TOÀN
TẬP
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000
--o0o--
PHẦN
HAI
CÁC
TÁC
PHẨM
--o0o--
GIỚI THIỆU
GIẢI KIM CƯƠNG
KINH LÝ NGHĨA
Trong tất cả các tác giả trong giai
đoạn Nam Bắc phân tranh (1558-1802), Minh Châu Hương Hải có một vị thế
hết sức quan trọng, không chỉ về mặt tư tưởng Phật giáo, mà
trước hết là về mặt ngôn ngữ và văn học. Là một người sinh
ra lớn lên và thành đạt ở miền Nam (1628-1682) nhưng Minh Châu Hương
Hải đã sống những năm cuối đời mình ở miền Bắc tổ quốc
(1682-1715) và viết ra một khối lượng đồ sộ trên 20 tác phẩm.
Ngôn ngữ của Minh Châu Hương Hải do thế có thể nói là đại diện
cho tiếng nói dân tộc thống nhất cả 2 miền, mà vào giai đoạn đó
hình như không có tác giả nào có cơ hội. Không những thế, trong
số bốn tác phẩm hiện tìm thấy, thì ba tác phẩm đều viết bằng
tiếng Việt văn xuôi. Chúng cùng bản giải Khoá hư lục của Tuệ
Tĩnh tạo nên giai đoạn đầu của lịch sử văn xuôi tiếng Việt.
Giải Kim cương kinh lý nghĩa là một trong ba tác phẩm đó .
So với tâm kinh giải nghĩa và Giải A
Di Đà kinh, Giải Kim cương kinh lý nghĩa có một độ dài đáng kể. Do
thế, nó sẽ giúp ta nghiên cứu tiếng Việt như một ngôn ngữ trong
giao tiếp hàng ngày vào thế kỷ XVII, và từ đó nghiên cứu sự
biến thiên của tiếng Việt qua lịch sử về cả từ vựng lẫn cấu
trúc ngữ pháp. Cho nên không chỉ về mặt văn học, mà cả về mặt
ngữ học, Giải Kim cương kinh lý nghĩa có một vị trí quan yếu .
Nhằm cung cấp cho những nhà nghiên
cứu cũng như bạn đọc công tác ở các lĩnh vực khác nhau một
tác phẩm công cụ để dễ bề tham khảo, chúng tôi cho phiên âm và
in lại toàn bộ Giải Kim cương kinh lý nghĩa kèm theo một bài giới
thiệu về bản giải này .
Kinh Kim cương là một trong số các
kinh điển Phật giáo được phổ biến và hâm mộ rộng rãi và còn
được chú giải với tên Kim cương tam muội kinh. Nguyễn Du (1765-1821)
thú nhận "Tôi đọc Kim cương ngàn lần lẻ". Và đặc biệt
từ thời Lê Lợi trở đi, nó được quy định là một bản kinh
bắt buộc trong các kỳ thi cho những ai muốn trở thành nhà sư. Kinh
Kim cương, do đó qua lịch sử, tỏ ra có sức hấp dẫn lạ thường
với dân tộc ta. Việc tìm hiểu, lý giải nó tất nhiên phải xảy ra.
Thiền sư Minh Châu Hương Hải viết giải Giải Kim cương kinh lý nghĩa,
cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
I.TÌNH TRẠNG VĂN BẢN
Văn bản hiện còn là một bản in
năm Tự Đức thứ 10 (1858) do nhà sư Sinh Khảo thực hiện khắc và
lư bản gỗ lại tại "Chùa Phước Long, xã Đỗ Lâm, huyện Gia
Lộc, phủ Ninh Giang"(nay là Hải Hưng). Theo Kim cương kinh quốc âm
chú bạt dẫn do chính Sinh Khảo viết, thì Giải Kim cương kinh lý nghĩa
trước đã được khắc bản, nhưng "bản gỗ đã bị mất
hết" (cựu bản một dĩ). Song may mắn là bản in giấy đang còn.
Bản in giấy này, mà những tờ tự và bạt của nó đã tán thất
"không thể truy tìm được", nên Sinh Khảo không thể nói
trước ai đã từng khắc bản Giải Kim cương kinh lý nghĩa và khắc
bao nhiêu lần. Tuy nhiên ở trang 8a1-3 của bản khắc Sinh Khảo, ta thấy
có ghi : "Huyền Cơ Thiện Giác pháp tự Minh Châu Hương Hải thiền
sư thích giải. Sa môn tăng thống tự Châu Lý soạn thuật. Tăng Chính
tên tự Như Nguyệt kính khắc san".
Thế đã rõ, bản khắc đầu tiên
Giải Kim cương kinh lý nghĩa là do Tăng Chính Như Nguyệt thực hiện.
Căn cứ vào bài kệ pháp phải của Minh Châu Hương Hải đã dẫn
trước, tức Minh chân như chính hải thì thế hệ của Như Nguyệt ở
vào hàng cháu ối với Minh Châu Hương Hải. Do thế ngày nay không
rõ niên đại của Như Nguyệt, ta vẫn có thể chắc chắn Như Nguyệt
phải sống vào nửa đầu thế kỷ thứ XVIII, khoảng cùng thế hệ
với Như Trừng, Như Sơn v.v
điều này có nghĩa bản khắc đầu
tiên của Giải Kim cương kinh lý nghĩa phải ra đời vào khoảng thời
gian đó, tức vào khoảng những năm 1730-1750, khi Hương Hải thiền sư
ngữ lục hoàn thành (1747). Lần khắc này dù bản in và tự bạt
đã mất, chắc chắn đã phân chia Giải Kim cương kinh lý nghĩa thành
hai quyển, vì tác giả Hương Hải thiền sư ngữ lục nói Giải Kim
cương kinh lý nghĩa gồm hai quyển .
Bản in hiện còn ngày nay của Sinh
Khảo không chia thành quyển số. Nó gồm cả thảy 71 tờ cỡ 30*18,
đánh số liên tục, không kể tờ đầu, ghi "thủ mục" trên
gáy, mặt trước có ba dòng. Dòng giữa khắc tên sách là Kim cương
kinh giải lý mục, cỡ chữ lớn 3*3. Hai bên khắc mỗi bên một dòng
cân đối. Bên phải là "Thế gian vô dữ đẳng", bên trái
"Kim cương bất hoại thân", cỡ chữ cũng khoảng 3*3 nhưng nét
ốm hơn, mặt sau có bốn dòng khắc cùng cỡ chữ, nét chân phương
ghi bốn câu :
Hoàng đồ củng cố
Đế đạo hà xương
Phật nhật tăng huy
Pháp luân thường chuyển
Và không kể 10 tờ ở cuối, gồm
một tờ 2 mặt, một mặt 3 dòng, mỗi dòng 20 chữ khắc bài Kim cương
kinh quốc âm chú bạt dẫn của Sinh Khảo, ghi trên gáy "Bạt
nhất". Chín tờ còn lại mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 12 dòng, mỗi
dòng 28 chữ, chép tên họ những người đã hỷ cúng ủng hộ việc
in sách cùng tên làng, xã, huyện, phủ, tỉnh của họ. Khởi đầu
với câu "Tân san Kim cương thích giải lý thập phương tùy hỷ
công đức" ở mặt a1 của tờ thứ nhất, nó kết thúc ở mặt
b9 của tờ 9 với lời "Phổ nguyện":
Nguyện thập phương đàn tín chư nhân
Tùy hỷ hộ kinh công đức lực
Tuy kim hữu thiểu nhân duyên
Nhiên hậu đa sinh phước quả
Sinh sinh bất thất trượng phu thân
Thế thế thường hành bồ tát đạo
Bất xả thệ nguyện
Lợi lạc hữu tình
Pháp thế quân triêm
A? dương lợi lạc
Vậy, 71 tờ đánh số liên tục là
để khắc chính văn chữ Hán kinh Kim cương, bản dịch của Cưu Ma La
Thập, cùng với lời giải thích tiếng quốc âm của Minh Châu Hương
Hải. Mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 8 dòng, nếu khắc cỡ chữ lớn của
chính văn và 16 dòng nếu khắc cỡ chữ nhỏ của lời chú. Mỗi
dòng, cỡ chữ lớn 17 chữ, cỡ chữ nhỏ 16 chữ. Dòng cỡ chữ
nhỏ lạc khoản mất 1 ô. Chữ khắc chân phương dễ đọc rõ ràng.
Đặc biệt dù được khắc dưới thời Tự Đức, bản in đã không
có những k?uý. Những chữ "thời" "chủng",
"hằng" v.v
đã không bị đổi hay để khuyết nét. Điều
này chứng tỏ Sinh Khảo đã dùng một bản in của thế kỷ thứ XVIII
làm bản đáy cho việc in lại Kim cương kinh giải thích lý của mình,
nếu không dùng bản của Tăng Chính Như Nguyệt .
Phần chữ quốc âm xác nhận thêm
kết luận vừa nêu. Tuy được khắc vào thế kỷ thứ XIX (1858) Kim
cương kinh giải thích lý, dù có tiếp thu ít nhiều lối khắc chữ
quốc âm của thế kỷ thứ XIX, cơ bản vẫn giữ lại lối khắc chữ
quốc âm thế kỷ thứ XVIII khi tham khảo bản in năm Cảnh Thịnh thứ 5
(1747) Xuất gia sa di quốc âm thập giới của Lân Giác Như Trừng và
bản in năm Cảnh Hưng thứ 6 (1754) Trần triều thiền tông bản hạnh
của Chân Nguyên, đối chiếu với bản in năm Tự Đức nguyên niên
(1848) Pháp Hoa kinh quốc âm của Pháp Liên, cùng với Giải Kim cương
kinh lý nghĩa. Chẳng hạn, chữ "thấy" tuyệt đại bộ phận
đều viết là
, chứ không phải viết theo kiểu thế kỷ thứ
XIX
.Chữ "xem", "người" v.v
đều viết
.,
chứ không viết theo tiêu chuẩn
.Rõ ràng, phần chữ quốc âm,
bản khắc chủ yếu sử dụng lối viết thế kỷ thứ XVIII, dẫu đôi
khi có chịu ảnh hưởng của lối viết đương thời. Nói thẳng ra, có
khả năng nó đã dùng bản in của Như Nguyệt .
Ngày nay, tuy chỉ có bản in duy nhất
năm 1858 trong tay ta vẫn phát hiện ra một số chữ khắc sai trong phần
lời "thích giải" của Minh Châu Hương Hải. Thí dụ ở tờ
11a7-b1 khi giải thích cụm từ"Vô thượng chính đẳng chính
giác" bản in có :"Vô thượng là chân tính chẳng có vật chi
trên, gọi là vô thượng. Chính giác là trên từ chư Phật, tới
nhẫn xuẩn động hàm linh, vốn tính bình đẳng, gọi là chính đẳng.
Chính giác là tự tính bản giác, thường chiếu liễu viên minh,
chẳng có tà tri, tà kiến, gọi là chính giác vậy". Hiển nhiên,
từ "chính giác" trong câu thứ hai của đoạn vừa dẫn là
một sự khắc sai của từ "chính đẳng", dù ta không có bản
nào khác để so sánh. Ngoài trường hợp khắc sai này, có khả
năng bản in năm 1858 cũng có những chỗ khắc sót. Chẳng hạn ở
tờ 67b5-6, khi giải thích câu "Vân hà vị nhân diễn thuyết?",
bản in có đoạn :"Dầu được nhiều lời, khác nào thiên hoa
loạn trị, chỗ lòng chẳng từng thêm. Dầu lại chẳng diễn thuyết,
[
] chỗ lòng chẳng từng bớt". Đoạn này hai câu, căn cứ
vào lối văn có tính biền ngẫu của Minh Châu Hương Hải, chắc hẳn
đã sót một cụm để đối lại với cụm "khác nào thiên hoa
loạn trụy" của câu 1. Đây là trường hợp dễ thấy nhất. Còn
có những trường hợp khác nữa, tuy khó phát hiện hơn, dù câu
văn lủng củng, biểu thị một sai sót nào đấy đã xảy ra. Thêm vào
đó, cũng cần vạch ra một chi tiết khác là bản khắc này, dẫu
tuyệt đại bộ phận có nét và chữ khắc chính xác, đôi khi cũng
có lầm lẫn. Ví dụ, giữa chữ kỳ và cùng hay cũng, do tự dạng
gần giống nhau nên có khi chữ cùng đã bị khắc thành chữ kỳ. Cụ
thể ở những tờ 17b4 với câu "Phật kỳ chúng sinh bản lai bình
đẳng" đích thị chữ kỳ là một khắc lầm của chữ cùng và
câu đó phải đọc :"Phật cùng chúng sinh bản lai bình đẳng".
Trường hợp ở câu "Phật dạy Tu Bồ đế kỳ chư đại
chúng" ở tờ 11b8-12a1 cũng vậy. Ta phải đọc là "Phật dạy
Tu Bồ Đề cùng chư đại chúng". Câu "Ở trong lục đạo ký
là chúng sinh" ở tờ 12b6, ta phải đọc "ở trong lục đạo
cũng là chúng sinh". Vì cũng do tự dạng gần giống nhau, nên
chữ "muôn" trong câu "Lục độ khẳm hết muôn hạnh"
đã bị khắc lầm thành "muốn" ở tờ 8b5. Chữ
"đôi" đã bị khắc thành chữ "suy" hay "thôi"
trong câu"Phật dạy A Nan : Hết thảy kinh giáo đều đặt suy chữ
như thị làm trước đầu kinh" ở tờ 9a5. Rõ ràng chữ
"suy" là một khắc lầm của chữ "đôi". Chữ
"pháp" trong "bố thí pháp" ở tờ 40b7 đã chắc chắn
bị khắc thành chữ "khử". Còn chữ "kém"
trong"Liễu ngộ thâm thiển nhiễu kém" ở tờ 22b2-3 đã bị
khắc thành "khẳm". Tuy có đôi chữ sai sót vừa nêu, nhưng
tình trạng văn bản của Giải Kim cương kinh lý nghĩa tương đối tốt,
trọn vẹn. Bản khắc của Sinh Khảo phải nói là cẩn thận và rõ
ràng. Về hành trạng của Sinh Khảo, ta hiện không có một ghi nhận
nào khác, ngoài bài Bạt dẫn viết cho bản khắc này. Tối thiểu ta
biết ông là một nhà sư, có khả năng ở chùa Phước Long, xã
Đỗ Lâm, huyện Gia Lộc, phủ Ninh Giang (tức tỉnh Hải Hưng ngày nay)
sống vào giữa thế kỷ XIX. Căn cứ vào pháp danh Sinh Khảo, ông
chắc chắn thuộc dòng thiền của Minh Châu Hương Hải. Và do "Ý
muốn phổ biến đến đời sau", nên đã đứng ra tổ chức việc
khắc in Giải Kim cương kinh lý nghĩa. Sinh Khảo hẳn lớn tuổi khi tiến
hành việc đó, bởi vì dựa vào bản danh sách những Phật tử hỷ
cúng để khắc bản, ta thấy địa bàn quyên góp trải ra trên một
diện rộng. Từ các huyện Vĩnh Lại, Đường Hào của tỉnh Hải Dương
ở phía đông cho đến Thường Tín, Hoài Đức của tỉnh Hà Nội ở
phía Tây, từ Nam định cho đến Lạng Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên đều có
tên người hỷ cúng. Để có một sự quyên góp rộng rãi như thế,
Sinh Khảo phải có một quá trình hoạt động Phật sự, ít lắm phải
từ cỡ 40 tuổi trở lên. Cho nên niên đại của Khảo có khả năng
rơi vào khoảng 1810-1870. Đối với tiền đồ Phật giáo và dân tộc,
Sinh Khảo đã có một mối quan tâm, thể hiện qua việc khắc lại bản
Kim cương kinh giải lý mục mà chúng ta hiện có trong tay hôm nay.
Chúng ta thành kính ghi nhận và cảm ơn tấm lòng ấy của Sinh Khảo .
II.TÊN GỌI VÀ NIÊN ĐẠI
Bản khắc của Sinh Khảo ghi lại 4 tên
khác nhau cho văn bản ta đang nghiên cứu ở đây. Ngoài bìa sách và
ở tờ đầu, ta có tên Kim cương kinh giải lý mục. Nhưng từ tờ 1
cho tới tờ 71, trên gáy sách ta luôn luôn thấy khắc tên Kim cương
giải thích Lý. Đến cuối sách, khi viết lời Bạt dẫn của mình, Sinh
Khảo lại ghi tên Kim cương quốc âm chú. Và khi lên phương danh
những người hỷ cúng khắc kinh, Sinh Khảo lại nói tới việc
"Tân san Kim cương thích giải lý" vậy là, trong lần khắc 1858,
bản giải thích kinh Kim cương của Minh Châu Hương Hải đã được
biết qua 4 tên khác nhau. Đó là Kim cương kinh giải lý mục, Kim cương
giải thích lý, Kim cương quốc âm chú và Kim cương thích giải lý.
Các tài liệu thế kỷ thứ XVIII,
chủ yếu là Hương Hải thiền sư ngữ lục viết năm Cảnh Hưng thứ 8
(1747) mà 30 năm sau Lê Quý Đôn đã sử dụng để viết Minh Châu
Hương Hải trong mục thiền dật của Kiến văn tiểu lục hoàn thành
vào năm Đinh Dậu đời Cảnh Hưng (1777), lại cho ta một tên khác,
đó là Giải Kim cương kinh lý nghĩa. Hương Hải thiền sư ngữ lục
còn ghi Giải Kim cương kinh lý nghĩa này có hai quyển. Như vậy, tự
nguyên thủy bản chú giải kinh Kim cương này có khả năng đã
được Minh Châu Hương Hải phân chia làm hai quyển thượng và hạ.
Thực tế, căn cứ vào bản in của Sinh Khảo còn lại đến ngày nay,
ta thấy Kim cương kinh thích giải lý có số trang tương đối dày, tức
71 tờ, ngay cả khi lời giải thích của Minh Châu Hương Hải đã
được khắc nhỏ lại với tỷ lệ một hàng chính văn, 2 hàng chú
giải. Nếu chép bình thường ra có thể vượt khỏi 71 tờ, để lên
tới 100 tờ hay hơn nữa. Một khi đã thế, việc chia quyển tất nhiên
phải xảy ra, để giúp người đọc tập trung hơn. Cho nên, Giải Kim
cương kinh lý nghĩa 2 quyển thế kỷ thứ XVIII chính là Kim cương kinh
giải lý mục một quyển của thế kỷ XIX .
Như thế, qua quá trình lưu hành phổ
biến hơn một thế kỷ tên nguyên thủy Giải Kim cương kinh lý nghĩa
của Minh Châu Hương Hải ghi trong Hương Hải thiền sư ngữ lục đã
biến thành Kim cương kinh giải lý mục, Kim cương kinh thích giải lý,
Kim cương kinh quốc âm chú và Kim cương thích giải lý. Bốn tên mới
này, về cơ bản, vẫn phản ánh nội dung tác phẩm của Minh Châu
Hương Hải, đặc biệt danh xưng Kim cương kinh quốc âm chú. Tuy nhiên,
để trả lại một phần diện mạo nguyên thủy tối thiểu là diện
mạo thế kỷ thứ XVIII của Kim cương kinh quốc âm chú của Minh Châu
Hương Hải, chúng tôi đề nghị gọi nó bằng tên Giải Kim cương kinh
lý nghĩa, chứ không gọi bằng 4 tên khác mà bản khắc Sinh Khảo
đã có, dù vẫn dùng bản Sinh Khảo để phiên âm và nghiên cứu.
Về vấn đề niên đại biên soạn Giải Kim cương kinh lý nghĩa, Hương
Hải thiền sư ngữ lục chỉ viết : Minh Châu Hương Hải ở am Chuẩn
đề tại trấn Sơn Nam "Sớm tối tu trì không lúc nào trễ nãi,
lại chú giải các kinh và dịch ra quốc âm gồm 30 thiên, lưu hành ở
đời" 30 thiên nói ở đây gồm luôn cả Giải Kim cương kinh lý
nghĩa. Vậy, việc viết bản giải này xảy ra trong giai đoạn Minh Châu
Hương Hải ở am Chuẩn Đề. Cũng căn cứ theo Hương Hải thiền sư
ngữ lục, thì năm Canh thìn (1700) ông bắt đầu khai sơn chùa Nguyệt
Đường ở Kim Động, Hưng Yên. Do đó việc viết Giải Kim cương kinh
lý nghĩa phải xảy ra trước năm 1700 .
Ta đã biết do quan hệ với Gia quận
công, một tướng miền Bắc bị miền Nam bắt trong chiến dịch năm 1648,
Minh Châu Hương Hải đã bị chúa Nguyễn Phúc Tần nghi ngờ, nên ông
đã quyết định ra Bắc vào năm Nhâm tuất (1682). Sau 8 tháng ở tạm
tại dinh trấn phủ Tây sơn, Minh Châu Hương Hải đã được chúa
Trịnh Căn (1632-1709) cấp cho 3 mẫu đất ở trấn Sơn Nam để dựng am
Chuẩn Đề làm nơi cư ngụ. Thế là ông đã ở tại am này 18 năm,
tức từ 1683-1700. Như vậy, theo Hương Hải thiền sư ngữ lục, Giải
Kim cương kinh lý nghĩa được viết trong khoảng thời gian ấy, nghĩa
là trong khoảng 1683-1700 đó. Nguồn tin này đáng tin tới mức nào?
Trả lời câu hỏi này ta chỉ có thể khẳng định là trước mắt
hiện không có một dữ kiện nào phản bác lại nguồn tin ấy. Ngay
cả khi phân tích chính nội dung Giải Kim cương kinh lý nghĩa, ta cũng
không có một dâú hiệu gì cụ thể cho phép đề nghị một niên
đại khác .
Chỉ có một sự kiện đáng chú ý,
có thể điểm chí ít nhiều niên đại ra đời, là bản chú giải
này khi tiến hành giải thích, đã trích dẫn rất ít các kinh điển
và ý kiến của những người khác. Về kinh ta thấy dẫn tên ba kinh
là Niết bàn (tờ 6a2), Viên giác (tờ 31a3) và Hoa nghiêm(tờ 34a5),
về luận, chỉ nói đến Vô thượng luận (7a4). Còn về các tác phẩm
và các tác giả khác, nó chỉ dẫn một lần Thủy lục nghi (tờ 1b7)
và Vĩnh Minh. Vĩnh Minh đây là Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975), tác giả
Tôn Cảnh Lục và Vạn Sự Đồng Qui. Đây là một sự kiện đáng
ngạc nhiên, bởi vì kinh Kim cương trong lịch sữ Phật giáo Trung quốc
cũng như Việt Nam cho đến thời Minh Châu Hương Hải đã thu hút mối
quan tâm của nhiều nhà chú giải, mà số lượng không dưới một
trăm người .
Việc trích dẫn ít ỏi này đã
chứng tỏ có một trong hai tình huống xảy ra :
Một là, Minh Châu Hương Hải giải
thích kinh Kim cương cho những người mới học, nên đã giới hạn
tối đa việc trích dẫn ý kiến bình luận của những nhà chú giải,
nhằm mục đích không làm rồi khả năng tiếp thu của họ. Tình huống
này khó xảy ra, bởi vì ở trang 8a1-2, ta thấy ghi "Huyền Cơ Thiện
Giác pháp tự Minh Châu Hương Hải thiền sư thích giải. Sa môn tăng
thống tự Chân Lý soạn thuật". Chân Lý là một trong những cao
đệ của Minh Châu Hương Hải và sau đó đã làm Tăng thống, một
tước hiệu mà Chân Nguyên (1647-1726) phải được 76 tuổi mới
được vua Lê Dụ Tôn phong năm 1722. Có khả năng Chân Lý được
phong Tăng thống trước năm 1722 này và sau năm 1714, khi Trịnh Cương
(1709-1729) đến thăm chùa Nguyệt Đường của Minh Châu Hương Hải và
chắc chắn Chân Lý phải đứng ra tiếp, vì lúc đó Minh Châu Hương
Hải đã quá già, 87 tuổi. Cuộc đón tiếp hẳn đã có những tác
động lên việc vua Lê Dụ Tôn phong Tăng thống cho Chân Lý. Chân Lý
có một vị thế như vậy, cho nên khi ghi "Minh Châu Hương Hải thích
giải, Sa môn Tăng thống tự Chân Lý soạn thuật" có nghĩa Giải
Kim cương kinh lý nghĩa tự nguyên ủy không phải "thích giải"
cho những người sơ cơ, mới bắt đầu học Phật. Ngược lại, nó
đã được Minh Châu Hương Hải "thích giải" cho một số cao
đệ của mình, cụ thể là Chân Lý. Và bản thân Chân Lý đã
"soạn thuật", tức là ghi lại những gì thầy mình đã
"thích giải" thành Giải Kim cương kinh lý nghĩa. Từ đó không
có việc Minh Châu Hương Hải "thích giải" kinh Kim cương cho
những người mới học được. Sự kiện Giải Kim cương kinh lý
nghĩa ít trích dẫn các nguồn tài liệu về trước do thế phải tìm
ở một tình huống khác .
Thứ hai, đó là Minh Châu Hương Hải
đã "thích giải" kinh Kim cương trong giai đoạn của thời kỳ
ông cư ngụ tại am Chuẩn Đề, tức khoảng từ năm 1683-1685. Đây là
giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất, tạo điều kiện để ổn định
cuộc sống của thầy trò ông. Cho nên, tuy công tác dạy dỗ học tập
vẫn tiếp tục tiến hành, việc sử dụng rộng rãi các tư liệu tất
nhiên bị hạn chế. Kinh sách phải được mua sắm hay sao chép lại,
phải có tàng kinh các để cất giữ . Những việc mà chúng ta không
thể hy vọng có thể thực hiện trong giai đoạn đầu ở am Chuẩn Đề.
Vì vậy công tác giảng dạy cũng có hạn chế. Thêm vào đó, do
thời gian học tập của đồ đệ mình không nhiều, vì phải xây dựng
cơ sở và sản xuất nuôi sống, yêu cầu học tập phải ngắn gọn,
nhưng đủ chất lượng. Cho nên, Minh Châu Hương Hải phải cô đúc
kiến thức quảng bác của mình thành những lời giải thích rõ ràng
dễ hiểu về các câu văn của kinh Kim cương, mà không cần trích dẫn
nhiều. Đây chính là lý do tại sao Giải Kim cương kinh lý nghĩa phải
được Minh Châu Hương Hải "thích giải" trong những năm đầu
của thời kỳ ông cư ngụ tại am Chuẩn Đề, tức trong khoảng 1683-1685
.
