|
. |
Tạng Luật
Vinayapitaka
Bộ Phân Tích
Giới Bổn
Suttavibhanga
Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
2004
Phần Giới Thiệu
T ạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng
(Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật đến các tỷ-kheo về
các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên
cũng như các công việc của hội chúng, trong đó chủ yếu đề cập đến các
tỷ-kheo, một phần dành cho tỷ-kheo ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp
dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.
Tạng Luật được chia làm 3 phần chính: Suttavibhaṅga, Khandhaka, và
Parivāra.
I. Suttavibhaṅga : là phần phân tích về
giới bổn Pātimokkha của Tỷ-kheo gồm có 227 điều và của Tỷ-kheo ni gồm có
311 điều.
Theo truyền thống đang được áp dụng ở Miến Điện và Tích Lan,
Suttavibhaṅga được phân chia làm hai bộ: Pārājika (Pāḷi) và Pācittiya
(Pāḷi). Cách phân chia này có thể do việc chia hai số lượng sách của
Suttavibhaṅga và được trình bày như sau:
Pārājika (Pāḷi): Mở đầu là Chương Verañja giới thiệu việc ngài
Sārīputta thỉnh cầu đức Phật quy định giới ở xứ Verañjā. Kế đến là các
điều học theo thứ tự:
1/- 4 Pārājika (Bất cộng trụ)
2/- 13 Saṅghādisesa (Tăng tàng)
3/- 2 Aniyata (Bất định)
4/- 30 Nissaggiya Pācittiya (Ưng xả đối trị)
Pācittiya (Pāḷi):
5/- 92 Pācittiya (Ưng đối trị)
6/- 4 Pāṭidesanīya (Ưng phát lộ)
7/- 75 Sekhiya (Ưng học pháp)
8/- 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā (Pháp dàn xếp tranh tụng)
9/- Bhikkhunīvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni).
Truyền thống Thái Lan phân chia Suttavibhaṅga theo nội dung làm hai bộ:
1) Mahāvibhaṅga (Đại Phân Tích): Tên cũ của bộ này là
Bhikkhuvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỷ-Kheo) vì có đầy đủ phần phân
tích 227 giới trong giới bổn Pātimokkha của Tỷ-kheo từ 4 Pārājika cho
đến 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā. Bộ này được phân chia làm 2 tập:
- Tập 1 gồm 4 Pārājika, 13 Saṅghādisesa,
và 2 Aniyata; và
- Tập 2 từ 30 Nissaggiya Pācittiya cho đến hết.
2) Bhikkhunīvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni) gồm các
điều giới quy định dành riêng cho Tỷ-kheo ni.
II. Khandhaka : gồm các vấn đề có liên
quan đã được sắp xếp thành từng chương. Khandhaka được chia làm 2 bộ:
1) Mahāvagga (Đại Phẩm): gồm 10 chương, mở đầu là sự chứng
ngộ đạo quả của đức Phật, kế đến là các nhiệm vụ quan trọng của các
tỷ-kheo như lễ xuất gia, lễ Uposatha (Bố Tát), việc an cư mùa mưa, lễ
Pavāraṇā (Tự Tứ), v.v...
2) Cullavagga (Tiểu Phẩm): gồm 12 chương đề cập đến việc
hành xử các tỷ-kheo phạm tội, giải quyết các sự tranh tụng, việc chia
rẽ hội chúng, và các vấn đề khác liên quan đến đời sống xuất gia. Đặc
biệt chương 10 đề cập việc xuất gia của tỷ-kheo ni và hai chương cuối
11 và 12 nói về hai lần kết tập Tam Tạng đầu tiên ở Ấn Độ.
III. Parivāra (Tập Yếu): phân tích về
Giới và Luật theo các tiêu đề và được trình bày dưới dạng vấn đáp, có thể
được xem như là cuốn cẩm nang hướng dẫn việc hành xử Luật.
* * *
C húng tôi trình bày bản dịch Suttavibhaṅga
này theo hình thức trình bày của Tam Tạng Thái Lan, gồm có Phân Tích
Giới Tỷ-Kheo (2 tập) và Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni, hay có thể
nói gọn lại là Giới Tỷ-Kheo và Giới Tỷ-Kheo Ni để dễ nhớ. Ý
nghĩa của từ "sutta" ở cụm từ Suttavibhaṅga
có ý nghĩa tương đương như là "sikkhāpada" (điều học, học giới,
điều giới, ...), nếu xét theo ý nghĩa bao quát có thể gọi là "giới bổn;"
như vậy, Suttavibhaṅga
nghĩa là sự phân tích các điều học hoặc là sự phân tích về giới bổn (Ở
Tạng Kinh, từ "sutta" được dịch là "kinh", ví dụ như
Brahmajālasutta được dịch là Kinh Phạm Võng, v.v...).
