
của
Năm 1950, Hội bầu ông tiến sĩ William Stede làm Chủ tịch, một người từng biên tập và chú giải bộ Culla - Niddesa (1918) ; hai quyển sớ giải về "Trường Bộ kinh" (Dìgha Nikàya) in năm 1931 và 1932 ; trước đó ông cũng đã cộng tác với Rhys Davids để soạn bộ Từ điển Pàli-Anh. Năm 1958, tiến sĩ Stede qua đời, bà I. B. Horner được cử vào chức Chủ tịch, người từng làm thư ký cho bà Davids. Trong 23 năm lãnh đạo tổ chức này, bà đã làm nhiều việc để phát triển Hiệp Hội. Các dịch phẩm đáng chú ý của bà là "Trung Bộ kinh" (Majjhima Nikàya, gồm 3 quyển, Xb từ năm 1954 đến năm 1959 và tất cả được tái bản vào năm 1995) ; "Những câu hỏi của Milinda" (Malindapanha, gồm 2 quyển, Xb từ năm 1963-1964) ; "Luật tạng" (Vinaya - Pilaka, gồm 6 quyển, Xb từ năm 1938-1966, đến năm 1993 đã tái bản lại toàn bộ).
Bà Horner rất quan tâm đến việc phát triển và mở rộng chi nhánh của Hội ở khắp nơi trên thế giới (hiện nay đã có các chi nhánh như ở Mỹ, Tân Tây Lan, Thái Lan, Ấn Độ, Mã Lai, Miến Điện và Nhật Bản. Riêng ở Việt Nam, tuy chưa có chi nhánh, nhưng từ đầu thập niên sáu mươi đến nay, HT. Thích Minh Châu, nhà phiên dịch Đại tạng kinh Pàli, đã thường xuyên liên lạc với PTS để nhận tài liệu và làm công tác dịch thuật. Tính đến nay, Hòa thượng đã chuyển ngữ và ấn hành hoàn chỉnh năm bộ kinh thuộc hệ Nikàya. TNT).
Trong ba thập niên 60, 70 và 80, Hội tiếp tục phát triển về mọi mặt, đặc biệt là nhân sự, quy tụ nhiều học giả, dịch giả nổi tiếng về Pàli ngữ để phiên dịch và biên tập Đại tạng Pàli. Đáng kể trong số này là các vị như Ven. Narada, Ven. Nànamoli, Ven. Walpola, RahulaJ. Jones, P. Masefield, B. C. Law, W. B. Bolleé, R. Handurukande, F. I. Woodward, J. Kennedy, U Ba Kyaw, N. A. Jayawickrama... Các tác phẩm đáng lưu ý trong giai đoạn này là "Sổ tay từ ngữ Pàli trong Tam tạng" của ông E. M. Hare; "Trưởng lão Tăng và Ni kệ" gồm 2 quyển in từ năm 1969-1971 ; "Pàli ngữ", Xb năm 1963, một cẩm nang cho những ai muốn học và đọc tiếng Pàli "Chuyện tiền thân của 10 vị Bồ Tát" của H. Saddhàtissa, Xb năm 1975...
Năm 1981, PTS đã tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Hội (1881-1981). Trong dịp này, bà Chủ tịch Horner có đưa ra 4 điểm cần làm để phát triển Hiệp Hội. Thứ nhất, giảm giá thành tất cả các loại kinh sách, từ điển do PTS phát hành. Thứ hai, Hội phải cố gắng tái bản lại những kinh sách đã phát hành hết để kịp thời cung ứng tài liệu cho học giả. Bộ sách "Tự học Pàli ngữ" phải phát hành kèm với băng cassette. Các quyển kinh nhật tụng Pàli cũng phải kèm theo băng tụng để giúp cho người sơ cơ dễ dàng tụng niệm. Thứ ba, Hội phải xúc tiến duyệt lại và thêm thắt từ mới vào bộ Từ điển Pàli-Anh (Xb lần đầu tiên năm 1921), để cập nhật hóa với những thông tin của thời đại (bộ sách này đã được sửa chữa cẩn thận và tái bản vào năm 1992 và 1995). Thứ tư, tiếp tục giữ mối liên hệ với khoa Ngôn ngữ học và Đông phương học thuộc Đại học Cambridge để khuyến khích ngày càng nhiều người quan tâm đến cổ ngữ này và kết hợp với Đại học Cambridge cấp phát bằng thạc sĩ và tiến sĩ ngôn ngữ học cho những nghiên cứu sinh hoàn thành luận án Pàli ngữ.
Bà Horner đã từ giã cõi đời vào tháng 4 năm 1981 và ông K. R. Norman được cử vào ghế Chủ tịch để thay thế bà. Công việc phiên dịch và ấn hành kinh tạng Pàli vẫn được tiếp tục không gián đoạn. Ông Norman cho tái bản lại dịch phẩm của chính ông là "Trưởng lão Tăng kệ và Trưởng lão Ni kệ" (Thera and Therìgàthà, 2 quyển) và bản dịch mới của ông về Đại kinh Nipàta. Trong nhiệm kỳ 14 năm của mình (năm 1981-1994) ông đã hoàn thành nhiệm vụ khi phối hợp với Hội Truyền bá Chánh pháp ở Thái Lan để thực hiện công việc chuyển toàn bộ hệ thống Tam tạng Pàli vào CD-ROM, hầu bảo trì giáo điển trong một phương tiện cất giữ thông tin của thời hiện đại.
Đầu
năm
1994,
ông
Norman
không
thể
tiếp
tục
đảm
nhận
trọng
trách
của
Hội
nữa
vì
già
yếu,
và
Giáo
sư
tiến
sĩ
Richard
Gombrich
được
chọn
vào
vị
trí
này.
Những
thông
tin
mới
nhất
về
Hội
là
trụ
sở
trung
ương
ở
Luân
Đôn
vẫn
tiếp
tục
công
việc
cùng
kết
hợp
với
các
văn
phòng
đại
diện
trên
thế
giới
đang
phiên
dịch
các
bộ
"Abhidhammàvatàra",
"Itivuttaka-atthakathà"
và
"Bhesajjamanjùsà"...
Hội
cũng
đang
biên
tập
và
dịch
lại
bản
dịch
"Tương
Ưng
Bộ
kinh"
và
một
cuốn
sổ
tay
về
thuật
ngữ
Pàli
trong
Tạng
Luật.
Nhìn
lại
thành
quả
của
Hội
với
195
bộ
kinh
sách
Pàli
các
loại
và
hơn
100
bản
dịch
ra
tiếng
Anh
từ
Tam
tạng
Pàli.
Tất
cả
gồm
300
quyển
trên
đều
được
tái
bản
lại
từ
đầu
thập
niên
90
của
cuối
thế
kỷ
này.
Với
kết
quả
đáng
khích
lệ
như
thế
nên
mọi
thành
viên
của
Hiệp
hội
Thánh
điển
Pàli
tại
Anh
quốc
luôn
nhìn
về
tương
lai
với
một
niềm
tin
lớn
lao
trên
lộ
trình
góp
phần
truyền
bá
lời
Phật
dạy
cho
nhân
loại.
- Pàli Text Society, List of Issuer 1996-1997- Stephen Batchelor, The Awakening of the West, USA, 1994
- C. Humphreys, Encyclopedia of Buddhism, Ceylon, 1972.
|
Mục lục
|
Xứ
Sở
|
Sự
kiện
|
Nhân
Vật
|
Phụ
Lục |
---o0o---
|Danh
Nhân
Phật Giáo Thế
Giới
Kỹ thuật vi tính:
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 01-04-02
Nguồn: www.quangduc.com