KIM CƯƠNG BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH
Kim cương là bên Tây vực có báu
kim cương luyện nên chí tinh vừa cứng vừa sắc, muôn vật chẳng
hoại được, lại hay hoại được muôn vật. Phật lấy báu kim cương
tỷ dụ cái lòng gọi là kim cương tâm. Dầu giáo hoá chúng sinh,
dạy hết chư bồ tát, cũng lấy kim cương tâm làm nhân mà tu, mới
được chứng nên Phật quả .
Phạn ngữ Bát nhã, Hoa ngôn gọi là
trí tuệ, hay đoạn hết tham sân si, diệt rồi chư phiền não, tính thể
hư dung, chiếu dụng tự tại, gọi là Bát nhã .
Phạn ngữ Ba la mật, Hoa ngôn là
đáo bỉ ngạn. Muốn đến bỉ ngạn, phải nương Bát nhã vậy. Thử
ngạn là chúng sinh tạo nghiệp, chưa khỏi sinh tử luân hồi, còn ở
Ta bà cực khổ. Bỉ ngạn là chư Phật bồ tát đã siêu việt chơn
như cảnh giới, thường trụ thanh tịnh cực lạc .
Ba la mật phân làm lục độ. Một là
bố thí độ xan tham, hai là trì giới độ tà dâm, ba là nhẫn nhục
độ sân nhuế, bốn là tinh tấn độ giải đãi, năm là thiền định
độ tán loạn, sáu là trí tuệ độ ngu si. Nhân một Bát nhã hay sinh
nên tám muôn bốn nghìn trí tuệ, gồm no lục độ khẳm hết muôn
hạnh. Vì vậy chư Phật dùng trí tuệ lực mà đào hết non nhân ngã,
dùng trí tuệ dao mà cắt hết lưới phiền não, dùng trí tuệ hỏa
mà luyện nên Phật tính kim thân. Hễ trồng giống căn lành, trước
thà thọ trì kinh, sau bèn hiểu biết nghĩa lý, hằng dùng kiên cố
khẳm hết trí tuệ Bát nhã, độ chư chúng sinh đều sang khỏi khổ
hải, đến bồ đề ngạn, gọi là đáo bỉ ngạn .
Kinh là kỉnh lộ. Một cuốn kinh này,
lục đạo hàm linh hết thảy đều khẳm. Bởi vì vọng nhận căn trần,
bỏ rảy tự tính linh quang, bèn nên vô minh bất giác. Phật vì chúng
sinh diễn thuyết kinh này khác nào tháo nêm, mở lối, phá hết chư
nghi, cho ra lòng chính tín, biết được tự tính kiên cố, muôn kiếp
bất hoại, mới gọi là Kim cương kinh .
PHÁP HỘI NHÂN DO PHẦN ĐỆ NHẤT
Như thị ngã văn
Thích Ca đến ngày Niết bàn dưới
cây Sa la song thọ, A Nan đến nơi bạch Phật rằng :"Ngày sau Phật
nhập diệt, biên tập hết thảy kinh giáo, đặt chữ nào trước?"
Phật dạy A Nan :"Hết thảy kinh giáo đều đặt đôi chữ Như Thị
làm trước đầu kinh. Như là chơn như chi lý, Thị là chơn thật bất
hư. Ngã văn là A Nan, Ca Diếp xưng pháp thân chơn ngã, tùng Phật
thân văn, gọi là như thị ngã văn .
Nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc
kỳ thọ cấp cô độc viên
Nhất thời là chính kiến chi thời,
trong mười hai giờ hằng nói Bát nhã, chưng khi hợp lẽ cảm ứng
đạo giao. Thuở ấy Thích Ca văn Phật ở nước Ba Tư Nặc vương có
Tu Đạt Noa trưởng giả mua vườn thái tử, lập làm điện vũ tinh
xá, thỉnh Phật hằng trú thuyết pháp .
Phật là chính giác, trong thì hằng
giác, hết chư vọng niệm, ngoài thời hằng giác, chẳng nhiễm trần
duyên .
Xá vệ quốc là phong đức thành .
Kỳ là Kỳ Đà thái tử, là Pháp
vương tử, Thọ là cây Kỳ Đà thái tử trồng, đạo thọ cao ấm,
Cấp là trưởng giả cung cấp hằng đủ, Cô độc viên là thầy tu
ở viện ấy, trên từ lục thân gọi là cô, dưới xả thê tử
gọi là độc. Pháp thân chẳng nhuốm trần duyên quyến thuộc, vì vậy
gọi là Cô độc viên .
Dự đại Tỳ kheo chúng, thiên nhị
bách ngũ thập nhân câu
Đại tỳ kheo là đại A la hán. Phạn
ngữ tỳ kheo, Hoa ngôn gọi là khất sỹ, trên thời khất pháp cùng
chư Phật cho minh chơn tính, dưới thời khất thực cùng nhân gian làm
giống phước điền. Khử ác tùng thiện là tiểu tỳ kheo. Thiện ác
đều rồi là đại tỳ kheo. Hết thảy 1250 người hằng hộ vệ Phật .
Dĩ thời Thế Tôn thực thời,
trước y trì bát
Dĩ thời là bấy giờ (bỉ thời)
vậy. Phật làm tam giới đại sư, gọi là Thế Tôn. Thực thời là
đương khi ngọ thời. Trước y là mặc tăng già y hai mươi lăm
điều, là nhẫn nhục nhu hoà .
Nhập Xá Vệ đại thành khất thực
Chùa ở ngoại thành, gọi là nhập
thành. Phật là Kim luân vương tử, mình cầm bảo bát xin ăn, vì
muốn giáo hoá chúng sinh xả ly kiêu mạn, dạy hết tỳ kheo đời sau
chớ tích lấy tài bảo vậy .
Ư kỳ thành trung, thử đệ khất dĩ
Phật vốn từ bi quảng đại, lòng
bình đẳng chẳng luận sang khó, vì vậy chưng nơi trong thành, tới xin
hết từng nhà .
Hoàn chí bản xứ, phạn thực ngật,
thu y bát, tẩy túc dĩ .
Hoàn chí bản xứ là phản bản hoàn
nguyên. Phạn thực ngật là pháp thân vốn chẳng có ý thực, tuỳ
duyên phải ứng hoá vậy. Thu y bát là rồi hết lao lự. Tẩy túc dĩ
là xả ly chư trần duyên, tịnh thân nghiệp vậy .
Phu toà nhi tọa
Phật muốn hiển chơn không diệu lý,
bèn phải bày bố ra, ngồi thiền định, khiến hết đại chúng đều
biết tam luân thể không vậy .
THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH PHẦN ĐỆ NHỊ
Thời trưởng lão Tu Bồ Đề .
Phạn ngữ Tu Bồ Đề, Hoa ngôn gọi
là Giải Không, lại gọi là Thiện Cát, Thiện Hiện, Không Sinh vậy.
Lòng đã đốn ngộ bản tính không tịch, gọi là Giải Không. Liễu
ngộ bản tính toàn không, gọi là Bồ Đề chân không. Hay sinh muôn
pháp gọi Không Sinh. Tuỳ duyên ứng hiện, lợi vật, lợi nhân, gọi
là Thiện Hiện. Vạn hạnh cát tường, gọi là Thiện Cát. Vả đã
đức trọng tuổi cao, ở trong đại chúng, khi ấy một mình Tu Bồ Đề
dậy, bèn hỏi vậy .
Tự đại chúng trung, tức tùng tọa
khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng
cung kính, nhi bạch Phật ngôn :"Hy hữu Thế Tôn!"
Tu Bồ Đề giải không đệ nhất ở
trong đại chúng, khi ấy một mình dậy hỏi trước. Thiên đản hữu
kinh là bên Đông độ thỉnh quá tạ tội, Tây thiên hưng kính lễ
nghi. Hữu tất trước địa là khử tà quy chánh, thanh tịnh tam nghiệp,
điều phục thân tâm, bèn sửa sang lễ phép vậy. Hiệp chưởng cung
kính là lòng hợp chưng đạo, đạo hợp chưng lòng. Hy hữu Thế tôn
là Tu Bồ đề bạch Phật, bèn tán thán rằng "Trên đời thiếu
có" vậy .
Như lai thiện hộ niệm chư bồ tát,
thiện phú chúc chư bồ tát .
Như Lai là Phật hiệu vậy. Như là
bản tính chơn như, Lai là tuỳ sở các hiện, Như là bất sinh, Lai là
bất diệt, Như là chơn như bản thể, Lai là chơn như ứng dụng. Thiện
hộ niệm là Đức Phật hay hộ chính niệm, khiến tín thọ cho chân
thật vậy. Thiện phó chúc là phó thác nấy trao, khiến phụng hành
chính pháp vậy .
Chư bồ tát là đã giác hết hữu
tình, chúng sinh hữu tình mà chẳng giác, Phật thời hằng giác mà
vô tình, bồ tát ở trong hữu tình, lòng hằng giác liễu, dụ là
bồ tát .
Thế tôn, thiện nam tử nữ nhân
phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm .
Thế tôn là lời Tu Bồ Đề xưng
tán. Thiện nam nữ là lòng đã chính định, gọi là thiện nam tử.
Thiện nữ nhân là lòng đã chính tuệ, gọi là thiện nữ nhân.
Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, là phát quảng đại tâm,
cầu vô thượng chính đẳng chính giác vậy. Vô thượng là chơn tính
chẳng có vật chi trên, gọi là vô thượng. Chính đẳng là trên
từ chư Phật tới nhẫn xuẩn động hàm linh, bản tính bình đẳng gọi
là chính đẳng. Chính giác là tự tính bản giác thường chiếu liễu
viên minh, chẳng có tà tri tà kiến, gọi là chính giác vậy .
Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục
kỳ tâm?
Vân hà là rằng dường nào vậy.
Ưng trụ là hợp trụ chưng chốn nào vậy. Hàng phục kỳ tâm là
hàng phục chỗ vọng tâm vậy. Tu Bồ Đề hỏi Phật 2 sự. Một là
hỏi chúng sinh phát lòng vô thượng bồ đề, muốn cầu Bát nhã,
rằng làm sao bèn khá an trú chính lý. Hai là hỏi chúng sinh vọng
tâm vô biên phiền não, hợp nương pháp nào cho hàng phục được
chỗ chưng lòng ấy .
Phật ngôn : Thiện tai thiện tai, Tu Bồ
Đề. Như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư bồ tát, thiện
phó chúc chư bồ tát. Nhữ kim đế thính đương vị nhữ thuyết .
Thiện tai, thiện tai là lời Phật
tán thán Tu Bồ Đề hay biết ý Phật dạy hết mọi người chớ
khởi vọng niệm, lòng hằng tinh tấn, chớ cho nhiễm chấp hết thảy
pháp tướng vậy, rằng Như lai hay hộ trợ chính niệm hết thảy chư
bồ tát, hay phú thác nấy trao hết thảy chư bồ tát. Đế thính là
Phật dạy Tu Bồ Đề cùng chư đại chúng xem xét cứu cánh cho
tường tận, liễu đạt danh tướng, chớ còn chấp trước danh trần.
Hợp vì vậy, Phật mới nói cho .
Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân phát a nậu đa la tam niệm tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như
thị hàng phục kỳ tâm. Duy nhiên Thế tôn, nguyện lạc dục văn .
Ưng như thị trụ là hợp thường
trụ, bất sinh bất diệt, an tâm tự tại. Hàng phục kỳ tâm là đã
thấy bản tính, chẳng còn móng sinh vọng niệm. Dầu đã rồi vọng
niệm, ắt bèn hàng phục chỗ chưng lòng ấy vậy. Duy nhiên, Thế tôn
là Tu bồ Đề bạch Phật lĩnh ý vâng lời. Nguyện lạc dục văn là
lòng muốn xin nghe Phật thuyết pháp vậy .
ĐẠI THỪA CHÍNH TÔN PHẦN ĐỆ TAM
Phật cáo Tu Bồ Đề : Chư bồ tát ma
ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm .
Ma ha tát là lòng độ lượng quảng
đại khôn hay lường được, ắt thật những người đại trí vậy.
Trước hỏi an trụ hàng phục hai sự, Phật bèn nói một sự hàng
phục, kỳ được rồi an trụ vậy. Dầu muốn phát vô thượng bồ
đề tâm, trước thà đốn trừ tập khí. Tập khí khôn trừ, bởi
chấp danh ngôn. Nếu xả danh ngôn, bèn rồi tập khí. Chỗ rằng cuồng
tâm dầu hết, thật nên vô thượng bồ đề. Vì vậy, Phật dạy hàng
phục chỗ chưng lòng ấy .
Sở hữu nhất thiết chúng sinh chi
loại
Hễ có sinh, vậy đều gọi là chúng
sinh, trên từ chư thiên, dưới tới nhẫn xuẩn động hàm linh chưa
khỏi hữu sinh, vì vậy gọi là nhất thiết chúng sinh. Dầu phàm, dầu
thánh, còn chấp trước thiện ác, lòng còn thủ xả, chưa rỗi vọng
tâm, ắt dấy phiền não vô biên vô lượng, sinh tử luân hồiở
trong lục đạo, cũng là chúng sinh. Chúng sinh tuy nhiều, chẳng khỏi
trong cửu loại vậy .
Nhược noãn sinh, nhược thai sinh,
nhược thấp sinh, nhược hoá sinh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc,
nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi
vô tưởng.
Noãn sinh là tham trước vô minh,
khởi hoặc tạo nghiệp, mê bản tính vậy, thọ báo phải vào vô minh
phong cố, lớn từ kim sí điểu tới nhẫn châý rận cùng là noãn
sinh .
Thai sinh là xúc cảnh phiền não, tập
tính lưu chuyển tuỳ vọng tâm vậy. Nghiệp báo phải làm thai sinh,
lớn thời sư tượng, trung thời nhân thân, bé thời miêu thử,
cùng là thai sinh .
Thấp sinh là ái dục khiên triền,
vọng khởi trần lao, tuỳ tà tính vậy. Nghiệp báo phải làm ngư hà
lân giáp, tới nhẫn thủy trung tế trùng, cùng là thấp sinh .
Hoá sinh là thiện ác hốt khởi, hỷ
nộ phi thường, tùy tà kiến vậy. Nghiệp báo hoá lên thiên đàng,
hoá xuống địa ngục, hoá lại nhân gian, tới nhẫn mễ mạch quả
thật vi trùng biến hiện, cùng là hoá sinh .
Hữu sắc là khởi tâm tu, tâm vọng
kiến thị phi, trong chẳng hợp chưng lẽ vô thường, tu lên sơ thiền
tới nhẫn tứ thiền thiên, đã hết tình dục, chẳng còn hình nam
hình nữ, hãy còn sắc thân, gọi là hữu sắc .
Vô sắc là tịnh trị nội tâm, thủ
trực, chẳng hay cung kính cúng dường, bèn rằng tịnh tâm là Phật,
chẳng tu phước tuệ, lên cõi tứ thiền thiên, đã không sắc thân,
còn một linh thức, gọi là vô sắc .
Hữu tưởng là vị liễu trung đạo,
mắt thấy tai nghe, lòng còn vọng tưởng ái chấp pháp tướng, miệng
nói hạnh Phật, lòng chưa bình thường, tu lên hữu tưởng chư
thiên, lòng còn tưởng niệm, gọi là hữu tưởng .
Vô tưởng là mê nhân tọa thiền,
hằng trừ diệt vọng, chẳng học từ bi hỷ xả trí tuệ phương tiện,
dường bằng mộc thạch, nào còn tác dụng, tu lên vô tưởng chư
thiên, nhất niệm tịch nhiên bất động, gọi là vô tưởng .
Phi hữu tưởng phi vô tưởng là
lên cõi vô tưởng thiên, nhất niệm tịch nhiên bất động, chẳng
còn tưởng niệm, chẳng đồng mộc thạch, gọi là phi vô tưởng,
đầu hết tam giới, chư thiên phước quả cực cao, thọ mạng trường
viễn, chẳng khỏi tám muôn kiếp thiên địa, bèn rồi hết phước
vậy .
Ngã giai linh nhập vô dư Niết bàn nhi
diệt độ chi
Vô dư là đoạn trừ hết phiền não
tập khí, chứng được chơn thường trạm tịch vậy. Niết bàn là
siêu xuất luân hồi, chứng vô sinh lộ. Niết là chẳng còn có sinh.
Bàn là chẳng còn có diệt. Đã nên viên giác bồ đề, hằng trụ
thanh tịnh cảnh giới, lòng Phật bình đẳng, khiến hết thảy chúng
sinh, trừ vọng tưởng tâm, tinh tu tịnh niệm, thoát khỏi sinh tử khổ
hải, gọi diệt độ vậy .
Như thị diệt độ vô lượng vô số
vô biên chúng sinh thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả .
Hết thảy vô lượng vô biên chúng
sinh đều bởi trong nghiệp duyên bèn hiện vì nhân ngu si tà kiến
phiền não phân phi. Nguyên sơ hết thảy chúng sinh, bản lai thanh tịnh,
chưa từng thiện ác nhân quả, chẳng có sinh tử niết bàn. Bản tính
bình đẳng, thật chẳng có chúng sinh, mà được diệt độ vậy .
Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược bồ
tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả
tướng tức phi bồ tát .
Lòng còn năng sở khinh mạn chúng
sinh, gọi là ngã tướng. Mình cậy trì giới, khinh người phá giới,
gọi là nhân tướng. Yếm tam đồ khổ, muốn sinh chư thiên, gọi là
chúng sinh tướng. Lòng muốn tuổi trường cần tu phước nghiệp, gọi
là thọ giả tướng. Lại rằng tham sân si ái là tứ ác nghiệp
cùng là tứ tướng. Tham ắt vì mình toan kể tư lệnh, thật là giả
tướng. Sân ắt lòng bèn phân biệt kĩ ngã, thật còn nhân tướng.
Sân ắt ngu ngoan ngạo mạn, chẳng tuân Phật pháp, thật còn chúng sinh
tướng. A? ắt còn mong cầu phước quả, muốn được tuổi dài,
thật còn thọ giả tướng .
Lại rằng ngã tướng là nương cậy
danh vị, quyền thế tài bảo, nhiều nghề học rộng, muốn tiếp sang cao,
khinh mạn những người ngu si bần tiện, gọi là ngã tướng. Nhân
tướng là lòng còn năng sở, ý cậy biết hay, chưa thật được
rằng đã thật được, chưa chứng nên gọi đã chứng nên, cậy
mình trì giới, khinh người phá giới, goị là nhân tướng. Chúng
sinh tướng là lòng chút thửa vọng cầu, lời nói ngay, nết ưa vị,
miệng rằng sự lành, lòng móng sự dữ, gọi là chúng sinh tướng.
Thọ giả tướng là khi giác liễu bằng dường đã biết thấy cảnh,
bèn lai sinh tình chấp trước danh tướng, lòng còn ái phước
trường niên, vọng cầu lợi lạc, gọi là thọ giả tướng. Còn
tứ tướng chưa khỏi chúng sinh. Rồi tứ tướng ắt thật bồ tát
vậy .
DIỆU HẠNH VÔ TRỤ PHẦN ĐỆ TỨ
Phục thứ Tu Bồ Đề
Phục thứ là lại bảo vậy. Phật
cùng Tu Bồ Đề vấn đáp, kế theo lời trước, bèn gọi là phục
thứ .
Bồ tát ư pháp ưng vô sở trụ,
hành ư bố thí
Bồ tát liễu đạt nhân pháp đều
không, chẳng còn chấp trước, hằng làm bố thí, đoạn trừ tứ
tướng, rồi lòng phiền não vọng tưởng, chẳng còn thủ xả tăng
ái. Phật bèn dạy pháp bố thí, trong thời rồi chưng lòng chấp
trước, ngoài thời lợi ích hết thảy chúng sinh. Bồ tát hợp
chẳng chỗ trụ mà bố thí, chẳng thấy có ngã tướng năng thí,
chẳng thấy có tha nhân thọ thí, chẳng thấy có tài vật khả thí. Ba
thể đều không, trụ vô sở trụ, chẳng ngại mình thiệt, chẳng
trông báo ơn, chẳng cầu quả báo. Dầu chưng đời trước có
người thọ trì kinh điển, chưa tham tài vật, tứ sự cúng dường
dầu có sở nguyện, ắt là quả toại. Hễ người làm đạo, chẳng
khá lấy ấm no làm đương sở. Chí vốn cầu vô thượng bồ đề
xuất thế gian pháp. Dầu thấy sự chẳng như ý, chớ lâý làm
hiềm. Một lòng nguyện độ chúng sinh, oán thân bình đẳng, tam luân
thể không, mới phải bố thí vậy .
Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất
trụ thanh, hương vị, xúc, pháp bố thí .
Phàm phu lục căn chẳng tịnh, vì bởi
nhãn thức chỗ hay chủng chủng chư sắc, nhĩ thức chỗ hay chủng
chủng chư thanh, tỷ thức chỗ hay chủng chủng chư hương, thiệt thức
chỗ hay chủng chủng chư vị, thân thức chỗ hay chủng chủng chư xúc,
ý thức chỗ hay chủng chủng chư pháp. Lại rằng nhãn căn hằng thấy
chủng chủng vô tận sắc, nhĩ căn hằng nghe chủng chủng vô tận thanh,
tỷ thức hằng nghe chủng chủng vô tận hương, thiệt căn hằng nếm
chủng chủng vô tận vị, thân căn hằng biết chủng chủng vô tận
xúc, ý căn hằng tư tưởng phân biệt chủng chủng vô tận pháp .
Bồ tát học Phật, có lục chủng
thông, nhãn căn vào cõi sắc trần, chẳng bị sắc trần huyễn hoặc.
Nhĩ căn vào cõi thanh trần, chẳng bị thanh trần huyễn hoặc, tỷ căn
vào cõi hương trần, chẳng bị hương trần huyễn hoặc, thiệt căn vào
cõi vị trần, chẳng bị vị trần huyễn hoặc, thân căn vào cõi xúc
trần, chẳng bị xúc trần huyễn hoặc, ý căn vào cõi pháp trần,
chẳng bị pháp trần huyễn hoặc. Chỗ bèn liễu đạt sáu trần dường
bằng mộng, huyễn, bào, ảnh, lộ điện, ắt là hết thảy không
tướng, vốn thật nhất tâm, gọi là nhất tinh minh, phân làm lục
hoà hợp. Lục căn hợp cùng lục trần, căn trần hợp sinh lục
thức, nên thập bát giới. Dầu liễu ngộ được vốn chẳng có,
hết thảy đều không, lục hoà hợp lại về nhất tinh minh. Nhất tinh
minh là nhất tâm vậy .
Bồ tát liễu đạt nhất tâm, làu
làu thanh tịnh, chẳng trụ lục trần, hằng làm bố thí vậy .
Tu Bồ Đề, bồ tát ưng như thị bố
thí, bất trụ ư tướng .
Ưng như thị bố thí là bồ tát hợp
vô tướng tâm, đã liễu ngộ tam luân thể không, chẳng còn chấp
trước lục trần, mà bố thí. Dầu còn trước lục trần, ắt phước
báo nhân thiên tiểu quả. Vì vậy Phật bảo Tu Bồ Đề rằng, Bồ tát
hợp chân thật bố thí, chẳng chấp trước chủng chủng trần tướng
vậy .
Hà dĩ cố? Nhược bồ tát bất trụ
tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng .
Bồ tát chưng trong Phật pháp, hợp
chẳng chấp trước mà bố thí. Chẳng những sắc tướng hết thảy
chủng chủng phân biệt cũng gọi là tướng. Hết thảy chủng tướng
đều bởi nhân duyên mà sinh, hợp hay hết thảy phân biệt ắt như
mộng huyễn, gặp duyên ắt hiện. Duyên tán ắt vắng. Vì vậy lời
Phật rằng :"Hễ là có tướng, ắt thật hư vọng". Hợp hay
chư pháp dường bằng mộng huyễn ảnh hưởng, như nguyệt dưới
nước, bằng tượng trong gương. Dầu bồ tát liễu đạt hết thảy chư
pháp, chẳng chấp trước chư chủng chủng tướng, lòng bằng hư
không, tự nhiên chẳng ngại. Bồ tát hợp như dường ấy bố thí,
chẳng trước tướng, cầu chỗ phước đức, lượng đồng hư không,
khôn tư nghì được vậy .
Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Đông
phương hư không khả tư lượng phủ? Phất giả, Thế tôn, Tu Bồ Đề,
nam tây bắc phương tứ duy thượng hạ hư không khả tư lượng phủ?
Phất giả, Thế tôn. Tu Bồ Đề, bồ tát vô trụ tướng bố thí,
phước đức diệu phục như thị, bất khả tư lượng. Tu Bồ Đề, bồ
tát đản ưng như sở giáo trụ .
Phật giả Thế Tôn là lời Tu Bồ
Đề bạch Phật rằng hư không chẳng há toán lường được vậy.
Bất khả tư lượng là lòng bồ tát đã giác ngộ, chẳng còn năng
sở, ắt chẳng có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả tứ tướng, há
còn toán lượng sao được. Đản ưng như sở giáo trụ là lời
Phật dạy bồ tát cùng chư học nhân, bố thí chẳng khá chấp
trước. Bèn hợp vâng, như lời Phật chỗ dạy, ắt an tâm vậy. Bồ
tát chịu giáo Như Lai, chẳng dám sai, biết hành vô sở trụ, làm
thường trụ vậy. Phật lấy mười phương hư không rộng lớn, mà
tỷ dụ, hỏi Tu Bồ Đề :"Khá toán đạc lượng được
chăng?"Tu Bồ Đề bạch Phật rằng :"Toán lường chẳng
được". Phật rằng :"Bồ tát chẳng trước tướng mà bố
thí, phước đức ắt cũng như vậy".
NHƯ LÝ THẬT KIẾN PHẦN ĐỆ NGŨ
Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Khả dĩ
thân tướng kiến Như Lai phủ?