Đề cập đến nội dung, chương mở đầu Verañja trình bày về thời điểm quy
định điều học cho các tỷ-kheo, đức Phật đã trả lời sự thỉnh cầu của ngài
Sārīputta (Xá Lợi Phất) rằng: "Này Sārīputta, ngươi hãy chờ đợi! Này
Sārīputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp này, chỉ có Như Lai mới
biết thời điểm." Và ngài đã xác định về thời điểm đó rằng: "Này
Sārīputta, cho đến khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện
trong hội chúng này ... cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự đông đảo
về số lượng ... chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển ... chưa đạt
đến sự dồi dào về lợi lộc ... chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều
... thì khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc (sẽ) xuất hiện trong hội chúng
này, khi ấy bậc Đạo sư (sẽ) quy định điều học cho các đệ tử và (sẽ) công
bố giới bổn Pātimokkha nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy."
Đến các chương kế tiếp, chúng ta biết được rằng mỗi khi điều học được
quy định trước tiên có sự chỉ trích và chê bai về việc làm hay lời nói nào
đó của các vị xuất gia, việc chỉ trích và chê bai lan rộng khiến các
tỷ-kheo nghe được và cuối cùng đến tai đức Phật. Đối tượng vi phạm trong
các câu chuyện này có thể là cá nhân hay nhóm tỷ-kheo, không hẳn là phàm
nhân mà ngay cả một số vị đã chứng được thiền và thần thông như các vị
Devadatta và Sāgata, một vài trường hợp do các bậc đã chứng Thánh quả như
ngài Anuruddha về việc nằm chung chỗ ngụ với người nữ hoặc ngài Ve ḷaṭṭhasīsa
về việc thọ dụng vật thực đã tích trữ. Sự chỉ trích và chê bai đa số phát
xuất từ hàng tại gia có thể là các cư sĩ đã quy y, những người theo ngoại
đạo, hoặc quần chúng bình thường, kế đến do các vị đã xuất gia, chỉ một
vài trường hợp là phi nhân hạng trên hoặc dưới. Thông thường, đức Phật đã
triệu tập các tỷ-kheo lại, xác định vấn đề, khiển trách và giáo huấn, rồi
mới quy định điều học. Mỗi lần như vậy, đức Phật luôn khẳng định về mười
điều lợi ích của việc làm ấy như sau: "Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng,
nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu,
nhằm sự lạc trú của các tỷ-kheo hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc
trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem
lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của
những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ
trợ Luật." Có nhiều trường hợp, điều học đã được quy định thêm (anupaññatti),
có trường hợp càng thêm nghiêm khắc trong việc thực hành, có trường hợp
giảm nhẹ. Sau phần quy định về điều học, có
phần phân tích về từ ngữ và về các trường hợp vi phạm hoặc không vi phạm.
Phần này cần phải xem xét kỷ lưỡng để có thể hiểu được chính xác về điều
học. Ngoài ra, có phần các câu chuyện dẫn giải ở 4 giới Pārājika và 5 giới
đầu của Saṅghādisesa
giúp cho hiểu rõ hơn về sự vi phạm tội. Khi đọc các câu chuyện này nên
liên hệ với phần phân tích ở phía trước để thấy được sự phán quyết của đức
Phật. Một điều quan trọng cần lưu ý rằng đối tượng chính của các điều học
này là hạng tỷ-kheo được tu lên bậc trên bằng hành sự với lời thông báo
đến lần thứ tư, đầu tiên là vị Bà-la-môn đã được tu lên bậc trên với ngài
Sārīputta do việc bố thí một muỗng thức ăn (Đại Phẩm – Mahāvagga
tập 1, chương I, [85]).
Trong việc nghiên cứu Tam Tạng Pāli, các bộ Chú Giải Aṭṭhakathā liên
quan cũng cần được xem xét để có thể hiểu đúng những điều đã được kết tập
thuộc về Chánh Tạng; ngoài ra còn có các bộ Ṭīkā (Sớ giải) phân tích về
những điểm cần giải thích thêm trong Aṭṭhakathā, sau đó mới nói đến các bộ
sách được soạn thảo theo chuyên đề. Theo tinh thần đó, trong khi học tập
về Tạng Luật (Vinayapiṭaka), chúng tôi thường tham khảo và hiểu theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa ở bộ Chú Giải Samantapāsādikā. Ngài
Buddhaghosa được xem là Nhà Chú Giải Sư vĩ đại, vĩ đại vì ngài là người
đầu tiên tổng hợp lại các bộ Chú Giải đã có trước, cũng có thể do số lượng
tài liệu ngài đã thực hiện là nhiều hơn so với các nhà chú giải khác, cũng
có thể vì ngài đã soạn nên bộ sách nổi tiếng Visuddhimagga (Thanh
Tịnh Đạo) được xem như đã cô đọng lại những gì tinh hoa của lời Phật dạy.