Như Lai là chân pháp thân, vốn
chẳng có sinh diệt, thường trụ thanh tịnh vậy. Vì lòng muốn độ
chúng sinh, bèn phải hoá chất đâù thai, tuỳ phàm diễn giáo, hiểu
32 tướng tốt. Tuy đồng sắc thân, mà khác dạng thế gian. Sắc
tướng tuy diệt, bản tính hằng còn. Dầu thấy chơn tính, ắt thấy Như
Lai. Vì vậy Phật gọi Tu Bồ Đề rằng :"Chẳng khá lấy thân
tướng được thấy Như Lai vậy".
Phất giả Thế Tôn. Bất khả dĩ thân
tướng, đắc kiến Như Lai .
Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến
Như Lai là lời Tu Bồ Đề rằng sắc thân có tướng, pháp thân ắt
chẳng có tướng. Sắc thân là địa, thủy, hoả, phong, mạn, hợp mà
nên. Sắc thân có trường đoản hảo xú. Pháp thân chẳng có hình
trạng, tướng mạo. Sắc thân ắt thật phàm phu. Pháp thân ắt thật
Như Lai. Vì vậy, Tu Bồ Đề rằng :"Chẳng há lấy thân tướng
được thấy Như Lai vậy".
Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân
tướng, tức phi thân tướng .
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng :"Cớ
nào Như Lai chỗ nói thân tướng ắt chẳng phải thân tướng".
Phật rằng:"Phàm phu lấy sắc thân làm thật, chấp trước, tu
hành vậy bèn chẳng thấy Phật tính, cho nên sinh tử luân hồi. Như
Lai pháp thân vốn chẳng có tướng. Chư Phật lấy pháp làm thân,
thanh tịnh dường bằng hư không. Hễ người học đạo, muốn được
biết lẽ nhiệm bèn chưng thửa lòng chớ chấp trước một vật,
dường bằng hư không, ắt thật pháp thân. Pháp thân ắt thật hư
không. Phật cùng chúng sinh, bản lai bình đẳng. Sinh tử Niết bàn,
nguyên chẳng có hai. Dầu liễu đạt rồi hết danh tướng, ắt đồng
chư Phật.
Phật cáo Tu Bồ Đề : Phàm sở hữu
tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức
kiến Như Lai.
Như Lai tự tính chẳng thuộc khứ lai.
Tứ đại sắc thân bởi vọng niệm mà sinh. Dầu chấp lấy thân
tướng hư không, muốn thấy chưng tính Như Lai, dường bằng nhận lấy
giặc làm con, sau chẳng phải thật chỗ bền. Phật bảo Tu Bồ Đề
:"Hễ chỗ có tướng, đều ắt hư vọng". Hư là chẳng phải
thật. Vọng là chẳng phải chân. Đã chẳng phải chân thật, tướng
ắt không tướng.
Lại rằng chẳng những một Phật
chẳng có tướng, hễ chỗ có tướng, ắt những hư vọng. Dầu hay
hồi quang phản chiếu, thấy chư thân tướng chẳng có hình chẳng có
tướng, mà khá được ắt thập thấy tự tính Như Lai. Lại rằng
sắc thân hư vọng, ắt thật nhân không. Dầu thấy chư chủng tướng
chẳng có tướng, ắt thật pháp không. Liễu ngộ nhân pháp đều
không, ắt thấy tự tính Như Lai. Phật lo chúng sinh mắc đoạn kiến,
phải tùy thuận thế gian tình, ứng dụng 32 tướng, 80 giống tốt, mà
độ chúng sinh. Dầu có thân chưa phải giác. Thấy chẳng có tướng
mới phải chân hình vậy. Bèn được thấy Như Lai.
CHÍNH TÍN HY HỮU PHẦN ĐỆ LỤC
Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn :"Thế
Tôn, phả hữu chúng sinh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú,
sinh thật tín phủ?" Phật cáo Tu Bồ Đề :"Mạc tác thị thuyết,
Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phước giả,
ư thử chương cú, năng sinh tín tâm, dĩ thử vi thật".
Tín là đạo nguyên, mẹ chư công
đức, trưởng dưỡng hết thảy mọi giống căn lành. Phật pháp
dường bằng đại hải, dầu có chính tín mới ngộ nhập được. Khi
trước Phật nói vô tướng bố thí, ắt thật mật nhân, được
thấy chân tính Như Lai, ắt thật mật quả. Tu Bồ Đề nghi lòng chúng
sinh chưng đời sau ngũ trược ác thế, dầu nghe lời chương cú trong
kinh làm vậy, khôn hay ra lòng chính tín. Bèn phải hỏi Phật lại. Lo
chướng ngại chưng lòng chúng sinh chính tín, bèn mới bảo Tu Bồ Đề
chớ nói làm vậy.
Đương tri thị nhân, bất ư nhất
Phật, nhị Phật tam tử ngũ Phật, nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô
lượng thiên vạn Phật, sở chủng chư thiện căn .
Nhiều giống căn lành là chỗ rằng
chưng nơi chư Phật một lòng cung kính cúng dường, thuận tùng giáo
pháp, chưng nơi bồ tát cùng thiện tri thức, sư tăng phụ mẫu cùng
người tuổi cao đức trọng, những bậc tôn trưởng, lòng hằng cung
kính cúng dường, vâng nghe lời dạy chẳng dám nghịch ý, gọi là
những giống căn lành .
Thấy chưng hết thảy chúng sinh bần
khổ, ra lòng từ bi lân mẫn, chẳng khá khinh khi rúng rẻ, dầu có
cầu pháp, thà tua tùy căn thí tuệ, dầu gặp những loài đảng dữ,
bèn phải làm hạnh nhu hoà, nhẫn nhục, mừng rỡ đưa rước, đều
khiến cho lòng hoan hỷ, chớ cho nghịch ý, cũng là những giống căn
lành .
Dầu hết thảy lục đạo chúng sinh,
lòng từ chẳng nỡ khinh dễ, chẳng nỡ hủy nhục, chẳng hồi sát
hại, dầu thấy ngư cầm điểu thú mắc phải lưới dò, lại hay mại
mạn phóng sinh, hằng làm những sự nhiêu ích, cũng là những giống
căn lành .
Hoặc là niệm Phật một tiếng, hoặc
là lạy Phật một lạy, hoặc là phần một nén hương, hoặc lấy một
vật cúng dường, cũng là những giống căn lành .
Bao nhiêu sự dữ chẳng làm, hết
thảy sự lành vâng giữ, hoặc là lịch kiếp gặp thấy chư Phật,
hoặc là nghe nhiều học rộng, tu hành nhiều kiếp, ắt thật nên giống
căn lành vậy .
Văn thị chương cú, nải chí nhất
niệm sinh tịnh tín giả, Tu Bồ Đề, Như Lai tất tri tất kiến, thị chư
chúng sinh đắc như thị vô lượng phước đức .
Tín tâm là lòng tin pháp Bát nhã ba
la mật, hay đoạn trừ hết thảy phiền não, hay thành tựu hết thảy
xuất thế gian công đức, hay sinh nên hết thảy chư Phật. Tin tự kỷ
ta hằng có Phật tính, bản lai thanh tịnh, chẳng có ô nhiễm cùng
đồng chư Phật bình đẳng chẳng khác. Tin lục đạo chúng sinh bản lai
vô tướng, hết thảy chúng sinh đều được nên Phật, mới phải
tịnh tín vậy .
Phàm phu chưng trong chư pháp, thấy có
thiện ác phàm thánh, chủng chủng phân biệt thủ xả, lòng còn vọng
tưởng, chẳng hay sinh nên tịnh tín vậy. Bồ tát liễu đạt nhân pháp
đều không, chẳng còn vọng niệm, lòng hằng thanh tịnh, tin nghe chỗ
pháp, vậy bèn nhất niệm sinh nên tịnh tín vậy. Như lai ắt thấy ắt
hay. Thật những người thửa được trí tuệ thắng diệu, công đức
khôn hay lường được vậy .
Hà dĩ cố? Thị chư chúng sinh, vô
phục ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng,
vô pháp tướng, diệc vô phi pháp tướng .
Lại chẳng còn tứ tướng là rằng
chẳng có nương cậy danh vị, quyền thế, tài bảo, nghề nhiều, học
rộng, tinh tấn, trì giới, chẳng hay khinh mạn những người bần tiện
ngu si trễ nãi, chẳng cậy thửa lòng hay biết, chẳng có hữu ý
vọng cầu, lòng làm cũng như miệng nói vậy, pháp tướng là chẳng
có thủ xả hết thảy thiện ác phàm thánh, lòng đã thanh tịnh, muôn
pháp đều không vậy. Vô phi pháp tướng là chẳng có lòng chấp
năng tri, chẳng có lòng cậy sở đắc, nhân pháp đều không, trong
minh thật tướng, ngoài ứng giả duyên vậy. Lại rằng vô pháp
tướng là khiến cho minh pháp, chớ chấp hữu tâm vậy. Diệc vô phi
pháp tướng là khiến cho minh pháp, chớ chấp vô tâm vậy .
Hà dĩ cố? Thị chư chúng sinh, nhược
tâm thủ tướng, tức vi trước ngã nhân chúng sinh thọ giả,
nhược thủ pháp tướng, tức trước ngã nhân chúng sinh thọ giả.
Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp tướng, tức trước ngã nhân chúng
sinh thọ giả .
Nhược tâm thủ tướng là lòng
còn chấp trước sắc tướng, bèn khởi vọng tâm, ắt còn mắc tứ
tướng vậy. Nhược thủ pháp tướng là rằng tâm ngoài có pháp,
khiến Phật cầu Phật, lấy lòng tìm lòng, còn chấp trước chủng
chủng chư pháp, ắt chưa khỏi tứ tướng. Nhược thủ phi pháp
tướng là rằng chẳng có thủ xả, thiện ác phàm thánh chủng chủng
chư pháp, bèn chấp trước lấy phi pháp, tuy rằng hữu pháp, còn
mắc vô pháp, chưa khỏi tứ tướng. Dầu có niệm chẳng có giác,
ắt thật phàm phu cảnh giới. Dầu có niệm, có giác, ắt thật hiền
nhân cảnh giới. Dầu vô niệm, thường giác, ắt thật thánh nhân
cảnh giới. Dầu tạo ác nghiệp, dầu tạo thiện nghiệp, ắt còn
trước tướng hoà hai. Tạo ác nghiệp luống chịu luân hồi, tạo
thiện nghiệp luống chịu lao khổ, đều cùng chẳng minh nhận lấy bản
tâm. Dầu ngoài muốn được an hoà, trong bèn thà phải ninh tịnh.
Lòng không, cảnh ắt vắng. Niệm dấy, pháp bèn sinh. Nước đục
bởi nhân sóng động, đầm thanh ắt thấy nguyệt sáng. Dầu khỏi tứ
tướng nhân pháp đều không .
Thị cố, bất ưng thủ pháp, bất ưng
thủ phi pháp .
Lời ấy khiến chớ chấp hữu vô,
dầu lặng dầu nói, ắt cùng tẩy hết. Dầu còn pháp tướng, ắt có
chấp hữu vô. Dầu còn phi pháp tướng, ắt có chấp không pháp.
Có chấp ắt phiền não thêm thịnh. Chẳng có chấp ắt tín tâm thanh
tịnh vậy .
Dĩ thị nghĩa cố, Như lai thường
thuyết :"Nhữ đẳng tỳ kheo, tri ngã thuyết pháp, như phiệt dụ
giả, pháp huống ưng xả, hà huống phi pháp".
Ví bằng người chư sang được sông,
tua phải dùng thuyền bè, mới sang khỏi sông. Dẫu đã bến bờ,
chẳng khá chấp lấy thuyền. Ví bằng người chưa liễu ngộ chân tính,
chẳng khá không Phật pháp. Lời trong kinh rằng dầu người muốn
biết Phật cảnh giới, chỗ lòng thanh tịnh như hư không, ngoài chẳng
có một pháp khá được. Pháp còn hợp xả hà huống phi pháp .
VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT PHẦN ĐỆ THẤT
Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Như lai
đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề da? Như lai hữ sở thuyết pháp
da? Tu Bồ Đề ngôn :"Như ngã giải Phật sở thuyết, nghĩa vô
hữu định pháp, danh a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, diệc vô hữu
định pháp Như lai khả thuyết"
Tu Bồ Đề hiểu lĩnh ý Phật, bèn
rằng trong đệ nhất nghĩa chẳng có định thật chưng pháp khá được,
ắt chẳng có định thật chưng pháp khả thuyết. Như lai liễu đạt
chân không diệu nghĩa, chỉn chẳng có pháp khá được, ắt chẳng có
pháp khả diễn thuyết. Phật bèn phải bày lời, mà hỏi vô thượng
bồ đề là đệ nhất nghĩa thẳm sâu khôn biết. Hoặc trì giới nhẫn
nhục mà được vậy, hoặc tinh tấn thiền định mà được vậy, hoặc
tụ xa làm tháp, hoặc xưng Nam mô đều chỗ được vậy. Há khá
định chấp lấy một pháp .
Như lai lòng thương chúng sinh chưa
liễu ngộ, sao hay ngồi lặng vậy được yên, hoặc vì người chí cầu
thắng pháp, mà diễn thuyết. Hoặc vì người cầu vô thượng tuệ
mà diễn thuyết. Hoặc vì người cầu thanh văn đạo mà diễn thuyết.
Hoặc vì người cầu Bích chi Phật mà diễn thuyết. Ứng đối thù cơ,
tùy căn thuyết pháp, vì người học nhân có lợi có độn, tính
trí thâm thiển. Vì vậy phải tùy cơ ứng hoá, quan bịnh thọ dược.
Khi chưa liễu ngộ đường bằng chẳng chỗ được. Khi đã liễu ngộ
đường bằng có chỗ được, Dầu được cùng chẳng được, ắt
thật vọng kiến, bèn chớ chấp trước lấy rằng có chỗ định pháp
mà thuyết vậy .
Hà dĩ cố? Như lai sở thuyết pháp,
giai bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp, phi phi pháp .
Bất khả thủ là Tu Bồ Đề lo những
người học đạo chẳng biết chưng lẽ Như lai vô tướng, bất khả
thuyết là Tu Bồ Đề lệ những người học chấp trước lấy lời
Phật trong chương cú vậy. Phi pháp là ắt chẳng phải có. Phi phi pháp
là ắt chẳng phải không. Hựu vô đều chẳng có, ắt hợp chính lý
vậy. Pháp này vì chúng sinh mà bèn lập, chẳng phải có chân thật
pháp. Vì vậy, rằng phi pháp, khi chúng sinh còn mê, phải mượn lấy
pháp mà khai thị cho chúng sinh hiểu biết. Lại chẳng khá rằng
:"Nhưng chẳng có pháp vậy". Như lai nói một pháp vô thượng
bồ đề sâu rộng khôn biết. Khá dùng lấy tính mà tu, chẳng khá
chấp lấy sắc tướng vậy, khá dùng lâý lý tâm truyền, chẳng
khá dùng lấy lời khẩu thuyết. Một là có vậy, tuy có, mà chưa
từng có. Một là không vậy, tuy không, mà chưa từng không. Pháp
vốn chẳng có, mựa rằng chẳng thấy. Rằng không ắt nên đoạn
diệt, rằng có ắt là tà kiến. Rồi hữu , rồi vô mới phải chân
không bất không vậy .
Sỡ dĩ giả hà? Nhất thiết thánh
hiền, giai dĩ vô vi pháp, nhi hữu sai biệt .
Tiểu thừa, trung thừa, đại thừa,
căn tính chẳng đồng, liễu ngộ thâm thiển. Vì vậy rằng có sai
biệt, Phật nói vô vi pháp ắt thật vô trụ. Vô trụ ắt thật vô
tướng, vô tướng ắt thật vô sinh, vô sinh ắt thật vô diệt. Lồng
lộng vậy không vắng, chiếu dụng đều phân minh, giác quán chẳng
ngại, bèn thật Phật tính chơn giải thoát đạo. Phật ắt thật giác,
giác ắt thật quán chiếu, quán chiếu ắt thật trí tuệ, trí tuệ ắt
thật Bát nhã. Hết thẩy thánh hiền đều lấy một vô vi pháp mà tu,
bởi chưng căn tính chẳng đồng, liễu ngộ thâm thiển nhiều khẳm. Vì
vậy gọi là phân biệt .
Y PHÁP XUẤT SINH PHẦN ĐỆ BÁT
Tu Bồ Đề , ư ý vân hà? Nhược
nhân mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng bố thí,
thị nhân sở đắc phước đức, minh vi đa phủ?
Nói trong tiểu thế giới có một Tu
di sơn, nhật nguyệt hằng vận hành, bên Nam diêm phù đề gọi là Nam
thiện bộ châu, Đông phất bà đề, gọi là Đông thắng thần châu,
Tây cù da ni, gọi là Tây ngưu hoá châu, Bắc uất đơn việt, gọi
là Bắc cu lê châu. Bốn châu gọi là một tứ thiên hạ, Tu di ở
giữa, cao đến vót trời. Nhật nguyệt hằng vận chuyển quanh eo núi Tu
di. Một nhật nguyệt, một non Tu di, gọi là một tứ thiên hạ. Một
tứ thiên hạ gọi là một tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế
giới gọi là một tiểu thiên. Một ngàn tiểu thiên gọi là một
trung thiên, một ngàn trung thiên gọi là một đại thiên. Ba ngàn
đại thiên gọi là tam thiên đại thiên thế giới .
Thất bảo là kim, ngân, lưu ly, san
hô, mã não, chân châu, pha lê. Phật hỏi Tu Bồ Đề :"Lấy thất
bảo đầy ba ngàn đại thiên thế giới, mà bố thí, chỗ được
phước đức há là nhiều chăng?" Bố thí thất bảo là phước
thân ngoại, thọ trì kinh điển là phước thân nội. Thân phước là
y thực, tính phước là trí trệ, những người tâm tính ngu mê,
bởi vì kiếp trước bố thí cúng dường, chẳng khứng trì kinh thính
pháp, những người thông minh trí tuệ, mà bần cùng, ăn mặc chẳng
đủ, ắt kiếp trước trì kinh thính pháp, mà chẳng khứng bố thí
cúng dường. Tiền tài là trân bảo ngoại thân, pháp bảo là trân
bảo nội tâm. Dầu khứng nội ngoại song tu, mới toàn phước đức
vậy .
Tu Bồ Đề ngôn :"Thậm đa Thế
tôn". Hà dĩ cố? Thị phước đức tức phi phước đức tính.
Thị cố, Như lai thuyết phước đức đa
Lấy thất bảo đầy ba ngàn đại
thiên thế giới mà bố thí, được phước tuy nhiều, lòng còn
trước tướng bố thí, hưởng được nhân thiên tiểu quả, chưa
khỏi sinh tử luân hồi. Sao bằng biết được Bát nhã là phước
đức tính. Nương lời Phật dạy, làm đồng hạnh Phật, chưng trước
chứng nên vô thượng Bồ đề. Vì vậy, Phật rằng bố thí thất bảo
được phước tuy nhiều, chưa phải phước đức tính vậy .
Nhược phục hữu nhân, ư thử kinh
trung, thọ trì nải chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân quyết, kỳ
phước thắng bỉ .
Kinh này người người vốn khẳm, ai
ai đều nên. Trên từ chư Phật, dưới tới nhẫn xuẩn động hàm
linh, vốn có kinh này. Kinh này ắt thật diệu viên giác, tâm vật
nào khá ví được. Dầu có người chưng trong kinh này, thọ trì tới
dẫn tứ cú kệ thảng quyết vâng chịu, đòi khi giữ làm. Lại hay vì
người diễn thuyết, khác nào một đèn thắp ra ngàn đèn, đăng
đăng tương tục, phước đồng thái hư, muôn kiếp chẳng hoại. Lấy
thất bảo trước tướng bố thí, phước được sinh thiên, khác nào
tên bắn lên hư không, thế lực hết lại hoàn trụy địa .
Kinh Kim cương này là cốt tuỷ chư
Đại tạng kinh, Tứ cú kệ lấy làm cốt tủy chưng kinh Kim cương. Dầu
thọ trì kinh mà chẳng minh tứ cú kệ, khôn hay siêu thoát luân hồi,
được nên thành Phật thành Tổ, Tứ cú kệ từ xưa nhẫn nay, luận
nhiều chẳng phải một. Hoặc khi chỉ nội căn làm Tứ cú, hoặc khi
chỉ ngoại trần làm tứ cú, hoặc lấy kệ trong kinh này làm tứ cú,
hoặc rằng hữu vi, vô vi, phi hữu phi vô làm tứ cú. Hoặc rằng
hữu đế vô đế , chân đế, tục đế làm tứ cú kệ .
Xưa Thiên Thân Bồ tát trên Đâu
suất, hỏi Di Lặc rằng :"Làm sao là tứ cú kệ?" Di lặc rằng
:"Vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả tướng là tứ
cú kệ". Lục tổ đại sư lại rằng :"Ma ha bát nhã ba la mật
là tứ cú kệ".
Dầu chấp bấy nhiêu lời chuyển
ngữ, khác nào kể lấy trân bảo tha nhân, mình bèn chẳng được
bán văn. Dầu luận cho đích đáng phân minh, tứ cú kệ đương bất
ly thân, chẳng phải cầu ngoài, thật ở lòng ta giác liễu. Vậy rằng
bố thí thất bảo, tuy nhiều, dùng hết lại về sinh diệt. Tứ cú kinh
văn, tuy ít, biết rồi nên giống bồ đề .
Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhất thiết
chư Phật cập chư Phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp, giai tùng
thử kinh xuất .
Tam thế chư Phật đều nương Bát
nhã, mà được vô thượng chính đẳng chính giác. Hết thảy diệu
pháp đều ở kinh này mà ra. Kinh này dường bằng đại địa. Vật
nào chẳng ở đất, mà chỗ sinh nên. Chư Phật đều trực chỉ nhất
tâm, pháp nào chẳng bởi nơi lòng mà chỗ lập. A nậu đa la tam miệu
tam bồ đề là chân tính vậy. Chư Phật đều cầu chư pháp chân tính.
Hết thảy đại tạng chư kinh cũng ở kinh này mà đặng ra. Chẳng
những trực chỉ văn tự ngôn ngữ, kinh ắt bèn trực chỉ thật Bát
nhã là nhất tâm vậy. Nhất tâm dụng ra chư pháp tính thể, cũng
một nơi nhất niệm tự kỷ hay sinh hết thảy chủng chủng pháp vậy.
Vô tướng phước đức sinh ra ứng thân, vô tướng trí tuệ hiển
ra pháp thân, đều bởi một tự kỷ tâm sinh nên vô thượng bồ
đề pháp vậy .
Tu Bồ Đề, sở vị Phật pháp giả,
tức phi Phật pháp .
Phật lo chúng sinh chấp trước Phật
pháp, lại hỏi Tu Bồ Đề mà bảo rằng :"Pháp vô thượng chính
đẳng chính giác là giả danh vậy, chẳng phải nguyên bản lai trong
chân tính bèn có pháp ấy. Phật pháp là Như lai phương tiện lấy
mà khai thị cho chúng sinh được ngộ nhập vậy. Như lai nói có Phật
là khiến người người giác liễu, Như lai nói có pháp là khiến
người người tỉnh ngộ .
Dầu chẳng giác liễu, chẳng tỉnh ngộ
ghét rẫy, Phật ngoài pháp ngoài, chẳng phải Phật pháp vậy. Hết
thảy chúng sinh ngu mê điên đảo, chẳng hay giác ngộ, chấp trước,
tu hành chưa minh pháp tướng. Chư Phật bồ tát đều chẳng nhiễm
trước, ắt chẳng xả ly, thấy bằng chẳng thấy, nghe bằng chẳng nghe,
nương pháp mà tu hành, lòng không cảnh ắt vắng, tự nhiên thanh
tịnh. Chỗ rằng Phật pháp ắt chẳng có Phật pháp vậy .
NHẤT TƯỚNG VÔ TƯỚNG PHẦN ĐỆ
CỬU .
Tu bồ Đề, ư ý vân hà? Tu đà
hoàn năng tác thị niệm:"Ngã đắc Tu đà hoàn quả phủ? Tu Bồ
Đề ngôn :"Phất giả Thế tôn. Hà dĩ cố? Tu đà hoàn danh vị
nhập lưu, nhi vô sở nhập, bất nhập sắc thanh hương vị xúc pháp,
thị danh Tu đà hoàn".
Tu đà hoàn là dự lưu quả. Tu
đàhàm là nhất lai quả, A na hàm là bất hoàn quả. A la hán là vô
sinh quả. Bốn bậc Thanh văn cùng lấy Bát nhã Ba la mật đa pháp, mà
tu hành, đều chẳng chấp trước tứ quả, vì lòng chẳng còn móng
chỗ được vậy. Phật lo bốn bậc Thanh văn chưa biết lấy vô niệm
làm tôn, phải bày bốn sự, mà hỏi rằng:"Bốn bậc ấy lòng
còn móng chỗ được quả, được đạo chăng?"
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng bốn bậc
ấy đều chẳng móng vậy. Nhập lưu là đầu mới vào cửa, được
dự vào chưng dòng thánh nhân vậy. Bậc tu đà hoàn đã chứng quả
nhập lưu, vả lòng chẳng có móng chỗ được, chẳng còn bị lục
trần cảnh, vì vậy gọi là vô sở nhập. Tu đà hoàn đã hay sắc
thân là huyễn vọng, muốn vào chứng lẽ vô vi, đoạn trừ chỗ
tướng nhân ngã chấp trước, dùng lòng chẳng chỗ cầu, hợp lẽ
chẳng chỗ được. Chẳng chỗ cầu ắt lòng không, chẳng chỗ được
ắt lẽ vắng. Bậc ấy tuy rồi thô trọng phiền não, song le chưa hết vi
tế phiền não, gọi là sơ quả vậy .
Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Tư đà
hàm năng tác thị niệm :"Ngã đắc Tư đà hàm quả phủ?" Tu
Bồ Đề ngôn :"Phất giả Thế Tôn, hà dĩ cố? Tư đà hàm danh
nhất vãng lai nhi thật vô vãng lai, thị danh Tư đà hàm"
Nhất vãng lai là bậc Tư đà hàm,
nhân tu cửu phẩm tư hoặc, đã đoạn trừ hết sáu phẩm. Nhãn căn
khi đối trần cảnh, lòng còn một lần móng sinh, một lần móng diệt.
Tuy là trước móng niệm, sau ắt bèn giác. Vì vậy phải một lần
lên thiên thượng, một lần xuống nhân gian, tịnh trừ vi tế hoặc,
mới chứng A la hán. Thật vô vãng lai là sắc thân tuy có vãng lai,
chân tính khắp hư không thế giới, há có vãng lai. Chưng khi chứng
vô vi quả, chẳng còn thấy tướng vãng lai. Vì vậy gọi là thật
chẳng có vãng lai.
Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? A na hàm
năng tác thị niệm:"Ngã đắc A na hàm quả phủ?" Tu Bồ Đề
ngôn:"Phất giả Thế Tôn, hà dĩ cố? A na hàm danh vi bất lai, nhi
thật vô bất lai, thị cố danh A na hàm"
Phạn ngữ A na hàm, Hoa ngôn gọi là
bất lai, lòng dầu dứt rồi dục giới tư hoặc, chẳng còn lai sinh
dục giới. Bậc tam quả A na hàm đã liễu nhân pháp đều không,
tiệm tu tinh tấn bồ đề tâm, chẳng còn thối chuyển, gọi là bất
lai. Vả lòng chẳng chỗ được, bèn thật chẳng có chưng tướng
vãng lai. Lòng không chẳng có ngã tướng, còn ai gọi rằng bất lai,
vì vậy thật chẳng có bất lai .
Tu Bồ Đề ư ý vân hà? A la hán
năng tác thị niệm :"Ngã đắc A la hán đạo phủ?" Tu Bồ Đề
ngôn :"Phất giả Thế Tôn ! Hà dĩ cố? Thật vô hữu pháp danh A
la hán, Thế Tôn, nhược A la hán tác thị niệm:"ngã đắc A la
hán đạo", tức vi trước ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả .
A la hán là chứng vô sinh. Hết sinh
diệt tướng, gọi là vô sinh. Dầu có móng niệm, ắt là khởi
tướng nhân ngã. A la hán bèn có ba nghĩa. Một là sát hế? phiền
não tặc. Hai là chẳng còn sinh lai, hậu báo. Ba là đáng chịu nhân
thiên cúng dường. Tu Bồ Đề đương khi ấy hợp chứng tứ quả. A
la hán chư lậu đã rồi, chẳng có phiền não mà khá đoạn, chẳng
có tham sân mà khá trừ, lòng chẳng còn thuận nghịch, trí cảnh
đều vắng, há có chưng lòng móng được chứng quả .
Thế Tôn, Phật thuyết ngã đắc vô
tránh tam muội, nhân trung tối vi đệ nhất, thị đệ nhất ly dục A la
hán, Thế Tôn, ngã bất tác thị niệm:"Ngã thị ly dục A la
hán"
Vô tránh là lòng đã liễu được
vô sinh pháp nhẫn, chẳng còn đấu tranh. Tam muội là chính định, chính
thọ, chính kiến vậy. Chính định là rằng khi nhập định, tuy duy vận
tưởng, lòng chẳng loạn động, gọi là chính định. Chính thọ là
rằng chưng trong khi định, chỗ có mật tưởng chư cảnh giới đều
chịu hết thảy, vậy mà chẳng có thị phi vọng tưởng, gọi là chính
thọ. Chính kiến là rồi hết thảy chín mươi lăm giống tà kiến, gọi
là chính kiến. Ly dục là đã khỏi chủng chủng chư dục, ắt chẳng
có móng chút lòng ngại, dục rồi, hết vi tế tư tướng, chẳng sinh
ái nhiễm, gọi là ly dục. Nhất niệm chẳng còn sinh diệt, gọi là
đệ nhất ly dục A la hán .
Thế Tôn, ngã nhược tác thị
niệm:"Ngã đắc A la hán đạo" Thế Tôn tắc bất thuyết Tu Bồ
Đề thị lạc a lan na hạng giả, dĩ Tu Bồ Đề thật vô sở hạnh nhi
danh Tu Bồ Đề thị lạc a lan na hạnh"
Tu Bồ Đề dầu có khởi niệm muốn
được A la hán đạo, ắt Phật chẳng chứng cho là vô tránh hạnh.
Tuy làm đã thật hành, mà lòng chẳng có chỗ móng được, bèn
gọi Tu Bồ Đề thật muốn vô tránh hạnh. Tránh là phân biệt thắng
phụ, lòng còn đấu tranh, ắt còn nhân ngã, chẳng có đấu tranh, ắt
gọi Niết bàn. Phật tính bao hàm hư không thế giới bằng nơi hết
thảy chư pháp. Dầu chưng trong phủ tạng có chút tiêm hào dừng
đó, thật chưa ra khỏi lưới dục. Dầu có chỗ mong cầu, có chỗ
móng được, lòng sinh vọng niệm, ắt thật còn giống dã can .
Dầu trong phủ tạng đều chẳng chỗ
cầu, chẳng chỗ móng được, sự dữ chẳng còn sinh, nhân ngã
chẳng còn dấy. Dầu hay đặng Tu di chưng trong hột cải, lòng chẳng
dấy chút tơ mèn thamsân. Dầu hay hớp hết tứ đại hải thủy, lòng
chẳng móng chịu tiêm hào hỷ nộ. Dầu lời ngôn ngữ bên tai, chưng
hết thảy trần cảnh chẳng mê, chẳng loạn, chẳng giận, chẳng mừng,
lòng gội giặt sưả sang, đều được thanh tịnh. Thật người vô sự
đạo nhân, hơn hết thảy tri giải tinh tấn đầu đà thượng hạnh.
Thật có thiên nhãn diêu quan, ắt là pháp giới chân tính. Thật là
xe chở nhân quả, ắt Phật ra đời độ chúng sinh. Hết thảy làu
bấy tam muội, lấy vô tránh tam muội làm hơn. Tu Bồ Đề đã liễu
ngộ chân không vô tướng, chứng tịch diệt lạc, gọi là vô tránh
hạnh tam muội .
TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ PHẦN ĐỆ THẬP
Phật cáo Tu Bồ Đề:"Ư ý vân
hà? Như lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp hữu sở đắc
phủ?""Phất giả Thế Tôn ! Như lai tại Nhiên Đăng Phật sở,
ư pháp thật vô sở đắc"
Nhiên Đăng là Định Quang Phật, làm
thầy thọ ký cho Thích Ca, Phật lo chư Bồ tát chỗ đắc tâm vị trừ,
bèn bày mà hỏi Tu Bồ Đề rằng :"Ta thính pháp nơi Nhiên Đăng
Phật, chưng pháp có chỗ được chăng?" Tu Bồ Đề hiểu được
ý Phật, bèn thưa lại rằng:"Như Lai ở nơi Nhiên Đăng Phật,
thật được tâm truyền, chưng pháp ắt chẳng chỗ được". Tu Bồ
Đề đã hay pháp ắt bởi thầy khai, bèn dầu hơn liễu ngộ tự tính
bản lai nguyên sơ thanh tịnh, vốn chẳng bá trần, tịch mà hằng chiếu,
ắt bèn nên Phật, há có pháp gì mà sở thị vậy .
Lời Phật bày hỏi, vì lo phàm phu
vô minh nhị thừa chấp trước. Rồi hay bệnh ấy, mới gọi là chân
tu. Chân tu chẳng khá cần, chẳng khá trễ. Cần ắt sinh chấp trước,
trễ ắt đọa vô minh, ấy lời răn chư nhân học đạo mới vào
cửa pháp cho hay Như Lai tự tính thanh tịnh. Thích Ca ở nơi Nhiên
Đăng thọ ký cho, chư pháp ắt chẳng chỗ được vậy .
Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Bồ tát
trang nghiêm Phật độ phủ?"Phất giả Thế Tôn. hà dĩ cố? Trang
Nghiêm Phật độ giả , tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm"
Phật độ là Phật diệu tính, chỗ
rằng chân tâm chúng sinh vậy. Phật hỏi Tu Bồ Đề:"Bằng thật
tâm thượng khá dùng tướng trang nghiêm chăng?" Tu Bồ Đề
rằng:"Chẳng phải vậy, chân tính thể đồng hư không, chẳng có
hình tướng, trang nghiêm ắt làm lục độ vạn hạnh, tu giới định
tuệ, gọi là trang nghiêm. Ngoài chẳng nhiễm trần tục, trong chẳng
móng nhân ngã, chẳng chấp trước đoạn diệt pháp, lòng hằng thanh
tịnh gọi là tịnh độ". Hễ một đại thế giới hằng có một
Phật thuyết hoá, gọi là Phật độ, có chư bồ tát ở trong Phật
độ hằng làm chủng chủng thiện sự, gọi là trang nghiêm Phật độ.
Như Di Đà Phật thuở làm bồ tát, tu chư chủng chủng thiện sự,
làm vô lượng vô biên phước nghiệp, bèn hoá nên Phật độ, thế
giới đều lấy hoàn kim làm địa, lấy thất bảo làm thọ, lâm, lâu
đài, gọi là trang nghiêm vậy .
Dầu tạo tự, tả kinh, bố thí, cúng
dường ấy thật trước tướng trang nghiêm. Dầu người lòng hằng
thanh tịnh, chẳng còn cầu ngoài, nhậm vận tùy duyên, một pháp chẳng
có chỗ được, khi đi đứng nằm ngồi, cùng hợp lẽ đạo, thật
gọi là trang nghiêm tịnh độ. Chân tính ắt chẳng có sắc tướng,
bèn giả danh trang nghiêm. Vì vậy rằng chẳng có trang nghiêm, mới
gọi là trang nghiêm .
Thị cố, Tu Bồ Đề, chư bồ tát ma ha
tát, ưng như thị sinh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất
ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm, ưng vô sở trụ, nhi sinh
kỳ tâm .
Bồ tát là giác hữu tình. Ma ha tát
là đại chúng sinh. Ưng như thị sinh thanh tịnh tâm là Phật bèn khuyên
ra chân như tâm, chớ nhiễm chấp lục trần vậy. Lòng người phàm
phu vô minh khởi diệt, vọng tưởng điên đảo, ý còn thủ xả
thiện ác, phân biệt phàm thánh, gọi là trược loạn tâm. Bồ tát
lòng hằng không tịch, rồi hết vọng niệm chẳng có sinh diệt, chẳng
có động dao, ắt gọi là thanh tịnh tâm vậy. Ưng trụ sắc là Phật
thấy chưng trong lục trần, bởi sắc làm đầu, tượng vì thấy sắc
mà lòng người bèn não loạn. Trong lục căn nhãn thức làm tiên
phong. Vậy bèn phải nói sắc trước .
Dầu người tâm cảnh thanh tịnh, ắt
thật Phật quốc tịnh độ. Dầu người tâm cảnh trược loạn, ắt
thật ma quốc uế độ. Phàm phu phải vật sở chuyển. Bồ tát ắt hay
chuyển vật. Dầu hay chuyển được vật, cũng đồng Như Lai. Vì vậy
rằng ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm .
Tu Bồ Đề thí hữu nhân, thân như Tu
di sơn vương, ư ý vân hà? Thị thân vi đại phủ? Tu Bồ Đề ngôn
:"Thậm đại Thế tôn ! Hà dĩ cố? Phật thuyết phi thân, thị danh
đại thân"
Tu di sơn vương là non ở giữa tứ
thiên hạ, cao rộng ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, làm vương hết chư
chúng sơn. Phật bèn tỷ dụ, dầu có người sắc thân lớn bằng non
ấy, tuy rằng rất lớn, ắt cũng hư vọng. Chẳng có thân mới gọi
là đại thân. Hễ có hình tướng chẳng phải chân thật. Dầu ba
ngàn đại thiên thế giới cũng hư vọng vậy. Hà huống sắc thân?
Có một chân tính thanh tịnh vô
tướng, chẳng từng nhiễm trước, chẳng có quái ngại, bao hàm hư
không rộng lớn vô biên thế giới, nào thông luận sánh cùng non Tu
di. Lòng Phật muốn bảo chúng sinh, người người giác liễu chân
tâm, bèn lấy sự đại thân mà hỏi. Tu Bồ Đề thẩm biết ý Phật,
thưa rằng:"Cực lớn, Phật lo chúng sinh chưa hiểu, bèn phải biện
luận rằng chẳng có thân là pháp thân chân tâm vậy. Pháp thân
khẳm hết giới định tuệ, cụ túc thanh tịnh pháp, gọi là đại
thân"
VÔ VI PHƯỚC THẮNG PHẦN ĐỆ THẬP
NHẤT
"Tu Bồ Đề, như Hằng Hà trung,
sở hữu sa số, như thị sa đẳng Hằng hà, ư ý vân hà? Thị chư
hằng hà sa, ninh vi đa phủ?"
Ở bên Tây độ có một sông lớn,
gọi là Hằng hà, từ nguồn đầu chí hải khẩu, chỗ có cát nhiều,
Phật lấy mà tỷ dụ, hỏi Tu Bồ Đề: "Một hột cát là một
sông Hằng hà, hết thảy cát trong ấy lấy làm nhiều chăng?"
Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa Thế
Tôn, đản chư Hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa?"
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: "Như
bằng một sông chỗ có cát nhiều, một hạt cát là một sông, còn
kể chẳng xiết. Hà huống là cát hết thảy bấy nhiêu sông?"
"Tu Bồ Đề, ngã kim thật ngôn
cáo nhữ. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ thất bảo
mãn dĩ sở hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới, dĩ dụng
bố thí, đắc phước đa phủ?" Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa Thế
Tôn." Phật cáo Tu Bồ Đề: "Nhược thiện nam tử, thiện nữ
nhân, ư thử kinh trung, nải chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha
nhân thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức".
Phật bèn trùng hiển vô vi phước
thắng hơn hữu vi vậy. Như kinh Viên Giác rằng: "Có đại đà la
ni môn gọi là Viên giác, lưu ra hết thảy chơn như bồ đề niết
bàn." Chưng lẽ dường ấy nào khác tứ cú kệ này, kinh này
Viên giác là diệu tính vậy. Viên Giác diệu tính lưu ra hết thảy
chưng pháp chân như, chưng lẽ niết bàn, chưng đạo bất sinh bất
diệt, cũng đồng diệu nghĩa, như phần đệ thứ tám.
Dầu hay biết làm vậy, thọ trì chẳng
bỏ, tư lợi, lợi tha khắp hết hữu tình, đều thông chỗ đạo.
Phước ấy ắt gọi là vô vi, hơn hữu vi phước lấy hằng hà sa
trân bảo mà bố thí vậy. Bố thí thất bảo tuy nhiều, chẳng khỏi
chưng của nhân gian có ngần, bèn được hưởng chưng phước nhân
thiên có ngần. Sao bằng người thọ trì kinh, bèn được thấy tính,
lại hay diễn thuyết dạy người thấy tính. Ví dầu báu trong nhà tối
chẳng có đèn, khôn hay được thấy. Phật pháp chẳng có người
khai thị, tuy có trí tuệ, khôn hay liễu ngộ. Thí tài hữu tận, thí
pháp vô cùng. Tài thí chưa khỏi dục giới. Pháp thí siêu xuất tam
giới. Vì bởi biết lòng trụ chẳng chỗ trụ, biết pháp được
chẳng chỗ được. Hợp hay thọ trì kinh, liễu đạt tứ cú kệ, vì
người diễn thuyết, công đức ấy hơn lấy thất bảo mãn hằng hà
sa, mà bố thí vậy.
TÔN TRỌNG CHÍNH GIÁO PHẦN ĐỆ THẬP
NHỊ
Phục thứ Tu Bồ Đề, tùy thuyết thị
kinh, nải chí tứ cú kệ đẳng, đương tri thử xứ, nhất thiết thế
gian nhân thiên, a tu la giai ưng cúng dường, như Phật tháp miếu.
Tùy thuyết là lòng chẳng phân
biệt, lẽ ưng tùy cơ, gặp phàm đối cùng phàm, gặp thánh đối
cùng thánh, hợp hay chốn ấy là rằng thửa nơi lòng này vậy. Dầu
có người còn vì danh vặn lợi dưỡng, lòng chẳng thanh tịnh mà
thuyết kinh này, chưa khỏi luân hồi nào có lợi ích. Lòng dầu thanh
tịnh ắt hợp không vắng, chẳng khởi vọng niệm, lòng bèn chẳng
móng chỗ được, chẳng cậy rằng hay, rằng biết, mà diễn thuyết kinh
này, khiến người đều nghe ra lòng thanh tịnh, rồi hết vọng niệm,
thật gọi là chân cúng dường. Huyễn thân ắt thật pháp thân, trong
ấy ắt có toàn thân xá lợi. Lại rằng tùy chúng sinh mà nói kinh
Kim cương này, dầu chép một kệ để nơi chốn nào, ắt thiên đạo,
nhân đạo, cùng a tu la đạo đều lấy hoa hương, anh lạc, tràng phan,
bảo cái, hương dầu tươi, đèn cung kính cúng dường bằng nơi bảo
tháp có toàn thân xá lợi chẳng khác.
Hà huống hữu nhân tận năng thọ
trì đọc tụng. Tu Bồ Đề, đương trí thị nhân, thành tựu tối
thượng đệ nhất hy hữu chi pháp, nhược thị kinh điển sở tại chi
xứ, tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử .
Lòng hằng thọ trì kinh Kim cương,
lòng bèn biết được nghĩa kinh, lòng chứng được lẽ vô tướng,
hễ ở chỗ nào, hằng tu hạnh Phật. Lại rằng thành tựu là đã
kiến tính, chẳng chỗ nghi vậy. Phật cùng chúng sinh vốn chẳng sai
biệt. dầu hay lòng hằng thanh tịnh chẳng sinh chẳng diệt, rồi hết
vọng niệm, ấy là tối thượng đệ nhất hy hữu. Dầu khi đi đứng
nằm ngồi trong mười hai giờ, lòng chẳng khởi diệt, làu làu thanh
tịnh, hằng tu hạnh Phật, niệm niệm tinh tấn, chẳng khi gián đoạn.
Dầu hay như vậy, chỗ chưng nơi lòng mình ắt Phật, thật gọi là Phật
tử. Vì vậy ắt khá tôn trọng. Đệ tử là sự học ở sau thầy,
bèn xưng là đệ, lý biết ở nơi thầy mà ra, vậy xưng là tử.
Phật tán thán bồ tát là pháp vương tử, vì vậy rằng tôn trọng
đệ tử .
NHƯ PHÁP THỌ TRÌ PHẦN ĐỆ THẬP TAM
Dĩ thời Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn
:"Thế Tôn, đương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà phụng
trì?"
Phật cáo Tu Bồ Đề :"Thị kinh danh
vi Kim cương bát nhã ba la mật. Dĩ thị danh tự, nhữ đương phụng
trì"
Tu Bồ Đề thỉnh Phật đặt tên kinh.
Phật bảo Tu Bồ Đề rằng:"Kinh này gọi là Kim cương bát nhã ba
la mật, một lòng vâng giữ thọ trì, lưu bố cho thiên hạ đời sau.
Kim cương là giống bền cứng sắc, lấy mà tỉ dụ cái lòng dứt
rồi phiền não vọng niệm, thẳng đến chưng ngàn chư Phật bồ tát.
Bát nhã là trí tuệ, vì giáo hoá chúng sinh, phải dùng sức mạnh
của trí tuệ mà chiếu phá hết chư pháp đều không, dường bằng Kim
cương hay hoại được muôn vật. Ba la mật là đáo bỉ ngạn. Lòng
dầu thanh tịnh, hết thảy vọng niệm chẳng còn sinh, hay độ hết chúng
sinh sang khỏi khổ hải. Phụng trì là vâng giữ lòng mình, khi đi
đứng ngồi nằm, chớ cho phân biệt nhân ngã thị phi vậy .
Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Đề, Phật
thuyết Bát nhã ba la mật, tức phi Bát nhã ba la mật, thị danh Bát
nhã ba la mật .
Vậy chưng diệu minh bản tính làu
làu, sạch sẽ dường bằng hư không, chẳng có hình thể, hà huống
danh tự. Phật lệ mê nhân chấp đoạn diệt kiến. Vì vậy phải
gượng lập danh, gọi là Kim cương Bát nhã ba la mật. Thật tướng
bát nhã bèn kiên cố vậy. Quán chiếu bát nhã bèn lợi ích vậy.
Thấu phiền não nguyên, thông niết bàn ngạn, đã được pháp thể
nguyên không, bản lai chẳng có vọng niệm, rồi hết quái ngại, nào
lọ trì giới nhẫn nhục, làu làu thanh tịnh, tự tại tiêu diêu. Vì
vậy rằng chẳng có bát nhã ba la mật, mới gọi là Bát nhã ba la
mật .
Ư ý vân hà? Như lai hữu sở
thuyết pháp phủ? Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn:"Thế Tôn Như lai vô
sở thuyết".
Phật hỏi :"Có chỗ thuyết pháp
chăng?" Tu Bồ Đề rằng :"Như lai chẳng có chỗ thuyết".
Dầu rằng có thuyết, ắt là báng Phật. Chỗ bèn Thế Tôn đến khi
đón niết bàn, Văn Thù thỉnh Phật chuyển pháp luân. Thế Tôn mắng
rằng :"Ta trụ thế 49 năm, chưa từng nói một chữ. Dẫu thỉnh ta
diễn thuyết, ta vốn hằng chuyển pháp luân vậy"
Một lòng nguyên tịnh, chư pháp đều
không, nào có pháp mà khá thuyết. Những bậc nhị thừa chấp
trước nhân ngã pháp, ắt bèn có chỗ thuyết. Bồ tát liễu đạt
nhân pháp đều không, ắt chẳng có chỗ thuyết. Vì vậy trong kinh
rằng :"Dầu ai nói Như Lai có chỗ thuyết pháp, ắt là báng
Phật". Lòng ta tựa nguyệt mùa thu, đầm thanh làu làu hiển hiện
chẳng có vật chi khá ví. Dầu hay liễu đạt sắc tính đều không,
rồi hết hữu vô, dầu nói dầu lặng chẳng ngại, ắt thấy tự tính
thanh tịnh. Tuy trọn ngày nói bằng dường chẳng có nói, tuy trọn
ngày diễn thuyết bằng dường chẳng có diễn thuyết vậy .
"Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Tam
thiên đại thiên thế giới sở hữu vi trần, thi vị đa phủ?" Tu
Bồ Đề ngôn :"Thâm đa Thế Tôn"."Tu Bồ Đề chư vi trần
Như lai thuyết phi vi trần, thị danh vi trần, Như lai thuyết thế giới, phi
thế giới, thị danh thế giới"
Như kinh Hoa Nghiệm rằng 3000 đại
thiên thế giới, bởi vì vô lượng nhân duyên, bèn nên hết thảy
chúng sinh vậy. Há ngoài nơi thế giới bèn có khác, vì dầu ngộ
ở nôi chốn ấy, dầu mê ắt cũng bởi nơi chốn ấy, lòng liễu
ngộ rồi là thanh tịnh tâm. Bèn dùng lòng ấy ở nơi thế giới ấy,
ắt nên thanh tịnh thế giới. Lòng còn mê vọng là trần cấu tâm.
Dùng lấy lòng ấy ở nơi thế giới ấy, ắt nên vi trần thế giới
vậy. Bởi thế giới cực nhiều, bèn kể khôn xiết vi trần nhiều .
Lại rằng vi trần là hết thảy lòng
chúng sinh vậy, Phật bèn ứng hiện đa thân ở trong vi trần thế
giới, diệu dụng vô biên thần lực, mở mang thanh tịnh vô cấu
pháp, khiến hết thảy chúng sinh đều ra lòng thanh tịnh, chớ cho vi
trần chỗ khá nhiễm được, vì vậy rằng phi vi trần. Dầu xuất thế
gian pháp, chớ cho thế giới chỗ hay bao ràng được. Vì vậy rằng phi
thế giới. Thế Tôn đáp Văn thù rằng:"Tại thế tính hằng ly
thế. Cư trần lòng vốn viễn trần, ắt rằng thật là cứu cánh
pháp".
Lại rằng vi trần là chúng sinh vọng
niệm phiền não, khách trần che lấp tịnh tính, như người bệnh nhãn
thấy hoa trong không, bằng người ngu si bắt nguyệt dưới nước, tìm
hình trong gương. Bèn uổng dùng chỗ lòng chẳng định .
Lại rằng tụ vi trần nên thế giới,
tán thế giới làm vi trần. Thế giới dụ làm nhân thiên quả, vi
trần dụ làm hữu lậu nhân. Vi trần nhân, nhân ấy chẳng thật. Thế
giới quả, quả nọ sao chân. Dầu hay nhân quả là huyễn vọng, ắt
thật tiêu dao tự tại nhân .
Lại rằng chất niệm liễu ngộ,
chuyển làm diệu dụng tiền niệm chẳng có chư vọng tưởng, làu làu
thanh tịnh, ắt chẳng có vi trần. Hậu niệm chẳng trụ thanh tịnh, thật
gọi là vi trần. Dầu chẳng có vọng niệm, ắt Phật thế giới. Dầu
có vọng niệm, ắt chúng sinh thế giới. Tiền niệm thanh tịnh chẳng
có thế giới. Hậu niệm chẳng trụ thanh tịnh, thật gọi là thế
giới .
Lại rằng khi tán ắt gọi là vi
trần, khi tụ ắt gọi là thế giới. Tính vốn nguyên không, ắt chẳng
có vi trần thế giới. Giả danh ắt gọi là vi trần thế giới vậy .
"Tu bồ đề, ư ý vân hà? Khả
dĩ tam thập nhị tướng kiến Như lai phủ?""Phất giả Thế Tôn.
Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như lai. Hà dĩ cố? Như lai
thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị
tướng"
Nhân bởi tu hành ba mươi hai hạnh
tốt, vì vậy quả hiện ba mươi hai tướng tốt. Ví bằng chân thật Như
lai diệu tướng vốn tính trạm nhiên không tịch, chẳng có một
tướng khá được, hà huống ba mươi hai tướng. Phật niết bàn
thời sắc thân biến hoại. Vì vậy gọi rằng chẳng khá lấy ba mươi
hai tướng được thấy Như lai. Chân Phật vốn chẳng có hình, chân
đạo vốn chẳng có thể, chân pháp vốn chẳng có tướng. Phật vì
chúng sinh thị hiện, ắt thật không tướng, mới gọi là tam thập nhị
tướng .