Ngài Buddhaghosa đã hoàn tất phần chú giải về Tạng Luật và Tạng Diệu Pháp.
Về Tạng Kinh, ngài đã hoàn tất phần chú giải của Trường Bộ Kinh, Trung Bộ
Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, và một số trong Tiểu Bộ Kinh.
Cuộc đời của ngài chỉ được ghi lại ngắn gọn trong nhiều tài liệu, văn bản
cổ nhất được biết đến là Mahāvaṃsa (chương 37) là bộ sử ký của xứ Sri
Lanka được ghi lại bằng ngôn ngữ Pāli. Ngài Buddhaghosa sanh ở vùng lân
cận của Bodh Gayā (nơi đức Phật thành đạo) ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 5
sau Tây Lịch. Ngài xuất thân dòng dõi Bà-la-môn và thông thạo ba bộ Vệ Đà.
Lúc còn thanh niên thường đi đó đây để tranh luận, do bị thua ngài Revata
nên đã xin xuất gia và trở thành tỷ-kheo. Khi thấy được ước nguyện của
người học trò về việc soạn thảo các bộ chú giải Tam Tạng, ngài Revata đã
gợi ý nên sang đảo Laṅkā (Sri Lankā ngày nay) vì toàn bộ kinh điển và chú
giải được ngài Mahinda đem sang truyền giáo ở đó (thế kỷ thứ 3 trước Tây
Lịch) vẫn được lưu truyền và phát triển. Tại đảo Laṅkā, trước tiên ngài
Buddhaghosa đã soạn bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) rồi trình lên các
ngài trưởng lão ở Mahāvihāra (Đại Tự) để chứng tỏ khả năng và đã được phép
sử dụng các tài liệu lưu trữ trong tu viện phần nhiều bằng tiếng địa
phương (ngôn ngữ Sīha ḷa)
để thực hiện việc tổng hợp lại các bộ chú giải và dịch sang ngôn ngữ của
xứ Magadha (Māgadhānaṃ niruttiyā) nhằm đem lại lợi ích cho tất cả thế gian
(Ngôn ngữ sử dụng trong Tipiṭaka (Tam Tạng) mới được các nhà học giả
phương Tây gọi là ngôn ngữ Pāli vào thời gian sau này). Sau khi thực hiện
các công trình trên, ngài Buddhaghosa đã rời đảo Laṅkā để trở về đảnh lễ
cội Đại Bồ Đề ở quê hương. Nghe đâu, có các tài liệu khác cho rằng ngài
Buddhaghosa qua đời ở Miến Điện, có tài liệu nói ở Cam-pu-chia.
* * *
B ản dịch Suttavibhaṅga của chúng tôi được
thực hiện và trình bày theo văn bản Pali La tinh từ đĩa CD BUDSIR IV của
trường đại học Mahidol ở thủ đô Bangkok, Thái Lan. Phần mục lục chúng tôi
thực hiện theo các chữ số đánh dấu ở đầu mỗi vấn đề; trình bày theo cách
này sẽ giúp quý vị tiết kiệm được thời gian trong việc xác định vấn đề cần
tham khảo.
Bản dịch này được hoàn thành là một sự nỗ lực học tập của bản thân và
việc mạnh dạn giới thiệu đến quý vị không ngoài mục đích là hy vọng sẽ
nhận được những lời chỉ dạy của các bậc cao minh và các sự khuyến khích
góp ý của quý độc giả. Tuy đã nỗ lực tối đa nhưng chúng tôi biết rằng bản
dịch này vẫn còn nhiều sai sót, chỉ mong sao có thể giúp được quý vị độc
giả phần nào kiến thức về Phật học dựa vào nguồn tài liệu gốc đã được kết
tập lại vì lợi ích của nhiều người, vì lợi ích của chư thiên và nhân loại.
Rất mong nhận được ý kiến của quý vị. Xin email về:
dinda@u.washington.edu .