"Tu Bồ Đề, nhược hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhân, dĩ hằng hà sa đẳng thân mạng bố thí"
Ví bằng có người xả thân mạng
bố thí hằng sa kiếp số, còn chấp tướng cầu ngoài, chưa khỏi nhân
thiên tiểu quả, nghiệp chuyển càng sâu. Đã ôm chưng bồ đề lộ,
lại chướng rẫy niết bàn tâm. Vì vậy, thí tài, thí mạng chẳng
bằng thí pháp .
"Nhược phục hữu nhân, ư thử
kinh trung, nải chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị than nhân thuyết, kỳ
phước thậm đa"
Bố thí tuy hưởng phước nhiều, chưa
minh bản tính, khác nào sinh vào con nhà hào quý, càng thêm kiêu sa
phóng dật tạo nghiệp, lâu chịu nhiều nghiệp nhiều. sao bằng thọ trì
tứ cú kệ, vì người diễn thuyết, tự lợi, lợi nhân. Thí tài
thí mạng sao bằng thí pháp. Vì vậy gọi rằng chỗ phước cực nhiều
.
LY TƯỚNG TỊCH DIỆT PHẦN ĐỆ THẬP
TỨ
Dĩ thời Tu Bồ Đề văn thuyết thị
kinh, thâm giải nghĩa thú, thế lệ bi khấp, nhi bạch Phật ngôn:"Hy
hữu Thế Tôn, Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển, ngã tùng
tích lai, sở đắc tuệ nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh"
Khi ấy, Tu Bồ Đề liễu ngộ chân
không vô tướng diệu nghĩa, trong lòng mừng cực là, thương chảy
nước mắt, khóc than mình gặp muộn, chẳng được giác liễu cho
sớm. Tuy theo đòi Phật, chỗ được tuệ nhãn, song le chưa từng
được nghe kinh Kim cương này .
Thế Tôn nhược phục hữu nhân,
đắc văn thị kinh, tín tâm thanh tịnh, tức sinh thật tướng, đương tri
thị nhân, thành tựu đệ nhất hy hữu công đức .
Tín tâm thanh tịnh là tin bản lai tâm
chẳng có một pháp khá được, lòng hằng làu làu thanh tịnh, chưa
từng dấy ra vọng niệm. Dầu liễu ngộ tự tính thanh tịnh, ắt ra thật
tướng. Hết thảy thật tướng là tự tính thanh tịnh vậy. Tính hằng
thanh tịnh, bèn chứng nên pháp thân công đức. Ở nơi pháp thân,
chẳng phải duyên phước cầu ngoài, vì vậy gọi rằng hy hữu công
đức .
Thế tôn, thị thật tướng giả, tức
thị phi tướng, thị cố Như lai thuyết danh thật tướng .
Thật tướng là chẳng có tướng
dường bằng hư không, chẳng có hình tượng ví bằng lông rùa sừng
thỏ, khác nào sừng thỏ không hình. Bèn nói giả danh thật tướng,
vốn chẳng khá được. Vì vậy Như lai thuyết danh thật tướng .
Thế tôn, ngã kim đắc văn như thị
kinh điển, tín giải thọ trì, bất túc vi nam .
Tín giải là tin chỗ nghĩa bèn hiểu
biết vậy. Thọ trì là vâng chịu diệu nghĩa, bèn cầm giữ vậy. Lòng
chẳng hồ nghi mới phải là tin. Thông hiểu ý nghĩa, mới gọi là
giải. Kính vâng chẳng quên, mới gọi là thọ. Hằng phục chẳng yếm
no, mới gọi là trì. Nương theo pháp ấy mà tu, dầu lòng tung hoành
tự tại, chẳng dễ, chẳng khó, mới gọi là bất túc vi nan .
Nhược đương lai thế, hậu ngũ bách
tuế, kỳ hữu chúng sinh, đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị
nhân tức vi đệ nhất hy hữu .
Từ Phật nhập diệt năm trăm năm
khỏi chính pháp, chưng sau đương lai hậu thế, dầu có người được
nghe kinh này, tin biết thọ trì, lòng hằng không tịch, làu làu thanh
tịnh, chẳng còn chấp tướng, hằng trụ vô sở trụ tâm, liễu
được vô sở đắc pháp mới gọi là đệ nhất hy hữu .
Hà dĩ cố? Thử nhân vô ngã
tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng.
Sở dĩ giả hà? Ngã tướng tức thị phi tướng, nhân tướng, chúng
sinh tướng, thọ giả tướng tức thị phi tướng. Hà dĩ cố? Ly nhất
thiết chư tướng, tức danh chư Phật .
Trước nói tức thị phi tướng, ắt
thật diệt sắc, cho minh không. Sau lại nói tức thị phi tướng, cho
hiểu biết bản lai, chẳng có tứ tướng gọi là thật tướng. Chẳng
chấp lưỡng biên. Chẳng trung trụ đạo. Làu làu thanh tịnh, liễu
đạt nhị không. Tam thế Như lai cùng chứng một lý, mới gọi là
tức danh chư Phật .
Phật cáo Tu Bồ Đề :"Như thị,
như thị"
Phật chứng đôi lần như thị, vì Tu
Bồ Đề đã giải không nghĩa, hội được pháp ý Như lai. Phật bảo
khỏi hết tướng hợp lấy làm vô thượng giác. Ngoài giác rồi
hết thảy hữu tướng. Trong giác, rồi hết thảy không tướng. Chưng
nơi tướng, khỏi tướng, chưng nơi không khỏi không. Sắc không đều
rồi, vậy rằng như thị, như thị .
Nhược phục hữu nhân, đắc văn
thị kinh, bất kinh bất bố bất uý, đương tri thị nhân, thâm vi hy hữu
.
Dầu có người được nghe Đại
thừa bát nhã thông hiểu, một phen tới nghe kinh, mình chẳng còn
sợ, gọi là bất kinh. Biết được đại thừa toan đương bát nhã,
thông hiểu chính tín, chẳng còn nghi, vậy gọi là bất bố. Biết
được đại thừa, sửa sang bát nhã, thuận giáo tu hành, chưng sau
chẳng còn nghi báng, vậy gọi là bất uý. Lòng dầu làu làu thanh
tịnh như thể hư không, muôn kiếp chẳng còn thối chuyển, mới gọi
rằng hy hữu vậy.
Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, Như lai thuyết
đệ nhất ba la mật, tức phi đệ nhất ba la mật, thị danh đệ nhất ba
la mật .
Ba la mật có 10 giống. Thứ nhất là
bố thí, thứ nhì là trì giới, thứ ba là nhẫn nhục, thứ bốn là
tinh tấn, thứ năm là thiền định, thứ sáu là trí tuệ, thứ bảy
là từ, thứ tám là bi, thứ chín là phương tiện, thứ mười là
bất thối .
Bố thí thông tiếp vạn hạnh. Thí
tài, thí pháp nên giống căn lành. Lệ còn năng sở danh tướng,
trước phải khử giả danh, kẻo còn trụ tướng bố thí. Đáo bỉ
ngạn thật tướng nguyên chẳng có hay, vậy gọi làm đệ nhất ba la
mật. Dầu liễu ngộ nhân pháp đều không, chẳng có chúng sinh mà
khá độ, chẳng có bỉ ngạn mà khá đến, bèn phải mượn giả danh
dẫn dạy chúng sinh, được vào chưng cửa kiến tính. Vì vậy gọi
rằng tức phi đệ nhất, thị danh đệ nhất ba la mật .
Tu Bồ Đề, nhẫn nhục ba la mật, Như
lai thuyết phi nhẫn nhục ba la mật, thị danh nhẫn nhục ba la mật .
Thích Ca cũng đồng chư Phật, tự
xưng Như lai. Rằng nhẫn nhục là độ sân nhuế, kẻo hôn loạn chân
tính. Nguyên trong chân tính làu làu thanh tịnh, há có nhẫn nhục. Hà
huống là sân nhuế? Ví dầu lòng còn có năng nhẫn, sở nhẫn, ắt
chẳng khỏi tứ tướng. Liễu ngộ nhân pháp đều không, nhẫn như
thố giác, nhẫn như quy mao. Vậy mới gọi là nhẫn nhục Ba la mật .
Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề như ngã tích vi
Ca L?ương, cái tiệt thân thể. Ngã ư dĩ thời, vô ngã tướng,
vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Hà dĩ
cố? Ngã ư vãng tích, tiết tiết chi giải thời, nhược hữu ngã
tướng, nhân tướng, chúng sinh tuớng, thọ giả tướng, ưng sinh sân
hận. Tu Bồ Đề, hựu niệm quá khứ, ư ngũ bách thế, tác nhẫn
nhục tiên nhân, ư dĩ sở thế, vô ngã tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng .
Thích Ca cùng Ca L?ương là sự túc
nhân tiền kiếp. Phạn ngữ Ca L?ương, Hoa ngôn là Cực Ác quân
vậy. Trước nói hữu vi quyền giáo, sau hiển vô vi thật lý. Ca là
pháp tuệ dị danh, L?à kiên cứng lợi sắc, Vương là tâm vương
vậy. Phải dùng dao tuệ cắt đoạn vô minh phiền não chưng nơi thân
thể vậy. Dầu người đã kiến tính, nghe lời hủy báng, bằng uống
cam lồ. Lòng càng thanh lương như dao cắt nước, bằng gió thổi sáng.
Phiền não chẳng sinh, há còn giận dữ. Khi ấy oán thân bình đẳng,
mới gọi rằng không tứ tướng .
Thị cố, Tu Bồ Đề, bồ tát ưng ly
nhất thiết tướng, phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm .
Bồ tát vâng chịu Như lai vô tướng
giáo pháp, muốn nên thành tựu, phải phát vô thượng đạo, tâm
khỏi hết danh tướng, lòng hằng không tịch, làu làu thanh tịnh, mới
gọi là thành đẳng chính giác .
Bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ư
trụ thanh hương vị xúc pháp sinh tâm, ưng sinh vô sở trụ tâm.
Nhược tâm hữu trụ, tức vi phi trụ .
Chẳng hợp trụ sắc sinh tâm là
chẳng khá nhiễm sắc trần tài bảo mọi vật tốt xấu, bèn sinh lòng
tăng ái. Chẳng hợp vị thanh hương trụ xúc pháp sinh tâm là chẳng
khá nhiễm chấp tiếng thanh trần, chê khen ca vịnh mọi loại nhạc khí,
chẳng khá nhiễm chấp hương trần danh hoa mọi giống tịnh uế, chẳng
khá nhiễm chấp vị trần ăn uống mọi mùi dị vị, chẳng khá nhiễm
chấp xúc trần, hợp cùng chẳng hợp, khinh trọng thô tế, chẳng khá
nhiễm chấp pháp trần chủng chủng thí dụ. Dầu tới chốn nào, tuỳ
xứ giải thoát, lòng hằng tịch nhiên bất động. Vậy rằng hữu trụ
tức vi phi trụ .
Thị cố Phật thuyết bồ tát tâm bất
ưng trụ sắc bố thí .
Bố thí có ba đẳng. Một là nội
ngoại thân tâm hết thảy đều xả, dường bằng hư không, chỗ làm
phước đức chẳng còn tham chấp, tùy phương ứng vật, năng sở
đều rồi, gọi là đại xả. Hai là làm đạo bố đức, tùy phận
cúng dường lòng chẳng mong cầu, gọi là trung xả. Ba là nghe pháp hay
không. lòng chẳng chỗ chấp, làm những sự lành, có chỗ mong cầu,
gọi là tiểu xả. Đaị xả dường bằng đuốc soi trước mặt, nào
còn mê ngộ. Trung xả dường bằng đuốc soi một bên, hoặc cókhi minh
khi ám. Tiểu xả dường bằng đuốc soi sau lưng, khôn thấy hào thập.
Bồ tát lục căn thanh tịnh, lòng chẳng trụ sắc bố thí vậy .
Tu Bồ Đề, bồ tát vị lợi ích nhất
thiết chúng sinh, cố ưng như thị bố thí .
Bồ tát chẳng vì tự kỷ, cầu khoái
lạc. Bèn vì cưú hộ chư chúng sinh, phải cần kiệm chưng nơi mình, cho
người được xa xỉ, lợi ích hết thảy chúng sinh, bèn hợp tam luân
thể không, vậy mới phải như thị bố thí .
Như lai thuyết nhất thiết chư tướng,
tức thị phi tướng. Hựu thuyết nhất thiết chúng sinh, tức phi chúng
sinh .
Như lai là Phật nói. Hết thảy nhân
tướng ngã tướng đều cùng bại hoại, chẳng phải chân thật. Hễ
chỗ có tướng ắt là hư vọng, vậy rằng tức thị phi tướng. Hết
thảy chúng sinh bèn cùng giả danh, vì bởi vọng nhân tứ đại làm
tự thân tướng, lục trần duyên ảnh làm tự tâm tướng. Dầu lý
ngộ chưng lý chân không vô tướng, bấy giờ ngũ ấm tiêu tận,
bèn thấy Phật tính. Vậy rằng hết thảy chúng sinh ắt chẳng có
chúng sinh.
Tu Bồ Đề, Như lai thị chân ngữ
giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị
ngữ giả .
Chân ngữ là chẳng phải giả ngụy,
hết thảy hàm linh đều có Phật tính vậy. Thật ngữ là chẳng phải
hư vọng, hết thảy văn pháp đều không, vốn chẳng chỗ có vậy. Như
ngữ là như như chi lý, hết thảy muôn pháp bản lai chẳng từng
động vậy. Bất cuống ngữ là lời Phật thuyết chẳng phải cuống
hoặc, nghe bát nhã pháp đều được giải thoát vậy. Bất dị ngữ
là lời Phật thuyết chẳng phải quái dị, hết thảy muôn pháp bản
nguyên không tịch, chưa từng khác vậy .
Tu Bồ Đề, Như lai sở đắc pháp
thử pháp vô thật vô hư .
Vô thật là pháp thể không tịch,
chẳng có hình tướng khá được vậy. Vô hư là trong có hằng sa
tính đức diệu dụng, bèn chẳng hết vậy. Muôn pháp bởi vì chúng
sinh mà nói. Chưng nơi chân tính vốn chẳng chỗ có, bèn chẳng phải
thật. Lại nương lấy pháp mà tu, mới hầu hiểu được chân tính,
pháp bèn chẳng huống, lại chẳng phải hư. Diệu dụng đa phương, vậy
rằng vô thật. Chân thể thường tồn, vậy rằng vô hư .
Tu Bồ Đề, tâm trụ ư pháp nhi hành
bố thí, như nhân nhập ám, tức vô sở kiến. Nhược bồ tát tâm
bất trụ pháp nhi hành bố thí, như nhân hữu mục, nhật quang minh
chiếu, kiến chủng chủng sắc .
Bồ tát là quyền độ chúng sinh,
hằng bố thí pháp, dầu còn chấp trước, có chỗ mong cầu, bằng
người vào trong nhà tối, muôn vật ắt chẳng chỗ thấy. Dầu có
giáo hoá chúng sinh, chúng sinh khôn hay biết đường thấy tính. Dầu
bồ tát liễu đạt pháp không, lòng chẳng chấp trước, hằng bố thí
pháp, chẳng chỗ mong cầu, bằng người có nhãn mục, ở nơi tuệ
nhật sáng soi, thấy chủng chủng sắc, bèn chẳng chấp tướng. Dầu
có giáo hoá chúng sinh, tùy căn thuyết pháp, tự lợi, lợi tha,
khai kim cương nhãn, nhiên bát nhã đăng, mở bảo chúng sinh biết
lòng thấy tính. Vậy mới phải bồ tát đạo nhãn .
Tu Bồ Đề, đương lai chi thế, nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, năng ư thử kinh, thọ trì đọc
tụng tức vị như lai, dĩ Phật trí tuệ, tất tri thị nhân, tất kiến
thị nhân, giai đắc thành tựu vô lượng vô biên công đức .
Đương lai thế là Thích Ca nhập diệt
sau năm trăm năm, chưng đời ngũ trược ác thế, dầu có thiện nam
tín nữ, lòng hằng tinh tấn thọ trì đọc tụng kinh Kim cương này,
tới nhẫn giải nghĩa minh lý, biết được thật tướng, nhân pháp
đều không, hết thảy thiện ác phàm thánh chư cảnh tính đồng Như
lai chơn trí tuệ vậy. Tam thế chư Phật đều hay, đều thấy, thật chưng
người ấy đã nên thành tựu vô lượng vô biên công đức .
TRÌ KINH CÔNG ĐỨC PHẦN ĐỆ THẬP
NGŨ
Tu Bồ Đề, nhược hữu thiện nam
tử, thiện nữ nhân, sơ nhật phần dĩ hằng hà sa đẳng thân bố
thí, trung nhật phần phục dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí, hậu nhật
phần diệc dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí. Như thị vô lượng bách
thiên vạn ức kiếp, dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhân, văn
thử kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ. Hà huống
thơ tả thọ trì đô? tụng, vị nhân giải thuyết .
Sớm mai từ dần chí thìn là sơ
nhật phần. Nửa ngày từ thìn chí mùi là trung nhật phần. Ban chiều
từ mùi chí tuất là hậu nhật phần. Một ngày ba giờ, dầu lấy
hằng hà sa đẳng thân mạng mà bố thí, quả báo tuy nhiều vô
lượng, còn hữu vi phước chưa khỏi thế gian, bèn thêm nhiễm chấp
chư phiền não nhân, lại tạo ác nghiệp. Sao bằng nghe kinh điển này,
lòng tin chẳng nghịch, sau ắt nên giống căn lành. Đã được giống
căn lành, càng ngày càng thêm tăng trưởng xuất thế gian pháp,
chứng vô vi quả, thắng hơn hữu vi phước vô lượng vô biên, tỉ
dụ sao được .
Dầu nhẫn hạnh giải tương ưng mới
gọi là thọ. Dũng mãnh tinh tấn mới gọi là trì. Thân tâm nội
ngoại chẳng còn tán loạn, mới gọi là độc. Thấy tính lòng tin
chẳng nghịch, mới gọi là tụng. Mình đã hiểu biết, lại hay phương
tiện vì người mà diễn thuyết cho minh thật tướng, được nên
thành tựu vô thượng bồ đề. Chẳng còn trụ tướng, thí pháp
công đức vô lượng vô biên, bội hơn trăm ngàn muôn ức kiếp,
lấy thân mình kia mà bố thí vậy .
Tu Bồ Đề, dĩ yếu ngôn chi, thị kinh
hữu bất tư nghị, bất khả xưng lượng vô biên công đức .
Phật gọi Tu Bồ Đề lấy lời ý
thiết, mà nói minh cửa pháp nơi chỗ có công đức. Khỏi hết cảnh
giới chư tâm, bèn chẳng khá lấy lòng mà tư duy vậy. Khỏi hết
cảnh giới ngôn thuyết, bèn khá chẳng lấy miệng mà nghị luận vậy.
Khôn lấy phẩm bậc nào xứng bằng. Khôn lấy giống vật chi lường
được. A? thật vô biên công đức .
Như lai vị phát đại thừa giả
thuyết, vị phát tối thượng thừa giả thiết .
Tiểu thừa là bậc thanh văn, muốn
khỏi sinh tử một mình, chưa độ được chúng sinh, gọi là tiểu
thừa. Trung thừa là bậc duyên giác, tuy đã kiến tính, song le nửa
vì người, nửa còn vì mình, gọi làm trung thừa. Đại thừa là
bậc bồ tát phát lòng từ bi quảng đại, xả kỷ độ nhân, tuỳ
thuận tuỳ nghịch, muôn cảnh chẳng nhiễm, gọi là đại thừa. Tối
thượng thừa là bậc chư Phật phát vô thượng bồ đề tâm, diệu
dụng hết thảy chủng trí, khỏi mê khỏi giác, chẳng ngại thánh
phàm, rồi sắc rồi không, nhiếp hết tịnh uế, gọi là tối thượng
thừa pháp. Kinh Kim cương này Phật vì người đại thừa, tối
thượng thừa mà diễn thuyết. Chẳng phải vì trung thừa, tiểu thừa
vậy mà nói .
Nhược hữu nhân năng thọ trì độc
tụng, quảng vị nhân thuyết, như lai tất tri thị nhân, tất kiến thị
nhân, giai đắc thành tựu, bất khả lượng, bất khả xứng, vô
hữu biên, bất khả tư nghị công đức. Như thị nhân đẳng, tức vi
hà đản Như lai a nậu đa la tam miệu tam bồ đề .
Dầu có người thượng căn đại
trí, nghe biết kinh này, liễu đạt Phật ý, trực chỉ tu hành. Lại hay
vì người diễn thuyết, mở bảo học nhân đều thấy tự tính, hiểu
thấu chưng lý vô tướng, biết được bản nguyên lòng mình, thật
Phật trí tuệ khai sáng, rũ sạch trần lao vọng niệm, đều nên vô
thượng bồ đề. Hợp hay người ấy thành tựu công đức vô biên
vô lượng, nào khá xưng lượng được vậy. Thật là hà đản Như
lai, ắt nên vô thượng chính đẳng chính giác .
Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược lạc
tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ
giả kiến, tắc ư thử kinh, bất năng thính thọ độc tụng, vị nhân
giả thuyết .
Tiểu pháp là ngoại đạo. lòng hằng
đấu tranh nhân ngã. Dầu có thông minh, càng học đa kiến đa văn,
càng thêm thượng mạn. Tiểu thừa độn căn hạ liệt, còn đoạ tà
kiến, chấp trước tiểu pháp, chẳng nghe đại thừa, khôn tin bát
nhã. Dầu có thọ trì độc tụng, lòng còn chấp sự mê lý, khôn
hay vì người diễn thuyết kinh này .
Tu Bồ Đề, tại tại xứ xứ,
nhược hữu thử kinh, nhất thiết thế gian, nhân thiên a tu la, sở
ưng cúng dường, đương tri thử xứ, tức vi thi pháp, giải ưng cung
kính, tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ .
Phật bảo Tu Bồ Đề :"Hễ ở
chốn nào, dầu có người liễu ngộ kinh này, thiên nhân a tu la đều
đương cúng dường làm lễ cung kính, cũng như Phật tháp, hằng tán
hương hoa chưng nơi trì kinh, cúng dường người ấy :"vì vậy,
rằng một người dùng lòng, hết chư thiên đều cũng biện cúng.
Trước bày sự, sau bèn hiển lý. Hễ còn trong hữu vi pháp, gọi
là hết thảy thế gian. Thiên đạo là vì lòng còn dật lạc, gọi
làm chư thiên. Nhân đạo vì lòng còn thiện ác, gọi làm chư nhân.
A tu la đạo vì lòng còn sân hận, gọi là a tu la. Dầu còn bấy
nhiêu, lòng chưa được giải thoát. Dầu khỏi bấy nhiêu, lòng chỗ
rằng hợp đương ứng cúng. Tính hằng giải thoát, vời vợi cao
siêu thế giới. Vì vậy gọi là Phật tháp. Tính trong giải thoát nở
ra chính kiến chính tri, ngũ phận nức xông muôn hạnh, gọi là hương
hoa hằng tán nơi chốn ấy .
NĂNG TỊNH NGHIỆP CHƯƠNG PHẦN ĐỆ
THẬP LỤC
Phục thứ Tu Bồ Đề, nhược thiện
nam tử thiện nữ nhơn, thọ trì độc tụng thử kinh, nhược vi nhân
khinh tiện, thị nhân tiên thế tội nghiệp, ưng đọa ác đạo, dĩ kim
thế nhân khinh tiện, cố tiên thế tội nghiệp, tức vi tiêu diệt,
đương đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề .
Phần trước nói cho minh sự sinh
thiện. Phần này nói cho minh thiện diệt ác. Tuy quả nhân định nghiệp
nan đào, song le có công thọ trì bát nhã, lại hay chuyển trọng làm
khinh. Kiếp trước làm ngũ nghịch thập ác trọng tội, đương vào
địa ngục ngạ quỷ súc sinh. Đời này hoặc phải người khinh dễ
hủy báng mạ nhục, hoặc là phải thân bần cùng tật bệnh. Dầu hay
tiến chí tinh cần, thọ trì bát nhã chẳng bỏ, bao nhiêu tội làm
kiếp trước ắt là tiêu diệt hết, chưng sau bèn lại được nên
vô thượng chính đẳng chính giác .
Tu Bồ Đề, ngã niệm quá khứ vô
lượng a tăng kỳ kiếp, ư nhiên đăng Phật tiền, đắc trì bát bách
tứ thiên vạn ức na do tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa
sự, vô không quá giả. Nhược phục hữu nhân, ư hậu mạt thế,
năng thọ trì độc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở
cúng dường chư Phật công đức, bách phần bất cập nhất thiên
vạn ức phần, nãi chí toán số tỷ dụ sở bất năng cập .
A tăng kỳ là vô ương số. Na do tha
là nhất vạn vạn. Từ quá khứ vô thỉ kiếp nhẫn nay, Phật nhãn
tuệ tính đều xem biết hết. Kể từ khi chư gặp Nhiên Đăng Phật,
Thích Ca đã gặp được tám trăm bốn ngàn muôn ức vạn vạn chư
Phật xuất thế, hằng thờ phụng cúng dường chẳng không vượt
vậy. Chưng sau đời ngũ trực ác thế, dầu có người thọ trì kinh
Kim cương này, chỗ được công đức bội hơn ngàn muôn ức phần
công đức cúng dường chư Phật thuở trước. Tuy cúng dường vô
số chư Phật, công đức ấy còn trong hữu vi, phước báo nhân
thiên tiểu quả. Một kỳ thiên địa còn có thành hoại, phước ấy
có khi hữu tận. Sao bằng thọ trì chân kinh một phần, ắt bèn
được biết lòng thấy tính, thoát khỏi sinh tử luân hồi, phước
trí vô cùng, không hay ví kịp .
Tu Bồ Đề, nhược hữu thiện nam
tử, thiện nữ nhân, ư hậu mạt thế, hữu thọ trì đọc tụng thử
kinh, sở đắc công đức, ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu
nhân văn, tâm tức cuống loạn, hồ nghi bất tín .