Xin chân thành ghi nhận công đức của Thượng Tọa Tiến Sĩ Bửu Chánh về
đĩa CD Tam Tạng BUDSIR IV. Chúng tôi cũng xin tán dương công đức của Đại
Đức Giác Hạnh về đĩa CD Tam Tạng Chattha Saṅgāyana, đồng thời đã cho
mượn dài hạn các bản dịch tiếng Anh của Cô I. B. Horner và bộ
Vinayamukha của ngài Mahāsamaṇa Chao (Thái Lan) đã được dịch sang
tiếng Anh; nhờ có trong tay số tài liệu này chúng tôi mới mạnh dạn để tiếp
tục việc nghiên cứu Luật Tạng và ghi lại bằng tiếng Việt. Đĩa CD
Buddhasāsanā, quà biếu của Dr. Bình Anson, đã đóng góp phần công đức không
nhỏ, nhờ những tài liệu quý giá như The Buddhist Monastic Code của
Thanissaro Bhikkhu cũng như các tài liệu về Luật bằng tiếng Việt của quý
ngài Hòa Thượng Hộ Tông, Hòa Thượng Bửu Chơn, v.v...
Chúng tôi cũng xin ghi nhận sự ủng hộ nhiệt tình của Đại Đức Hộ Phạm,
đã hy sinh nhiều thời gian cùng chúng tôi suy nghĩ để tìm ra phương thức
giải quyết cho những gút mắc về văn phạm cũng như từ ngữ. Cũng cần nhắc
đến các sự ủng hộ và lời động viên thăm hỏi của các vị: Ven. Cittānanda,
Ven. Khánh Hỷ, Ven. Chánh Kiến, ni sinh Huyền Châu, Dr. Bình Anson, bà
Diệu Đài, anh Phạm Trọng Độ, chú Nguyễn Hữu Danh, gia đình Nguyễn Ngọc
Vivian, gia đình Lê Thị Tích. Không có sự khích lệ của quý vị, bản dịch
này không thể hoàn thành. Mong sao các ước nguyện của quý vị sẽ được thành
tựu như ý và nhanh chóng y như việc chúng tôi đã hoàn tất bản dịch này.
Công đức này xin dâng đến Hòa Thượng trụ trì và chư Tỷ-kheo chùa Sri
Jayawardhanaramaya, Colombo, Tích Lan đã bảo bọc và tạo điều kiện thuận
lợi cho chúng tôi trong công việc học tập và nghiên cứu Phật Pháp trong
thời gian qua.
Mong sao hết thảy chúng sanh đều được tiến hóa trong ánh hào quang của
Chánh Pháp.
Colombo, ngày 25 tháng 03 năm 2004
Bhikkhu Indacanda
(Trương đình Dũng)
-ooOoo-
Mục lục tổng quát
Bhikkhuvibhaṅga I (Phân Tích Giới Tỷ-Kheo I):
Chương Verañja (Verañjakaṇḍaṃ)
I. Chương Pārājika thứ nhất (Paṭhamapārājikakaṇḍaṃ): Tội thực hiện
việc đôi lứa
II. Chương Pārājika thứ nhì (Dutiyapārājikakaṇḍaṃ): Tội trộm cắp
III. Chương Pārājika thứ ba (Tatiyapārājikakaṇḍaṃ): Tội giết người
IV. Chương Pārājika thứ tư (Catutthapārājikakaṇḍaṃ): Tội khoe pháp
thượng nhân không thực chứng
V. Chương Mười ba pháp (Terasakaṇḍaṃ)
VI. Chương Bất Định (Aniyatakaṇḍaṃ)
Bhikkhuvibhaṅga II (Phân Tích Giới Tỷ-Kheo II):
VII. Chương Ưng Xả Đối Trị (Nissaggiyakaṇḍaṃ)
VIII. Chương Ưng Đối Trị (Pācittiyakaṇḍaṃ)
IX. Chương Ưng Phát Lộ (Pāṭidesanīyakaṇḍaṃ)
X. Chương Ưng Học Pháp (Sekhiyakaṇḍaṃ)
XI. Chương Các Pháp Dàn Xếp Tranh Tụng (Adhikaraṇasamathā Dhammā)
Bhikkhunīvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni):
I. Chương Pārājika (Pārājikakaṇḍaṃ)
II. Chương Mười Bảy Pháp (Sattarasakaṇḍaṃ)
III. Chương Ưng Xả Đối Trị (Nissaggiyakaṇḍaṃ)
IV. Chương Ưng Đối Trị (Pācittiyakaṇḍaṃ)
V. Chương Ưng Phát Lộ (Pāṭidesanīyakaṇḍaṃ)
VI. Chương Ưng Học Pháp (Sekhiyakaṇḍaṃ)
VII. Chương Các Pháp Dàn Xếp Tranh Tụng (Adhikaraṇasamathā Dhammā)
|
---o0o---
Giới Tỷ-Kheo I | Giới
Tỷ-Kheo II | Giới Tỷ-Kheo Ni
---o0o---
Lưu ý:
Ðọc với phông chữ VU Times
(Viet-Pali Unicode)
Nguồn: www.budsas.org
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 3-2005
|
|