Hồ là giống thú, tên nó gọi là
dã can, tính hay đa nghi. Tục ngữ gọi là hồ nghi. Lời trước Phật
nói so lường phước đức tuy nhiều, song le chưa bày tường tận.
Trong nơi Tịnh sa cảnh giới, tính đức hằng sa. Công đức ấy nào
có bờ bạn. Những người thiểu thức chưa từng nghe thấy lạ
nhiều, cực sợ. Một là lòng sinh ra cuống loạn. Hai là hồ nghi
chẳng tin vậy .
Tu Bồ Đề, đương trị thị kinh nghĩa
bất khả tư nghì, quả báo diệc bất khả tư nghì.
Nghĩa là bát nhã diệu nghĩa. Bát
nhã là cụ đại trí tuệ. Dầu có người nghe kinh, hiểu được bát
nhã, bèn thấy chơn tính, thoát khỏi sinh tử luân hồi. Diệu nghĩa
ấy khôn tư nghì được. Phật nói rằng :"Ta dầu nói trì kinh
công đức,hoặc có người nghe, lòng ra cuống loạn, hồ nghi chẳng
tin, lại sinh phỉ báng. Tội ấy là quả báo ắt cũng chẳng tư nghì
được vậy".
CỨU CÁNH VÔ NGÃ PHẦN ĐỆ THẬP
THẤT
Dĩ thời, Tu Bồ Đề bạch Phật
ngôn:"Thế Tôn, thiện nam tử, thiện nữ nhân phát ra a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ
tâm?"Phật cáo Tu Bồ Đề:"Thiện nam tử, thiện nữ nhân
phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, đương sinh như thị
tâm: Ngã ưng diệt độ nhất thiết chúng sinh, diệt độ nhất chúng
sinh dĩ, nhi vô hữu nhất thiết chúng thật diệt độ giả"
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng
:"Thiện nam tử, thiện nữ nhân, lòng muốn cầu chơn tính thành
Phật, rằng hợp nương pháp nào mà trụ, rằng làm sao cho hàng phục
chưng lòng vọng tưởng? Chúng sinh phát bồ đề tâm, muốn cầu bát
nhã chủng trí, rằng làm sao cho an trụ chính lý? Phàm phu vọng niệm
phiền não vô biên, hợp nương pháp nào bèn điều phục
được?"
Phật bảo Tu Bồ Đề :"Thiện nam
tử, thiện nữ nhơn phát bồ đề tâm, muốn nên thành đẳng chính
giác, hợp ra lòng chơn thật thanh tịnh, ta mới diệt độ cho. Đương
khi làm vọng tưởng, thủ xả tham sân tật đố, móng những sự
chẳng lành, ắt thật là hết thảy chúng sanh, ta phải dùng vô tâm,
lấy nhẫn nhục mà điều phục vậy, khiến tà ác chớ vọng niệm.
Bèn diệt độ hết thảy chúng sinh rồi, lại dùng chính trị tịnh giác,
thấy bản nguyên xưa chưa từng sanh diệt. Bèn mới rằng chẳng có
một chúng sinh được diệt độ vậy"
Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, nhược bồ
tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả
tướng, tức phi bồ tát. Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Đề, thật vô hữu
pháp phát a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả .
Bậc bồ tát sơ ngộ, bởi còn chưa
khỏi vi tế tứ tướng, dầu bồ tát lòng còn chút thiểu ngộ, ắt
thật chưa rồi ngã tướng. Dầu bồ tát còn thấy có trí tuệ, hay
hàng phục được phiền não, ắt thật chưa rồi nhân tướng. Dầu
bồ tát thấy ý niệm phiền não, mà hàng phục, vậy ắt thật chưa
rồi chúng sinh tướng. Dầu bồ tát thấy có thanh tịnh tâm, mà khá
chứng được, ắt chưa rồi thọ giả tướng. Khi chúng sinh còn mê,
chưa khỏi vọng tâm phiền não triền phược, Phật phải phương tiện
lập pháp giải thoát, mà độ chúng sinh cho thấy bản tính. Dầu đã
thấy tính, bấy giờ nhân không pháp ắt cũng không. Bệnh khứ,
dược vọng, thật là vô pháp khả đắc .
Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Như lai ư
Nhiên Đăng Phật sở, hữu pháp đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ
đề phủ?
Như lai là Phật tự xưng. Nhiên
Đăng Phật là thầy Thích Ca thuở trước, Phật hỏi Tu Bồ Đề
rằng:"Ta từ thuở nơi Nhiên Đăng Phật, có chỗ được pháp,
chứng nên vô thượng chính đẳng chính giác chăng?"
"Phất giả Thế Tôn. Như ngã
giải Phật sở thuyết nghĩa, Phật ư Nhiên Đăng Phật sở, vô hữu
pháp đắc a nậu đa là tam miệu tam bồ đề".
Phật hỏi Tu Bồ Đề rằng:"Ta
chưng thuở Nhiên Đăng Phật, dầu chưa rồi tứ tướng, được thọ
ký chăng?" Tu Bồ Đề đã hiểu biết chưng lẽ vô tướng, bèn
rằng:"Chẳng phải vậy, dầu có pháp, ắt còn có tâm. Chưng khi
ấy đã liễu ngộ tâm không, pháp không. Nhiên Đăng Phật mới
chứng cho thành đẳng chánh giác"
Phật ngôn:"Như thị, như thị"
Phật nói hai lần "như thị"
là lời an ủi cho Tu Bồ Đề rằng hay hội được pháp thể không
tướng, cũng như ý Phật .
Tu Bồ Đề, thật vô hữu pháp Như
Lai đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề
Tu Bồ Đề đã liễu đạt chưng ý
thẳm sâu vậy. Phật bèn lấy lời Tu Bồ Đề làm đáng. Lại phải
tùy thuận mà nói thật rằng chẳng có pháp Như lai chỗ được,
mới gọi làm vô thượng chính đẳng chính giác .
Tu Bồ Đề, nhược hữu pháp Như lai
đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề giả, Nhiên Đăng Phật tức bất
dự ngã thọ ký :"Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu
Thích Ca Mâu Ni".
Đời Châu Chiêu Vương trị vì
được 24 năm, tuế thứ năm Giáp Dần, tháng tư ngày mùng tám, ban
khi giờ tý, Phật tùng hữu hiếp tự nhiên hoá sinh. dưới đôi
chân hoa sen bỗng túc, bèn đi bảy bước, miệng kêu ra tiếng sư tử,
tay bên hữu chỉ lên trời rằng :"Thiện thượng thiên hạ, một
ta cao hơn". Trong hư không, 9 rồng phun nước, tẩy rửa cho mình
thái tử, mới đặt hiệu Ngài là Tất Đạt Đa. Đến từ Châu Mục
Vương trị vì được 53 năm, tuế thứ năm Nhâm Thân, tháng 2 ngày
rằm, ở nơi Thiên La quốc đại thành, dưới cây Sa la song thọ, bèn
chứng niết bàn. Kể từ giáng sinh tới nhẫn tịch diệt, Thích Ca trụ
thế vừa được 79 năm .
Trước bày sự, sau lại hiển lý.
Phạn ngữ Thích Ca, Hoa ngôn gọi là Năng Nhơn. Phạn ngữ Mâu Ni, Hoa
ngôn gọi là Tịch Mặc. Năng nhơn là tâm tính hàm dung, hết thảy
chẳng có lưỡng biên tam tế. Tịch Mặc là tâm thể nguyên vắng,
chẳng tằng có động tịnh vì chúng sinh phải vào ngũ trược ác
thế, tâm tính chẳng nhiễm, làu làu thanh tịnh, mới gọi là Thích Ca
Mâu Ni Phật .
Dĩ thật vô hữu pháp, đắc a nậu
đa la tam miệu tam bồ đề. Thí cố, Nhiên Đăng Phật dự ngã thọ
ký, tác thị ngôn :"Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu
Thích Ca Mâu Ni". Hà dĩ cố, Như lai giả, tức chư pháp như nghĩa .
Như là chân tính, khắp hết hư không
thế giới vốn hằng tự như, tùy cơ phó cảm, bèn hiện, vì vậy
gọi là Như lai. Như lai là danh chân tích vậy. Dầu luận có tường,
ắt gọi làm vô thượng chính đẳng chính giác. Lược ngôn gọi là
Như lai, lại gọi làm Phật, lại gọi làm chân như. Chân như là chân
thật tính. Hết thảy chư pháp bản lai thanh tịnh, cũng như như vậy, ắt
gọi rằng chư pháp chư nghĩa .
Nhược hữu nhân ngôn Như lai đắc a
nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Tu Bồ Đề, thật vô hữu pháp, Phật
đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật bảo Tu Bồ Đề :"Dầu có
người rằng ta được vô thượng chính đẳng chính giác, thật chưng
người ấy, ắt là vọng ngữ. Bản lai chân tính vốn mình hằng có,
há phải bởi đâu mà được. Khi còn mê vọng, phải lập pháp,
khử trừ ngoại vọng, cho mình chân tính. Rồi vọng, há còn chấp
pháp. Dầu rằng Như lai có chỗ được, ắt chẳng minh tâm ấn. Thật
chẳng có pháp, mới chứng nên vô thượng chính đẳng chính giác .
Tu Bồ Đề, Như lai sở đắc a nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, ư thị chung vô thật vô hư.
Như lai chỗ được chư pháp chính
giác là rằng Phật chỗ được chưng pháp, bèn minh chân tính vậy.
Pháp ấy chẳng phải trong chân tính chỗ có, bởi nhờ chưng pháp,
mới biết chân tính.Trong thanh tịnh tâm, chẳng có sắc tướng pháp
trần, vì vậy rằng chẳng phải thật. Trong thanh tịnh tâm chẳng phải
không tính nguyên diệu thể, vì vậy rằng chẳng phải hư.
Thị cố Như lai thuyết nhất thiết
pháp giai thị Phật pháp .
Phật rằng hết thảy chư pháp đều
cũng dùng sự tu hành cho được thành chính đẳng chính giác. Thiên
gia dầu bỏ ắt lỗi ý kinh, khác nào chưa đến ngạn, mà đã bỏ
thuyền. Há mình chẳng chìm trong nơi khổ hải. Hết thảy chúng sinh từ
vô lượng kiếp đến nay, chẳng còn pháp tính tam muội. Dầu khi mặc
áo, ăn cơm, đàm thuyết đối đãi lục căn, thường hành nhâm vận
thi vi, thật những là pháp tính diệu dụng. Chẳng biết phản bản
hoàn nguyên, vậy bèn tùy danh chấp tướng tình mê vọng khởi, tạo
chủng chủng nghiệp. Dầu hay biết được nhất niệm hồi quang, liễu
phàm tâm, chứng được thánh tâm, chuyển thế pháp đều nên Phật
pháp.
Tu Bồ Đề, sở ngôn nhất thiết
pháp giả, tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh nhất thiết pháp.
Dầu thị, dầu phi, dầu hư, dầu thật,
bởi chưng thường kiến đoạn kiến. Đoạn thường đều cùng chẳng
nhiễm, ắt bèn chẳng có nhất thiết pháp. Chư pháp nguyên tùng bản
lai, hằng tịch diệt tướng. Khi dùng ắt hay, mà hằng vắng. Khi chẳng
dùng, ắt vắng mà hằng hay. Lẽ hợp diệu giác, không nhân, không
pháp. Thật vì vậy gọi làm nhất thiết pháp .
"Tu Bồ Đề, thí như nhân thân
trường đại". Tu Bồ Đề ngôn :"Thế Tôn, Như lai thuyết nhân
thân trường đại, tức vi phi đại thân, thị danh đại thân"
Tu Bồ Đề hằng nghe Phật nói, đã
hiểu chỗ lý, bạch Thế Tôn rằng:"Phật nói nhân thân trường
đại, ắt chẳng phải chân thật đại thân, bèn giả danh gọi làm
đại thân vậy. Lại rằng sắc thân có tướng, bèn chưa phải đại
thân. Pháp thân vô tướng, rộng lớn vô biên, mới gọi làm đại
thân .
"Tu Bồ Đề, bồ tát diệc như
thị. Nhược tác thị ngôn:"Ngã tướng diệt độ vô lượng
chúng sinh" tức bất danh bồ tát "
Phạn ngữ bồ tát, Hoa ngôn gọi là
giác chúng sinh, ngoại độ quần mê, trong giác hữu tình. Bồ tát
khác nào đại thân, giả danh mà chưa trong chân tính, thật thấy bản
nguyên chẳng có chúng sinh, vì bởi nghiệp duyên hiện báo. Bồ tát
độ chúng sinh, khác nào dĩ huyễn diệt huyễn. Dầu bồ tát nói làm
thật rằng có chúng sinh mà độ, ắt chẳng phải bồ tát. Dầu bậc
nhị thừa còn phiền não vọng tưởng chẳng hay trừ diệt, ắt đồng
phàm phu. Dầu bậc đại thừa rồi sắc chấp không, chưa liễu sắc
tính, ắt chẳng phải bồ tát .
Hà dĩ cố? Tu Bồ Đề, thật vô hữu
pháp, danh vi bồ tát .
Thật hết thảy pháp, bản lai không
tịch, chẳng thấy có sinh tử, chẳng thấy có niết bàn, chẳng có
thiện ác, chẳng có phàm thánh, chẳng có hết thảy chư pháp, mới
phải chính kiến. Chưng khi chính kiến, hay chẳng khá thấy thật chẳng
có pháp, mới gọi làm bồ tát .
Thị cố, Phật thuyết nhất thiết pháp
vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả .
Pháp chẳng có ngã tướng, ắt rồi
ngũ uẩn vậy. Pháp chẳng có nhân tướng, bèn rồi lục đạo vậy.
Pháp chẳng có chúng sinh tướng, bèn rồi nghiệp cấu vậy. Pháp
chẳng có thọ giả tướng, bèn rồi sinh tử vậy. Chẳng có tứ
tướng, ắt chẳng có chúng sinh. Chẳng có chúng sinh, ắt chẳng lập
chính giác mà độ chúng sinh. Vì vậy rằng pháp chẳng có tứ
tướng .
Tu Bồ Đề, nhược bồ tát tác thị
ngôn:"Ngã đương trang nghiêm Phật độ, thị bất danh bồ tát."
Phật độ là tâm độ vậy. Tâm độ
dầu lấy báo định tuệ làm trang nghiêm xuất thế gian pháp, ấy là
bồ tát, sức bồ tát chẳng kể công nào. Ai thấy chỗ dấu, dầu
lấy báu kim ngọc làm trang nghiêm thế gian pháp, ấy là phàm phu.
Lòng phàm phu muốn kể công, hằng toan cho người hay. Vì vậy bồ tát
còn xưng mình làm trang nghiêm Phật độ, ắt chẳng phải bồ tát .
Hà dĩ cố? Như lai thuyết trang nghiêm
Phật độ giả, tức phi trang nghiêm thị danh trang nghiêm .
Phật độ là bản lai tâm thanh tịnh
vô tướng. Thế gian lấy lục trần tâm làm trang nghiêm. Phật thời
lòng thanh tịnh, chẳng nhiễm muôn duyên, lấy làm trang nghiêm. Tuy rằng
trang nghiêm, ắt chẳng có chấp tướng trang nghiêm, thật mới gọi
là trang nghiêm .
Tu Bồ Đề, nhược bồ tát thông
đạt vô ngã pháp giả, Như lai thuyết danh chân thị bồ tát .
Lời ấy là Phật bảo Tu Bồ Đề cho
biết nhân chẳng có ngã tướng, pháp chẳng có ngã tướng. Nhân
chẳng ngã tướng là tứ đại nguyên chẳng có thể, nhân bởi
nghiệp sinh. Dầu lập nhân phú quý, nghiệp quả phú quý. Dầu lập
nhân bần tiện nghiệp quả bần tiện. Huyễn thân nguyên chẳng có
thể. Pháp chẳng có ngã tướng là chư pháp nguyên chẳng có thật
thể, nhân bởi dụng sự bèn lập. Dầu muốn xuống thủy, phải dùng
thuyền bè sào chèo. Dầu muốn lên bộ, phải dùng xe ngực võng dù.
Hết thảy muốn pháp nhân chưng bởi sự bèn lập, ắt thật giả danh.
Nếu giả danh ắt là hư vọng. Dầu biết được nhân pháp đều
không, mới phải chân thật bồ tát .
NHẤT THỂ ĐỔNG QUAN PHÂN ĐỆ THẬP
BÁT
"Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Như lai
hữu nhục nhã phủ?" "Như thị Thế tôn, Như lai hữu nhục
nhãn"." Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Như lai hữu thiên nhãn
phủ?""Như thị Thế tôn, Như lai hữu thiên nhãn"." Tu
Bồ Đề, ư ý vân hà? Như lai hữu tuệ nhãn phủ?""Như thọ
Thế Tôn, Như lai hữu tuệ nhãn"." Tu Bồ Đề, ư ý vân hà?
Như lai hữu pháp nhãn phủ?"Như thị Thế tôn, Như lai hữu pháp
nhãn"" Tu Bồ Đề, ư ý vân hà? Như lai hữu Phật nhãn
phủ?""Như thị Thế tôn, Như lai hữu Phật nhãn".
Nhục nhãn là xem thấy noãn thai thấp
hoá sắc thân khởi diệt chư nhân duyên vậy. Thiên nhãn là xem
thấy chư thiên cung điện vân vũ minh ám, ngũ tinh tam diệu triền
chuyển chư nhân duyên vậy. Tuệ nhãn là xem thấy chúng sinh tuệ tính
thâm thiển, thượng phẩm hạ sinh đầu thai luân chuyển chư nhân
duyên vậy. Pháp nhãn là xem thấy pháp thân khẳm hết tam giới, vô
hình vô tướng, khắp hết hư không pháp giới chư nhân duyên vậy.
Phật nhãn là xem thấy Phật thân thế giới vô lượng, phóng quang
phổ chiếu, phá hết u ám, chẳng còn chướng ngại, viên mãn sáng
khắp 10 phương, hằng thấy chân thể hay có niết bàn chư quốc độ
vậy .
Lại
rằng
nhục
nhãn
là
thấy
hết
thảy
sắc
tướng,
gọi
là
nhục
nhãn.
Thiên
nhãn
là
thấy
hết
thảy
lòng
chúng
sinh,
gọi
là
thiên
nhãn.
Tuệ
nhãn
là
thấy
hết
thảy
chúng
sinh
chư
căn
cảnh
giới,
gọi
là
tuệ
nhãn.
Pháp
nhãn
là
thấy
hết
thảy
pháp
chân
như
thật
tướng
chẳng
có
tướng,
gọi
là
pháp
nhãn.
Phật
nhãn
là
xem
thấy
chư
Như
lai
khẳm
hết
thập
lực,
gọi
là
phật
nhãn
vậy.
Hết
thảy
chúng
sinh
đều
khẳm
ngũ
nhãn,
bởi
vì
lòng
mê
nghiệp
chướng,
cho
nên
chẳng
thấy.
Dầu
rồi
mê
tâm
vọng
niệm,
ắt
được
ngũ
nhãn
quang
minh.
Phật
hỏi
ngũ
nhãn,
Tu
Bồ
Đề
đã
hiểu
minh
lý,
đều
cùng
đáp
lại,
thật
bằng
như
vậy
.
"Tu
Bồ
Đề,
ư
ý
vân
hà?
Như
Hằng
hà
trung
sở
hữu
thị
sa,
Phật
thuyết
thị
sa
phủ?"
"Như
thị
Thế
tôn
Như
lai
thuyết
thị
sa"
"Tu
Bồ
Đề,
ư
ý
vân
hà?
Như
nhất
Hằng
hà
trung
sở
hữu
sa,
hữu
như
thị
sa
đẳng
Hằng
hà,
thị
chư
Hằng
hà,
sở
hữu
sa
số,
Phật
thế
giới,
thị
ninh
vi
đa
phủ?"
"Thậm
đa,
Thế
tôn".
Ở
bên
Tây
vức,
viện
Kỳ
hoàn
tinh
xá
có
sông
gần
một
bên.
Phật
hằng
chỉ
cát
trong
sông
ấy
mà
tỉ
dụ.
Một
hột
cát
là
một
sông
Hằng
hà,
hết
thảy
cát
trong
chư
Hằng
hà,
Phật
bảo
Tu
Bồ
Đề
một
hột
cát
là
một
đại
thế
giới,
gọi
là
quốc
độ
Phật.
Hễ
một
đại
thế
giới
hằng
có
một
Phật
thuyết
pháp
độ
chúng
sinh.
Chư
Phật
thế
giới
kể
bằng
cát
trong
sông
chư
Hằng
hà
dường
ấy,
há
lấy
làm
nhiều
chăng?
Tu
Bồ
Đề
bạch
Phật
rằng
:"Cực
nhiều".
Phật
cáo
Tu
Bồ
Đề:"Dĩ
sở
quốc
độ
trung,
sở
hữu
chúng
sinh,
nhược
can
chủng
tâm,
Như
Lai
tất
tri"
Hết
thảy
chúng
sinh
cùng
ở
trong
quốc
độ,
một
quốc
độ
là
một
thế
giới.
Một
thế
giới
hằng
có
một
Phật
thuyết
pháp,
độ
hết
thảy
chúng
sinh
vậy.
Chúng
sinh
là
vọng
tưởng
tâm.
Phật
là
viên
giác
tính.
Vọng
tưởng
tâm
nương
ở
nơi
viên
giác
tính
mà
hiện.
Lòng
chúng
sinh,
tuy
kể
nhiều
chủng
chủng
sai
biệt,
cũng
chẳng
khỏi
vọng
tâm.
Vì
vậy
chúng
sinh
khởi
tâm
niệm,
Như
lai
đều
thấy,
đều
hay.
Lời
tuy
bày
nhiều,
kể
có
hai
giống.
Mộ
là
thế
gian,
lòng
phàm
phu.
Hai
là
xuất
thế
gian
lòng
thánh
nhân,
Như
lai
đều
thấy
đều
hay,
vì
vậy
gọi
là
chính
biến
tri
.
Hà
dĩ
cố?
Như
lai
thuyết
chư
tâm
giai
vi
phi
tâm,
thị
danh
vi
tâm
.
Chỗ
trong
quốc
độ,
dầu
có
chúng
sinh
tuy
nhiều
chủng
chủng
sai
biệt,
chẳng
khỏi
vọng
tâm.
Biết
được
vọng
tâm
chẳng
có
thật,
mới
gọi
là
chân
tâm
phi
tâm,
vốn
chẳng
có
vọng
niệm,
ắt
chẳng
khởi
vọng
tâm,
bèn
thật
tự
tính
chân
tâm,
ắt
gọi
là
bồ
tát
tâm.
Lại
gọi
là
niết
bàn
tâm.
Ấy
là
đại
đạo
tâm,
lại
gọi
làm
Phật
tâm
vậy
.
Sở
dĩ
giả
hà?
Tu
Bồ
Đề,
quá
khứ
tâm
bất
khả
đắc,
hiện
tại
tâm
bất
khả
đắc,
vị
lai
tâm
bất
khả
đắc
.
Thường
trụ
chân
tâm,
ắt
thật
chân
tính
vậy.
Nếu
từ
vô
lượng
vô
số
kiếp
nhẫn
nay
hằng
chính
định,
bèn
chưa
từng
loạn
động,
há
có
quá
khứ,
vị
lai,
hiện
tại,
dầu
quá
khứ,
vị
lai,
hiện
tại
là
vọng
tưởng
vậy.
Những
sự
toan
lo
ngày
trước
là
quá
khứ
tâm,
lòng
ấy
đã
rồi.
Những
sự
toan
lo
ngày
sau
là
vị
lai
tâm,
lòng
ấy
chưa
dấy.
Những
sự
lo
toan
bây
giờ
là
hiện
tại
tâm,
lòng
ấy
chẳng
thật.
Nhị
thế
suy
cầu,
tìm
kỹ
lòng
ấy,
hay
chẳng
khá
được.
Dầu
hiểu
biết
vô
pháp
vô
tướng,
vô
sự
là
bình
thường
tâm,
bình
thường
tâm
ắt
là
pháp
thể
không
tịch,
chẳng
từng
sinh,
chẳng
từng
diệt,
làu
làu
thanh
tịnh.
Há
có
tiền
niệm,
kim
niệm,
hậu
niệm,
bèn
khá
được
vậy
.
PHÁP
GIỚI
THÔNG
HOÁ
PHẦN
ĐỆ
THẬP
CỬU
"Tu
Bồ
Đề,
ư
ý
vân
hà?
Nhược
hữu
nhân
mãn
tam
thiên
đại
thiên
thế
giới
thất
bảo,
dụng
dĩ
bố
thí,
thị
nhân
dĩ
thị
nhân
duyên,
đắc
phước
đa
phủ?"
"Như
thị
Thế
tôn,
thử
nhân
dĩ
thị
nhân
duyên,
đắc
phước
thậm
đa"
"Tu
Bồ
Đề,
nhược
phước
đức
hữu
thật,
Như
lai
bất
thuyết
đắc
phước
đức
đa,
dĩ
phước
đức
vô,
cố
Như
lai
bất
thuyết
đắc
phước
đức
đa"
Dầu
lòng
còn
chấp
trước,
có
chỗ
mong
cầu,
bèn
lấy
thất
bảo
đầy
ba
ngàn
đại
thiên
thế
giới,
mà
bố
thí,
phước
báo
nhân
thiên
tiểu
quả,
còn
trong
hữu
lậu,
chưa
khỏi
luân
hồi,
hãy
còn
có
ngại,
chẳng
phải
vô
vi
thanh
tịnh
công
đức.
Vì
vậy,
Như
lai
chưa
gọi
làm
phước
đức
nhiều.
Dầu
bồ
tát
dùng
thất
giác
bồ
đề
trong
xá
na
thân
mà
trì
trai
lễ
tán,
tùng
ư
tâm
đăng,
hoá
nên
công
đức
bất
sinh
bất
diệt,
bèn
bằng
Kim
cương
mật
tưởng
hương
hoa
vân,
bao
vô
biên
Phật
giới,
hoá
quang
minh
đài,
cúng
dường
10
phương
chư
Phật,
ắt
thật
vô
vi
công
đức.
Ấy
là
bồ
tát
kiến
tính
bố
thí,
dầu
chẳng
được
làm
vậy,
thời
nương
pháp
vô
trụ
vô
vi,
mà
bố
thí.
Lòng
chớ
mong
cầu,
dường
bằng
hư
không,
phước
báo
vô
tận
vậy.
Như
lai
mới
gọi
được
phước
đức
nhiều
.
LY
SẮC
LY
TƯỚNG
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
"Tu
Bồ
Đề,
ư
ý
vân
hà?
Phật
khả
dĩ
cụ
túc
sắc
thân
kiến
phủ?
"Phất
giả,
Thế
Tôn,
Như
lai
bất
khả
dĩ
cụ
túc
sắc
thân
kiến"
Nhân
tu
32
hạnh
tốt,
bèn
quả
được
32
tướng
tốt
cụ
túc
sắc
thân.
Dầu
muốn
thấy
pháp
thân
Như
lai
cho
biết
tự
bản
tâm
thấy
bản
tính
bèn
khẳm
hết
diệu
thể
ứng
hoá
vô
lượng.
Há
thấy
cụ
túc
sắc
thân
32
tướng
vậy
.
"Hà
dĩ
cố?
Như
lai
thuyết
cụ
túc
sắc
thân,
tức
phi
cụ
túc
sắc
thân,
thị
danh
cụ
túc
sắc
thân"
Thanh
tịnh
diệu
sắc
thân,
thần
lực
hiển
hiện,
hết
thảy
sắc
thân
tam
muội,
bèn
thật
pháp
thân.
Như
lai,
khá
lấy
cụ
túc
sắc
thân,
mà
được
hay
thấy
pháp
thân
Như
lai
vậy.
Pháp
thân
Như
lai
chẳng
có
32
tướng
sắc
thân,
vì
vậy
mới
gọi
là
cụ
túc
sắc
thân
.
"Tu
Bồ
Đề,
ư
ý
vân
hà?
Như
lai
khả
dĩ
cụ
túc
chư
tướng
kiến
phủ?"
Phất
giả,
Thế
tôn,
Như
lai
bất
ưng
dĩ
cụ
túc
chư
tướng
kiến.
Hà
dĩ
cố?
Như
lai
thuyết
chư
tướng
cụ
túc,
tức
phi
cụ
túc,
thị
danh
chư
tướng
cụ
túc".
Tướng
là
xứ
sở
hình
tượng
chư
sắc
tướng
hiện,
ắt
gọi
là
tướng.
Chư
tướng
là
hết
thảy
chủng
chủng
tướng
thần
thông
biến
hiện,
chẳng
những
32
tướng
vậy.
Như
lai
rồi
sắc,
rồi
không.
Nhân
tu
tịnh
hạnh,
bèn
khẳm
32
tướng
tốt.
Nhân
tu
trí
tuệ,
bèn
khẳm
84
ngàn
thần
thông
diệu
dụng.
Phàm
phu
chấp
sắc
tướng,
ngoại
đạo
chấp
không
tướng.
Nhị
thừa
chấp
pháp
tướng,
Phật
là
tính
giác
chân
không,
làu
làu
thanh
tịnh,
chẳng
có
năng
sở,
danh
tướng,
tùy
duyên
ứng
hoá,
cụ
túc
chư
pháp.
Vì
vậy,
Phật
rằng
chẳng
có
chư
tướng
cụ
túc,
mới
gọi
làm
chư
tướng
cụ
túc
.
PHI
THUYẾT
SỞ
THUYẾT
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
NHẤT
"Tu
Bồ
Đề,
nhữ
vật
vị
Như
Lai
tác
thị
niệm:
Ngã
đương
hữu
sở
thuyết
phá.
Mạc
tác
thị
niệm.
Hà
dĩ
cố?
Nhược
nhân
ngôn
Như
lai
hữu
sở
thuyết
pháp,
tức
vi
báng
Phật,
bất
năng
giải
ngã
sở
thuyết
cố."
Lòng
đã
làu
làu
thanh
tịnh,
dầu
nói
dầu
lặng
chẳng
khác,
khi
gặp
duyên
ắt
ứng,
khi
khỏi
duyên
ắt
vắng.
Chẳng
có
pháp,
bèn
chẳng
đàm
không.
Chẳng
có
nhân,
bèn
chẳng
thuyết
pháp.
Rằng
Như
lai
chẳng
có
thuyết
pháp
là
chẳng
có
sinh
diệt
tâm.
Dầu
có
sinh
diệt
tâm,
mà
thuyết
pháp,
ắt
thật
giáo
hóa
quần
sinh
khôn
hay
được
thấy
tự
tính.
Làm
vậy
gọi
là
báng
Phật.
Dầu
chẳng
có
sinh
diệt
tâm,
hợp
khá
thuyết
pháp
vậy.
"Tu
Bồ
Đề,
thuyết
pháp
giả
vô
pháp
khả
thuyết,
thị
danh
thuyết
pháp."
Phật
gọi
là
Tu
Bồ
Đề
rằng
thuyết
pháp
vậy,
thật
chẳng
có
pháp
mà
thuyết
là
bản
lai
nguyên
chẳng
có
pháp,
bởi
vì
chúng
sinh
mê
khử
trừ
ngoại
vọng,
phải
nói
vậy.
Chúng
sinh
đã
liễu
ngộ
được,
ắt
bèn
không
pháp.
Dầu
ai
rằng
Phật
có
pháp
mà
thuyết,
ắt
là
báng
Phật.
Lại
chẳng
ngồi
lặng
vậy
mà
chẳng
nói.
Bèn
chẳng
có
chấp
trước
chủng
chủng
pháp,
lòng
chẳng
trụ
sở.
Dầu
nói
mãn
thiên
hạ,
ắt
chẳng
lỗi
chưng
lẽ
pháp.
Vì
vậy,
rằng
chẳng
có
pháp
mà
thuyết,
mới
gọi
là
thuyết
pháp.
Dĩ
thời
tuệ
mạng
Tu
Bồ
Đề
Dĩ
thời
là
chưng
khi
dấy
hỏi.
Tụê
mạng
là
Tu
Bồ
Đề
đã
thông
đạt
Phật
trí
hải,
thâm
nhập
pháp
môn,
liễu
ngộ
bản
nguyên,
giác
vô
sinh
mạng,
chẳng
từng
khứ
lai
vậy.
Tuệ
là
luận
đức
mà
nói.
Mạng
là
luận
trường
thọ
mà
nói.
Tuệ
mạng
là
cụ
túc
trí
tuệ,
trưởng
lão
dị
danh,
cũng
đồng
Nho
gia
rằng
thiên
mạng
chi
vi
tính.
Vì
vậy,
gọi
là
tuệ
mạng
Tu
Bồ
Đề.
Bạch
Phật
ngôn
thêm:
"Thế
tôn,
phả
hữu
chúng
sinh,
ư
vị
lai
thế,
văn
thuyết
thị
pháp,
sinh
tín
tâm
phủ?"
Phật
ngôn:
"Tu
Bồ
Đề,
bỉ
phi
chúng
sinh,
phi
bất
chúng
sinh.
Hà
dĩ
cố?
Tu
Bồ
Đề
chúng
sinh
chúng
sinh
giả,
Như
lai
thuyết
phi
chúng
sinh,
thị
danh
chúng
sinh."
Phật
rằng
chẳng
có
chúng
sinh
là
bản
nguyện,
người
đều
khẳm,
ai
ai
đều
nên,
cùng
một
chân
tính,
đồng
Phật
chẳng
khác.
Vì
vậy,
rằng
chẳng
có
chúng
sinh.
Lại
rằng
chẳng
không
chúng
sinh,
vì
bởi
mê
chân,
theo
đòi
vọng,
bỏ
rẫy
tự
kỷ
linh
quang.
Vì
vậy,
rằng
chẳng
phải
không
chúng
sinh.
Tu
Bồ
Đề
hỏi
Phật:
"Chúng
sinh
chưng
vị
lai
đời
sau
nghe
nói
pháp
này
là
lòng
tin
chăng?"
Phật
đáp
lại
rằng:
"Ấy
chẳng
có
chúng
sinh,
chẳng
phải
không
chúng
sinh,
thời
chấp
hữu.
Rằng
chẳng
có
chúng
sinh
thời
chấp
vô.
Dầu
tin
kính
Phật
pháp,
ắt
chấp
rằng
thấy
chẳng
có
chúng
sinh
vậy.
Dầu
còn
thấy
hữu
thấy
vô,
chưa
liễu
trung
đạo,
tua
phải
dạy
khiến
thánh
phàm
chớ
chấp
lưỡng
biên
mới
phải
chính
trị
chính
kiến.
Vì
vậy,
Phật
rằng
chẳng
có
chúng
sinh,
mới
gọi
là
chúng
sinh.
VÔ
PHÁP
KHẢ
ĐẮC
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
NHỊ
Tu
Bồ
Đề
bạch
Phật
ngôn:
"Thế
tôn,
Phật
đắc
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề
vi
vô
sở
đắc
da?"
Phật
ngôn:
"Như
thị,
như
thị,
Tu
Bồ
Đề.
Ngã
ư
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề,
nải
chí
vô
hữu
thiểu
pháp
khả
đắc,
thị
danh
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề.
Phật
rằng
hai
lần
như
thị
là
Phật
chứng
cho
hợp
đương
chỗ
lời
như
bằng
ý
Phật,
chưng
trong
diệu
tính
vốn
không,
chẳng
có
một
pháp
khá
được.
Đã
chẳng
có
một
pháp
khá
được,
há
có
vô
thượng
bồ
đề
mà
chứng
vậy.
Dầu
có
pháp
mà
khá
được,
thật
là
pháp
buộc.
Chẳng
có
pháp
khá
được,
mới
gọi
là
giải
thoát.
Dầu
biết
như
vậy,
niệm
đòi
niệm,
Thích
ca
xuất
thế;
bậc
đòi
bậc,
Di
Lặc
hạ
sinh.
Lòng
phân
biệt
cũng
như
văn
Thù
Đại
trí.
Tính
vận
dụng
khác
nào
Phổ
Hiền
diệu
hạnh.
Chư
môn
đều
là
cam
lộ
huyền
môn.
Các
vị
cũng
về
đề
hồ
thượng
vị.
Gì
gì
chưa
khỏi
chiên
đàn
lâm.
Chốn
chốn
hằng
trụ
hoa
tạng
cảnh.
Dầu
nhẫn
như
vậy,
đi
đứng
ngồi
nằm,
gặp
duyên
đối
tướng.
Tính
ứng
dụng
lồng
lộng
vô
phương.
Lòng
không
tịch
làu
làu
thanh
tịnh.
Vì
vậy
Phật
rằng
chẳng
có
một
chút
pháp
chi
khá
được,
mới
gọi
là
thành
đẳng
chính
giác.
TỊNH
TÂM
HÀNH
THIỆN
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
TAM
Phục
thứ
Tu
Bồ
Đề,
thị
pháp
bình
đẳng,
vô
hữu
cao
hạ,
thị
danh
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề.
Trên
từ
chư
Phật,
dưới
đến
nhẫn
xuẩn
động
hàm
linh,
cũng
đồng
chơn
tính
chẳng
khác.
Vì
vậy,
gọi
rằng
bình
đẳng.
Sắc
thân
có
cao
hạ,
chân
tính
chẳng
có
cao
hạ.
Nhân
chẳng
có
quí
tiện.
Pháp
chẳng
có
hảo
xú.
Ở
nơi
lục
đạo
chẳng
từng
bớt.
Ở
nơi
chư
Phật
chẳng
từng
thêm.
Phàm
phu
chẳng
thấy
tự
tính,
vọng
thức
phân
biệt,
bèn
sinh
cao
hạ.
Bồ
tát
liễu
đạt
nhân
pháp
đều
không,
hết
thảy
bình
đẳng,
chẳng
có
cao
hạ,
mới
gọi
là
a
nậu
bồ
đề.
Dĩ
vô
ngã,
vô
nhân,
vô
chúng
sinh,
vô
thọ
giả.
Nguyên
trong
chân
tính
chẳng
có
tứ
tướng,
bèn
bởi
vọng
duyên
nghiệp
hiện.
Chân
tính
bình
đẳng,
há
có
nhân,
ngã,
chúng
sinh,
thọ
giả?
Vậy
mới
gọi
vô
thượng
chính
đẳng
chính
giác.
Tu
nhất
thiết
thiện
pháp,
từc
đắc
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề.
Tu
hết
thảy
thiện
pháp,
mà
còn
chấp
trước
chưa
khỏi
chủng
chủng
tướng.
Dầu
tu
hành
chủng
chủng
thiện
pháp,
chưng
sau
khôn
được
giải
thoát.
Dầu
chẳng
chấp
trước
hết
thảy
chư
pháp
tướng,
mà
làm
chư
thiện
pháp,
ắt
được
a
nậu
bồ
đề.
Dầu
có
người
tu
hết
thảy
chư
sự
chẳng
nhiễm
chẳng
chấp,
hết
thảy
chư
cảnh
chẳng
động
chẳng
chuyển,
hết
thảy
chư
pháp
chẳng
thủ
chẳng
xả,
trong
mười
hai
giờ
hằng
làm
phương
tiện,
tùy
thuận
chúng
sinh,
đều
khiến
hoan
hỷ,
hằng
vì
thuyết
pháp,
mở
bảo
cho
biết
chân
tính.
Vậy
mới
phải
tu
chư
thiện
pháp,
được
nên
a
nậu
bồ
đề.
Tu
Bồ
Đề,
sở
ngôn
thiện
pháp
giả,
Như
lai
thuyết
tức
phi
thiện
pháp,
thị
danh
thiện
pháp.
Phật
lại
bảo
Tu
Bồ
Đề
rằng
bản
lai
nguyên
chẳng
có
thiện
pháp
vậy.
Nhân
bởi
chúng
sinh
bất
giác,
tùy
nghiệp
lưu
chuyển,
tạo
tác
chư
ác,
vạn
kiếp
luân
hồi.
Vì
vậy,
Phật
phải
phương
tiện,
giả
chư
thiện
pháp,
mở
bảo
cho
minh
bản
tính.
Lại
rằng
có
mười
sáu
sự
đối.
Thiện
đối
cùng
ác.
Hữu
đối
cùng
vô.
Sinh
đối
cùng
tử.
Khứ
đối
cùng
lai.
Động
đối
cùng
tịnh.
Ngữ
đối
cùng
mặc.
Thẳng
đối
cùng
phụ.
Cao
đối
cùng
hạ.
Dầu
chẳng
còn
thấy
lưỡng
đầu
đối
đãi,
ắt
nên
a
nậu
bồ
đề.Vì
vậy
rằng
chẳng
có
thiện
pháp
mới
gọi
là
thiện
pháp.
PHƯỚC
TRÍ
VÔ
TỶ
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
TỨ
Tu
Bồ
Đề
nhược
tam
thiên
đại
thiên
thế
giới
trung,
sở
hữu
chư
Tu
Di
sơn
vương,
như
thị
đẳng
thất
bảo
tụ,
hữu
nhân
trì
dụng
bố
thí.
Trong
đại
thiên
thế
giới,
chỗ
có
chư
Tu
Di
sơn
vương.
Một
tứ
thiên
hạ
là
một
Tu
Di.
Trên
cao
đến
Đao
Lợi
thiên,
dưới
tới
chưng
non
Côn
Lôn.
Dầu
có
người
lấy
thất
bảo
cao
bằng
non
Tu
Di,
mà
bố
thí,
được
phước
tuy
nhiều
vô
số,
chẳng
bằng
thọ
trì
tứ
cú
kệ,
vì
người
diễn
thuyết,
hơn
trì
dụng
thất
bảo
bố
thí.
Nhược
nhân
dĩ
thử
Bát
nhã
ba
la
mật
kinh,
nải
chí
tứ
cú
kệ
đẳng,
thọ
trì
độc
tụng,
vị
tha
nhân
thuyết,
ư
tiền
phước
đức,
bách
phần
bất
cập
nhất,
bách
thiên
vạn
ức
phần,
nải
chí
toán
số
tỷ
dụ,
sở
bất
năng
cập.
Phật
bèn
dùng
tính
nội
phước
đức
làm
trên
hết,
dùng
thất
bảo
thân
trung
làm
họa
cố.
Dầu
liễu
đạt
chân
tính
viên
dung,
chẳng
bỏ
hữu
vi
mà
chứng
vô
vi
pháp,
chẳng
trừ
vọng
tướng
mà
nên
chân
thường
đạo.
Dầu
lấy
thất
bảo
đầy
ba
ngàn
đại
thiên
thế
giới,
mà
bố
thí,
được
phước
tuy
nhiều
vô
lượng,
sao
bằng
người
thọ
trì
kinh
bội
hơn
công
đức
ấy
trăm
phần
chẳng
kịp
một.
Hà
huống
lại
hay
liễu
đạt
tứ
cú
kệ,
vì
người
diễn
thuyết,
chẳng
những
tự
lợi,
lại
thêm
lợi
tha.
Bèn
được
vô
trụ
tướng
tịnh
diệu
công
đức,
thắng
hơn
trăm
nghìn
muôn
ức
phần.
Bèn
nhẫn
toan
kể
tỷ
dụ,
chỗ
chẳng
hay
kịp.
HÓA
VÔ
SỞ
HÓA
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
NGŨ
Tu
Bồ
Đề,
ư
ý
vân
hà
?
Nhữ
đẳng
vật
vị
Như
Lai
tác
thị
niệm
:
Ngã
đương
độ
chúng
sinh.
Tu
Bồ
Đề,
mạc
tác
thị
niệm.
Hà
dĩ
cố
?
Thật
vô
hữu
chúng
sinh
Như
Lai
độ
giả.
Phật
tuy
lập
pháp,
rộng
độ
chúng
sinh,
mà
chẳng
móng
toan
làm.
Thật
độ
là
chẳng
có
tướng
độ
năng
sở,
như
như
bình
đẳng
chân
pháp
giới.
Phật
chẳng
thấy
có
chúng
sinh,
mà
khó
độ.
Hết
thảy
chúng
sinh
khởi
vô
biên
phiền
não
vọng
tưởng,
bởi
thấy
có
thiện
ác
phàm
thánh,
sinh
ra
lòng
thủ
xả
phân
biệt.
Tình
mê
ý
láu,
chẳng
biết
chưng
tính
bồ
đề.
Phật
bèn
xuất
thế
dạy,
khiến
chúng
sinh
giác
ngộ,
tẩy
tịnh
tam
độc,
đoạn
trừ
nhân
ngã,
liễu
đạt
chư
pháp
đều
không,
chẳng
có
vọng
tưởng
phân
biệt.
Lòng
hằng
không
tịch,
làu
làu
thanh
tịnh,
chưng
chẳng
còn
chút
tơ
hào
tệ
ngại,
ắt
thật
kiến
tính.
Bèn
chẳng
có
chúng
sinh
Như
Lai
khá
độ
vậy.
Nhược
hữu
chúng
sinh
Như
Lai
độ
giả,
Như
Lai
tức
hữu
ngã
nhân,
chúng
sinh,
thọ
giả.
Người
người
vốn
khẳm,
ai
ai
đều
nên.
Tự
tính
bản
lai
đồng
Phật
chẳng
khác.
hết
thảy
chúng
sinh
đều
bởi
vọng
duyên
nghiệp
hiện,
nguyên
sơ
vốn
chẳng
có
chưng
chúng
sinh.
Dầu
Như
Lai
rằng
thật
có
mà
độ,
ắt
bèn
chưa
khỏi
tứ
tướng.
Tu
Bồ
Đề
Như
Lai
thuyết
hữu
ngã
giả
tức
phi
hữu
ngã,
nhi
phàm
phu
chi
nhân,
dĩ
vi
hữu
ngã.
Như
lai
chẳng
có
tứ
tướng,
hà
huống
xưng
ngã.
Vì
bởi
phương
tiện
độ
sinh,
giả
danh
đối
đãi,
bèn
phải
xưng
ngã.
Tam
thế
chư
Phật
bèn
chẳng
chỗ
có.
Nguyên
một
tự
tâm,
dầu
người
đã
minh
nhân
quả,
chẳng
sai.
Bèn
hay
tâm
ngoài
vô
pháp.
Những
bậc
nhị
thừa
còn
chấp
ngã
tướng,
muốn
khỏi
sinh
tử
mà
cầu
Niết
Bàn,
muốn
xả
phiền
não
mà
cầu
diệt
độ,
thật
xả
nhất
biên,
chưa
liễu
trung
đạo,
lòng
còn
chấp
trước
bỉ
thử.
Nguyên
Phật
chẳng
có
ngã
tướng
mà
phàm
phu
lấy
làm
có
ngã
tướng.
Tu
Bồ
Đề,
phàm
phu
giả
Như
Lai
thuyết,
tức
phi
phàm
phu,
thị
danh
phàm
phu.
Phật
gọi
Tu
Bồ
Đề
rằng
phàm
phu
vậy
là
nguyên
chẳng
có
phàm
phu,
bèn
giả
danh
mà
giữ.
Dầu
lời
trước
chẳng
cử,
ắt
chẳng
minh
chỗ
lý,
khác
nào
toan
qua
sông,
mà
chẳng
dùng
thuyền.
Dầu
lời
sau
chẳng
tẩy,
ắt
là
chấp
lấy
pháp,
khác
nào
đến
bờ,
mà
cứ
trên
thuyền.
Nhất
niệm
dầu
thanh
tịnh,
ắt
chẳng
có
phàm,
chẳng
có
thánh.
Vì
vậy
rằng
tức
phi
phàm
phu.
Phàm
phu
vốn
không,
bởi
sai
nhất
niệm,
bèn
nên
vọng
chấp.
Dầu
khỏi
chấp
trước,
ắt
hết
danh
tướng,
đều
cùng
thanh
tịnh,
Khi
ấy
ứng
hiển
thù
cơ,
mặc
dầu
gọi
thánh
xưng
phàm
chẳng
ngại.
PHÁP
THÂN
PHI
TƯỚNG
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
LỤC
Tu
Bồ
Đề,
ư
ý
vân
hà
?
"Khả
dĩ
tam
thập
nhị
tướng
quán
Như
Lai
phủ
?"
Tu
Bồ
Đề
ngôn
:"Như
thị,
như
thị,
dĩ
tam
thập
nhị
tướng
quán
Như
Lai".
Như
Lai
là
chân
Phật
vậy.
Phần
thứ
năm
đã
nói.
Phần
này
lại
nói,
khiến
nối
lấy
nghe
theo
lời
trước.
Tu
Bồ
Đề
nghi
rằng
chúng
sinh
thật
có
khá
hóa
nên
thánh,
pháp
thân
ắt
chẳng
phải
không,
khá
lấy
diệu
tướng
bèn
thấy
Như
Lai
vậy.
Phật
ngôn
:"Tu
Bồ
Đề,
nhược
dĩ
tam
thập
nhị
tướng
quán
Như
Lai
giả,
chuyển
luân
thánh
vương,
tức
thị
Như
Lai".
Tu
Bồ
Đề
bạch
Phật
ngôn
:"Thế
Tôn,
như
ngã
giải
Phật
sở
thuyết
nghĩa,
bất
ưng
dĩ
tam
thập
nhị
tướng
quán
Như
Lai".
Phật
lại
gọi
Tu
Bồ
Đề
mà
nói
rằng,
dầu
lấy
ba
mươi
hai
tướng,
xem
thấy
Như
Lai,
chuyển
luân
thánh
vương
ắt
thật
Như
Lai.
Vả
chuyển
luân
thánh
vương
thật
là
vương
tứ
thiên
hạ.
Người
bèn
quảy
hay
tứ
thiên
hạ,
chính
ngũ
cửu
nguyệt
thời
xem
xét
Nam
thiện
bộ
châu;
nhị
lục
thập
nguyệt
thời
xem
xét
Tây
ngưu
hóa
châu
;
tam
thất
thập
nhất
nguyệt
thời
xem
xét
Bắc
câu
lô
châu;
tứ
bát
thập
nhị
nguyệt
thời
xem
xét
Đông
thắng
thần
châu.
Hằng
như
xe
vận
chuyển,
chiếu
khắp
thiên
hạ,
xem
xét
nhân
gian
thiện
ác.
Vì
vậy,
gọi
làm
chuyển
luân
thánh
vương.
Trước
nhân
tu
ba
mươi
hai
hạnh
tốt,
bèn
được
cụ
túc
tam
thập
nhị
tướng.
Dầu
lấy
ba
mươi
hai
tướng
xem
thấy
Như
Lai,
chuyển
luân
thánh
vương
ắt
thật
Như
Lai.
Chuyển
luân
thánh
vương
tuy
tu
hạnh
tốt,
lòng
còn
sinh
diệt.
Sinh
diệt
là
chuyển
luân
nghĩa.
Vương
là
tâm
vậy.
Lòng
còn
sinh
diệt,
chẳng
được
thanh
tịnh
bản
lai
chân
tâm.
Vì
vậy
rằng
chẳng
hợp
khá
lấy
tam
thập
nhị
tướng
xem
thấy
Như
Lai.
Dĩ
thời
Thế
tôn
Nhi
thuyết
kệ
ngôn
:
Nhược
dĩ
sắc
kiến
ngã
Dĩ
âm
thanh
cầu
ngã
Thị
nhân
hành
tà
đạo
Bất
năng
kiến
Như
Lai
Âm
thanh
sắc
tướng
vốn
tự
tâm
sinh.
Chưng
lòng
phân
biệt,
ắt
đọa
tà
đạo.
Dầu
hay
thấy
chẳng
có
chỗ
thấy,
nghe
chẳng
có
chỗ
nghe,
hay
chẳng
có
chỗ
hay,
chứng
chẳng
có
chỗ
chứng.
Hiểu
được
thật
thấy
diệu
lý,
bèn
hợp
thấy
Như
Lai.
Phật
bảo
Tu
Bồ
Đề
chẳng
khá
lấy
nhãn
căn,
mà
được
thấy
pháp
thân
ta.
Pháp
thân
chẳng
có
sắc
tướng,
nào
khá
được
thấy.
Chúng
sinh
diệu
tính
cũng
vậy
chẳng
khác.
Chẳng
khá
lấy
nhĩ
căn
mà
cầu
pháp
thân
ta.
Pháp
thân
chẳng
có
danh
thanh,
nào
khá
được
nghe.
Chúng
sinh
lấy
nhĩ
căn
nghe
thanh,
ắt
chẳng
phải
Phật
tính.
Vì
vậy,
Phật
rằng
dầu
lấy
sắc
thấy
pháp
thân
ta,
lấy
âm
thanh
cầu
ta,
thật
người
làm
tà
đạo,
khôn
hay
thấy
Như
Lai.
VÔ
ĐOẠN
VÔ
DIỆT
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
THẤT
Tu
Bồ
Đề,
nhữ
nhược
tác
thị
niệm
:
Như
Lai
bất
dĩ
cụ
túc
tướng,
cố
đắc
a
nậu
đà
la
tam
miệu
tam
bồ
đề.
Tu
Bồ
Đề,
mạc
tác
thị
niệm
:
Như
Lai
bất
dĩ
cụ
túc
tương
cố
đắc
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề.
Tu
Bồ
Đề,
nhữ
nhược
tác
thị
niệm,
phát
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề
tâm
giả,
thuyết
chư
pháp
đoạn
diệt.
Mạc
tác
thị
niệm.
Hà
dĩ
cố
?
Pháp
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề
tâm
giả,
ư
pháp
bất
thuyết
đoạn
diệt
tướng.
Chư
Pháp
đoạn
diệt
là
hết
thảy
pháp,
bèn
đoạn,
bèn
diệt,
mà
chẳng
dùng
vậy.
Tướng
là
hết
thảy
pháp
tướng.
Hễ
có
hình
sắc
đều
gọi
là
tướng.
Ngày
ắt
gọi
là
minh
tướng.
Đêm
ắt
gọi
là
ám
tướng.
Chưng
kinh
chỗ
nói
pháp
ắt
gọi
là
pháp
tướng.
Nơi
chẳng
có
Phật
kinh
thuyết
pháp,
ắt
gọi
là
vi
pháp
tướng.
Chẳng
dùng
pháp
mà
đoạn
diệt
vậy,
ắt
gọi
là
đoạn
diệt
pháp.
Trong
kinh
rằng
chẳng
khá
chấp
lấy
pháp
trần,
ắt
chẳng
khá
đoạn
diệt
vậy.
Ví
bằng
sang
sông,
đã
sang
sông
rồi,
ắt
chẳng
dùng
thuyền.
Dầu
chưa
sang
sông,
há
chẳng
dùng
thuyền,
sao
được
đến
ngạn
?
Vì
bằng
người
làm
đạo,
đã
liễu
ngộ,
rồi
chẳng
khá
chấp
rằng
có
Phật
pháp.
Dầu
chưa
liễu
ngộ,
chẳng
khá
rằng
không
Phật
pháp.
Một
quyển
kinh
này
nói
những
chữ
vô
Phật,
lại
lo
bỏ
hữu
chấp
không,
khác
nào
t?ịch
đầu
hỏa.
Vì
vậy,
một
phần
này
hằng
răn
Tu
Bồ
Đề
:"Tác
thị
niệm",
"Mạc
tác
thị
niệm",
rằng
phát
lòng
cầu
a
nậu
bồ
đề,
chưng
pháp
chẳng
khá
nói
đoạn
diệt
vậy.
BẤT
THỌ
BẤT
THAM
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
BÁT
Tu
Bồ
Đề
nhược
bồ
tát
dĩ
mãn
hằng
hà
sa
đẳng
thế
giới
thất
bảo,
trì
dụng
bố
thí,
nhược
phục
hữu
nhơn
tri
nhất
thiết
pháp
vô
ngã,
đắc
thành
ư
nhẫn,
thử
Bồ
tát
thắng
tiền
bồ
tát
sở
đắc
công
đức.
Thông
đạt
hết
thảy
pháp,
lòng
chẳng
còn
năng
sở.
Đã
hay
nhân
pháp
đều
không,
ắt
chẳng
có
sinh
ra
lưỡng
chấp,
gọi
là
vô
sinh
nhẫn.
Bồ
tát
liễu
ngộ
vô
sinh
pháp
nhẫn,
chỗ
được
công
đức
bội
hơn
bồ
tát
trước,
lấy
thất
bảo
mãn
hằng
hà
sa
thế
giới,
mà
bố
thí
vậy.
Hà
dĩ
cố
?
Tu
Bồ
Đề,
dĩ
chư
bồ
tát
bất
thọ
phước
đức
cố.
Ấy
chư
bồ
tát
chẳng
chịu
phước
đức,
vậy
là
bồ
tát
chẳng
cầu
phước
thế
gian
phú
quí,
bèn
tích
phước
như
hư
không.
Vậy
rằng
chẳng
chịu
phước
đức
tích
chưng
hư
không
càng
sâu
càng
lớn
đến
nhẫn
thành
Phật.
Dầu
chứng
thành
Phật
hưởng
phước
vô
cùng
vô
tận,
rộng
lớn
hơn
thiên
địa.
Vì
vậy,
Phật
xưng
là
lưỡng
túc
tôn,
rằng
phức
túc,
tuệ
túc,
gồm
hòa
hai
đều
khẳm
vậy.
Tu
Bồ
Đề
bạch
Phật
ngôn
:"Thế
Tôn,
vân
hà
bồ
tát
bất
thọ
phước
đức
?"
"Tu
Bồ
Đề,
bồ
tát
sở
tác
phước
đức,
bất
ưng
tham
trước
thị
cố
thuyết
bất
thọ
phước
đức."
Bồ
tát
chỗ
làm
phước
đức,
chẳng
hợp
tham
chấp
là
rằng
bồ
tát
vốn
chẳng
phải
làm
phước
đức,
bởi
hay
một
bề
độ
chúng
sinh,
chỗ
phước
đức
tự
nhiên
theo
vậy.
Dường
bằng
ngày
đi
trong
nửa
ngày,
vốn
chẳng
mong
sự
nhật
ảnh,
mà
nhật
ảnh
tự
nhiên
theo
vậy.
Bồ
tát
chỗ
làm
phước
đức,
chẳng
vì
tự
kỷ,
nhưng
muốn
lợi
ích
hết
thảy
chúng
sinh.
Ấy
thật
lòng
chẳng
chỗ
trụ,
ắt
chẳng
tham
chấp.
Vì
vậy
gọi
rằng
chẳng
chịu
phước
đức.
UY
NGHI
TỊCH
TỊNH
PHẦN
ĐỆ
NHỊ
THẬP
CỬU
Tu
Bồ
Đề,
nhược
hữu
nhân
ngôn
:"Như
Lai
nhược
lai,
nhược
khứ,
nhược
tọa,
nhược
ngọa".
Thị
nhân
bất
giải
ngã
sở
thuyết
nghĩa.
Phật
rằng
dầu
có
người
nói
Như
Lai
có
đi
lại
ngồi
nằm,
ắt
chẳng
biết
ý
Phật
vậy.
Dầu
chúng
sinh
bản
lai
diệu
tính
chẳng
có
khứ
lai
tọa
ngoạ,
Như
Lai
ắt
cũng
vậy.
Trong
mười
hai
giờ,
tứ
uy
nghi
trung,
hằng
trụ
không
tịch.
Dầu
rằng
có
động
tịnh,
ắt
chẳng
biết
Như
Lai
chỗ
nói
nghĩa.
Hà
dĩ
cố
?
Như
Lai
giả,
vô
sở
tùng
lai,
diệc
vô
sở
khứ,
cố
danh
Như
Lai.
Như
Lai
là
chân
tính
Phật
vậy.
Khi
lai,
bèn
chẳng
có
hình
lai.
Khi
khứ,
bèn
chẳng
có
hình
khứ.
Khi
trú,
bèn
chẳng
có
hình
trú.
Khi
động,
khi
tịnh,
bèn
chẳng
có
hình
động,
hình
tịnh.
Trên
hợp
chư
Phật,
dưới
tới
nhẫn
quần
sinh,
một
tính
bình
đẳng,
gọi
là
Như
Lai.
Như
Lai
hiện
ngàn
trăm
ức
hóa
thân,
diễn
chân
không
vô
tướng
pháp,
bằng
tượng
hiện
trong
gương,
chưa
từng
sinh
diệt.
Chẳng
sinh
vậy
là
phiền
não
chẳng
từng
sinh.
Chẳng
diệt
vậy
là
giác
tính
chẳng
từng
diệt.
Ứng
khứ
ứng
lai,
mà
chẳng
có
khứ
lai.
Vì
vậy
gọi
là
Như
Lai.
NHẤT
HỢP
LÝ
TƯỚNG
PHẦN
ĐỆ
TAM
THẬP
Tu
Bồ
Đề,
nhược
thiện
nam
tử,
thiện
nữ
nhân
dĩ
tam
thiên
đại
thiên
thế
giới,
túy
như
vi
trần,
ư
ý
vân
hà
?
"Thi
vi
trần
chúng,
ninh
vi
đa
phủ
?"
Tu
Bồ
Đề
ngôn
:"Thậm
đa,
Thế
Tôn.
Hà
dĩ
cố
?
Nhược
thị
vi
trần
chúng,
thật
hữu
giả,
Phật
tức
bất
thuyết
thị
vi
trần
chúng.
Sở
dĩ
giả
hà?
Phật
thuyết
vi
trần
chúng,
tức
phi
vi
trần
chúng,
thị
danh
vi
trần
chúng.
Thế
Tôn,
Như
Lai
sở
thuyết
tam
thiên
đại
thiên
thế
giới,
tức
phi
thế
giới,
thị
danh
thế
giới.
Vi
trần
là
vọng
niệm
vậy,
thế
giới
là
căn
thân
dị
danh.
Vi
trần
là
nhân,
Thế
giới
là
quả.
Vi
trần
thế
giới
là
nhân
quả
vậy.
Vốn
tự
kỷ
chân
tính
chẳng
có
nhân,
ắt
chẳng
có
quả.
Thiện
ác
là
nhân.
Lục
đạo
là
quả.
Tứ
sinh
lục
đạo
bởi
vì
thiện
ác
nhân
quả
vậy.
Bèn
hay
vi
trần
khởi
chưng
nơi
thế
giới,
luân
hồi
bởi
chưng
nơi
vọng
niệm.
Dầu
thấy
chút
lành,
chẳng
khá
chấp
trước.
Dầu
thấy
chút
dữ,
ắt
tua
khử
trừ.
Chúng
sinh
vọng
niệm
khởi
tham
sân
si
nghiệp
quả,
uổng
chịu
tam
giới
mộng
huyễn.
Dường
bằng
vi
trần
tích
nên
thế
giới.
Nào
hay
nhân
quả
ắt
bởi
vọng
tâm
tự
tác
tự
thọ.
Dầu
hay
nhất
niệm
hồi
quang,
liễu
ngộ
bản
nguyên
thanh
tịnh.
Vì
vậy
rằng
chẳng
có
vi
trần
ắt
gọi
là
vi
trần,
chẳng
có
thế
giới
ắt
gọi
là
thế
giới.
Hà
di?ố
?
Nhược
thế
giới
thật
hữu
giả,
tức
thị
nhất
hợp
tướng
.
Nhất
hợp
tướng
là
chân
tính
vậy
.
Chân
tính
khắp
hư
không
thế
giới,
lại
chẳng
có
hình
tướng.
Dầu
rằngnhất,
ắt
chẳng
khá
phân
làm
nhị.
Dầu
rằng
hợp,
ắt
chẳng
khá
chiết
làm
ly.
Vi
trần
là
nhân,
thế
giới
là
quả.
Dầu
chấp
nhân
quả
làm
thật
có,
bèn
phải
chưng
hình
phược.
Vậy
rằng
ắt
thật
nhất
hợp
tướng.
Như
Lai
thuyết
nhất
hợp
tướng,
tức
phi
nhất
hợp
tướng,
thị
danh
nhất
hợp
tướng.
Tu
Bồ
Đề
rằng
Phật
hằng
nói
Nhất
hợp
tướng
là
chân
tính
vậy.
Phi
nhất
hợp
tướng
là
chân
tính
như
hư
không.
Bèn
chớ
chấp
làm
thật
có,
ắt
chớ
chấp
làm
thật
không.
Chưng
nơi
tướng,
bèn
khởi
tướng.
Vì
vậy
rằng
ắt
chẳng
phải
nhất
thập
tướng,
thật
gọi
làm
nhất
thập
tướng.
Tu
Bồ
Đề,
nhất
hợp
tướng
giả,
tức
thị
bất
khả
thuyết.
Phật
lại
gọi
Tu
Bồ
Đề,
dầu
nhất
hợp
tướng,
dầu
chân
tính,
ắt
chẳng
khá
nói.
Bèn
gượng
danh
gọi
làm
nhất
hợp
tướng
vậy.
Hết
thảy
người
làm
đạo,
bèn
tua
tự
tỉnh,
tự
ngộ
chưng
nơi
sự
lý
đều
chớ
quải
ngại.
Những
người
phàm
phu
chẳng
đạt
chỗ
lý,
bèn
chấp
sự
tướng,
thấy
nói
nhân
quả
lại
chấp
nhân
quả,
thấy
nói
thế
giới
lại
nói
thế
giới.
Đản
phàm
phu
chi
nhân,
tham
trước
kỳ
sự.
Phật
rằng
những
người
phàm
phu
chẳng
hay
liễu
ngộ
chân
tính,
bèn
chấp
trước
những
sự
trong
chân
tính
chỗ
hiện
là
sắc
thân
lục
căn
vậy.
Phàm
phu
chấp
lấy
sắc
thân
lục
căn
làm
tự
thân
tướng,
vì
vậy
trầm
luân
lục
đạo,
chẳng
hay
thoát
khỏi,
gọi
làm
phàm
phu.
Khỏi
hết
chư
hòa
hợp
tướng,
thật
gọi
làm
vô
thượng
giác.
Ngoài
giác
hết
thảy
hữu
tướng,
trong
giác
hết
thảy
không
tướng.
Chưng
nơi
tướng,
bèn
khỏi
tướng.
Chưng
nơi
không
bèn
khỏi
không.
Biết
được
diệu
lý
chân
không
vô
tướng,
chỗ
bèn
gọi
làm
Phật.
Phàm
phu
chấp
nhất
hợp
tướng.
Nhãn
thấy
sắc,
ái
sắc
ắt
hợp
cùng
sắc,
Nhĩ
văn
thanh,
ái
thanh
bèn
ắt
hợp
cùng
thanh.
Chưng
hết
thảy
pháp
đều
hợp
tướng.
Dầu
bồ
tát
chưng
hết
thảy
pháp
đều
chẳng
hợp
tướng.
Hợp
ắt
dấy
ra,
sinh
diệt
hệ
phược.
Chẳng
hợp
ắt
giải
thoát,
bất
sinh
bất
diệt.
Dầu
phải
hệ
phược,
ắt
thật
phàm
phu.
Vì
vậy
trong
kinh
rằng
những
phàm
phu
tham
chấp
sở
sự.
TRI
KIẾN
BẤT
SINH
PHẦN
ĐỆ
TAM
THẬP
NHẤT
"Tu
Bồ
Đề,
nhược
nhân
ngôn
Phật
thuyết
ngã
kiến
nhân
kiến,
chúng
sinh
kiến
thọ
giả
kiến.
Tu
Bồ
Đề,
ư
ý
vân
hà
?
Thị
nhân
giải
ngã
sở
thuyết
nghĩa
phủ
?
"
"
Phất
giả
Thế
Tôn,
thị
nhân
bất
giải.
Như
Lai
sở
thuyết
nghiã.
Hà
dĩ
cố
?
Thế
Tôn
thuyết
ngã
kiến
nhân
kiến
chúng
sinh
kiến
thọ
giả
kiến,
tức
phi
ngã
kiến,
nhân
kiến
chúng
sinh
kiến
thọ
giả
kiến,
thị
danh
ngã
kiến
nhân
kiến
chúng
sinh
kiến
thọ
giả
kiến".
Phật
nói
chưng
tứ
cú
đẳng
tướng,
chỉn
thấy
chỗ
tính,
chẳng
thấy
chỗ
tướng.
Điệp
lời
trước
lại
nói
ba
lần,
ắt
Phật
phân
biệt,
khiến
chớ
chấp
thân,
bèn
được
thấy
tính.
Phật
nói
ngã
kiến
chúng
sinh
kiến
là
xem
lấy
tính,
chớ
xem
lấy
thân,
phá
tướng
cho
biết
không,
bèn
về
không
tịch
vậy.
Thoát
trừ
già
tỏa
ra
khỏi
mê
tận,
dầu
biết
Bát
nhã
Kim
Cương
pháp,
dạy
người
học
nhân,
trước
trừ
thô
trọng
tứ
tướng,
khiến
cho
thấy
chân
tính,
sau
lại
trừ
vi
tế
tứ
tướng,
ắt
đều
hiển
ra
trong
lý
thanh
tịnh.
Dầu
chư
pháp
hay
biết
nhiều,
sao
bằng
một
pháp
chẳng
chỗ
cầu,
lấy
làm
tối
thượng
đệ
nhất
vậy.
Người
làm
đạo
là
vô
sự
nhân,
ắt
chẳng
cho
nhiều
sự.
Lòng
vô
sự
ắt
không.
Dầu
muốn
được
nên
Phật,
hết
thảy
pháp
đều
chẳng
dùng
học.
Bèn
học
lấy
cho
biết,
chẳng
chỗ
cầu,
chẳng
chỗ
chấp.
Chẳng
chỗ
cầu,
ắt
lòng
chẳng
sinh.
Chẳng
chỗ
chấp
ắt
lòng
chẳng
diệt.
Chẳng
sinh,
chẳng
diệt,
bèn
là
Phật
vậy.
Lại
rằng
chẳng
chỗ
cầu,
chẳng
chỗ
được,
làu
làu
vậy.
Hằng
trụ,
ắt
thật
thanh
tịnh
ngã
kiến.
Dầu
thấy
tự
tính
vốn
mình
cụ
túc,
thật
là
thanh
tịnh
nhân
kiên.
Chưng
trong
tự
tâm
vốn
chẳng
có
phiền
não
mà
khá
đoạn,
thật
là
thanh
tịnh
chúng
sinh
kiến.
Tự
tính
chẳng
có
đổi,
chẳng
có
khác,
chẳng
sinh,
chẳng
diệt,
thật
là
thanh
tịnh
thọ
giả
kiến.
Bèn
mới
gọi
là
chẳng
có
tứ
chủ
tướng
vậy.
Tu
Bồ
Đề,
pháp
a
nậu
đa
la
tam
miệu
tam
bồ
đề
tâm
giả,
ư
nhất
thiết
pháp,
ưng
như
thị
tri,
như
thị
kiến,
như
thị
tín
giải,
bất
sinh
pháp
tướng.
Tu
Bồ
Đề
sở
ngôn
pháp
tướng
giả,
Như
Lai
thuyết
tức
phi
pháp
tướng,
thị
danh
pháp
tướng.
Hai
chữ
như
thị
là
đã
thân
thiện
cứu
cánh
vậy.
Dầu
muốn
phát
lòng
a
nậu
bồ
đề,
chưng
hết
thảy
pháp
hợp
hay
như
dường
ấy,
hợp
thấy
như
dường
ấy,
hợp
tin
biết
như
dường
ấy,
ắt
chẳng
phải
cầu
pháp
giới.
Dầu
thứ
mới
nhập
đạo
chẳng
mượn
pháp
tướng,
ắt
chẳng
nương
đâu
cho
được
kiến
tính.
Dầu
đã
liều
ngộ
rồi,
ắt
hợp
viễn
ly,
chớ
còn
chấp
trước.
Chỗ
rằng
đến
ngạn,
chẳng
lọ
dùng
thuyền.
Hợp
hay
hết
thảy
chúng
sinh
đều
có
Phật
tính.
Hợp
thấy
hết
thảy
chúng
sinh
đều
khẳm
vô
lậu
trí
tuệ.
Hợp
tin
hết
thảy
chúng
sinh
đều
có
chơn
tính
linh
nguyên
bất
sinh
bất
diệt.
Dầu
hay
liễu
ngộ
rồi,
ắt
thật
đại
trí
tuệ,
chẳng
còn
năng
sở,
tâm
chẳng
còn
tri
giải
tướng.
Miệng
nói
vô
tướng
pháp,
lòng
biết
vô
tướng
lý,
hằng
làm
vô
tướng
hạnh.
Vì
vậy
rằng
pháp
tướng
chẳng
có
sinh,
mới
gọi
là
pháp
tướng
vậy.
ỨNG
HÓA
PHI
CHÂN
PHẦN
ĐỆ
TAM
THẬP
NHỊ
Tu
Bồ
Đề,
nhược
hữu
nhân
dĩ
mãn
vô
lượng
a
tăng
kỳ
thế
giới
thất
bảo,
trì
dụng
bố
thí.
Nhược
hữu
thiện
nam
tử
thiện
nữ
nhân,
phát
bồ
đề
tâm
giả,
trì
ư
thử
kinh,
nải
chí
tử
cú
kệ
đẳng,
thọ
trì
độc
tụng,
vị
nhân
diễn
thuyết,
kỳ
phước
thắng
bỉ.
Duyên
chưng
căn
bản
kinh
này
vậy,
bèn
lấy
phá
tướng
làm
tôn,
bèn
dùng
liễu
không
làm
nghĩa.
Còn
mê
tính
mà
bố
thí,
ắt
thật
hữu
vi.
Sao
bằng
người
đã
kiến
tính,
biết
được
tứ
cú
biết
bàn
bất
sinh
bất
diệt,
hằng
diễn
pháp
dường
bằng
mộng
huyễn.
Dầu
đã
chính
kiến,
giáo
hóa
chúng
sinh,
phước
bội
hơn
người,
lấy
vô
lượng
vô
ương
số
thế
giới
thất
bảo,
mà
bố
thí.
Phát
bồ
đề
tâm
là
đại
thừa
tối
thượng
thừa
phát
quảng
đại
tâm
tế
độ
hết
thảy
chúng
sinh
vậy.
Phần
trước
tỷ
dụ,
lấy
Hằng
hà
sa
thế
giới
thất
bảo
còn
ít.
Phần
này
lại
tỷ
dụ,
lấy
vô
lượng
a
tăng
kỳ
thế
giới
thất
bảo
cực
nhiều.
Tuy
rằng
bố
thí
dường
ấy,
chưa
khỏi
nhân
thiên
tiểu
quả,
gọi
là
thế
gian
phước,
chưng
sau
có
khi
hữu
tận.
Huống
là
thọ
phước,
lại
tạo
ác
nghiệp
?
Sao
bằng
người
thọ
trì
kinh
này
?
Hà
huống
liễu
ngộ
tứ
cú
kệ,
vì
người
diễn
thuyết
xuất
thế
gian
phước,
chứng
vô
vi
pháp,
chưng
sau
vô
cùng
vô
tận.
Vì
vậy,
gọi
rằng
kỳ
phước
thắng
bỉ.
Vân
hà
vị
nhân
diễn
thuyết
Rằng
tứ
đại
sắc
thân
chẳng
hay
thuyết
pháp
thính
pháp.
Thật
là
tự
kỷ
pháp
thân
trước
mặt
một
mình
sáng
làu
làu,
thông
suốt
khắp
mười
phương,
bèn
hay
thuyết
pháp
thính
pháp.
Chứ
có
lấy
những
lời
người
nói.
Dầu
được
nhiều
lời,
khác
nào
thiên
hoa
loạn
trụy,
chỗ
lòng
chẳng
từng
thêm.
Dầu
lại
chẳng
diễn
thuyết,
chỗ
lòng
chẳng
từng
bớt.
Còn
mong
cầu
chấp
trước,
càng
huyền
viễn.
Học
nhiều
còn
chấp
trước,
càng
chuyển
xa.
Sao
bằng
tịch
tịnh,
hội
ngộ
chính
tri
vậy.
Bất
thủ
ư
tướng,
như
như
bất
động.
Rằng
chẳng
chấp
lấy
hình
tướng
ắt
như
như
chẳng
động
vậy.
Như
như
là
tự
như
vậy.
Trong
tự
tính,
bèn
muốn
làm
nhãn
thiên,
ắt
hiện
làm
nhân
thiên.
Muốn
hiện
làm
dị
loại
ắt
hiện
làm
dị
loại.
Ví
bằng
trong
gương
hiện
tượng,
nào
hình
chi
chẳng
chỗ
khá
thật,
là
tự
như
vậy.
Bèn
ra
khắp
hư
không
thế
giới,
hằng
trụ
mà
chẳng
từng
động,
gọi
là
bất
động.
Hà
dĩ
cố
?
Nhất
thiết
hữu
vi
pháp
Như
mộng
huyễn
bào
ảnh
Như
lộ
diệc
như
điện
Ưng
tác
như
thị
quán
Hết
thảy
hữu
vi
pháp
là
trên
từ
thiên
địa
tạo
hóa,
dưới
đến
nhẫnnhân
gian
vạn
vật,
dầu
sinh
lão
bệnh
tử,
giàu
khó,
sang
hèn,
sĩ,
nông,
công,
thương,
mọi
loài
sắc
vật,
dầu
nhẫn
xanh
vàng
thắm
trắng,
thô
tế,
thanh
trọc,
dầu
có
dầu
không,
dầu
hư
dầu
thật,
sâu
cạn
thấp
cao,
ắt
thật
vọng
tâm
khởi
diệt,
hết
thảy
thiện
ác
muôn
pháp
cũng
là
hữu
vi
vậy.
Như
mộng
là
mộng
trung
vọng
tưởng.
Khi
chiêm
bao
thấy
bằng
đường
thật
có.
Khi
tỉnh
giấc
dậy,
mọi
sự
đều
không.
Còn
mê,
muôn
pháp
ắt
thật
có.
Giác
liễu
ngộ
rồi,
muôn
pháo
đều
không.
Bèn
tỷ
dụ
rồi
hết
thảy
pháp
như
mộng
vậy.
Như
huyễn
là
huyễn
thuật
biến
hóa.
Hoặc
kết
khăn
làm
hình
quỉ.
Hoặc
kết
cỏ
làm
hình
ngựa.
Tạo
tác
muôn
hình,
hóa
thuật
chủng
chủng
hư
vọng.
Bèn
tỷ
dụ
rằng,
hết
thảy
chư
pháp
cũng
như
huyễn
vậy.
Như
bào
là
thủy
thượng
chư
bào.
Gió
đánh
nước
cọ,
kết
nên
bọt,
kíp
sinh
kíp
diệt,
há
được
bền
lầu
?
Xem
muôn
pháp
dường
bằng
sóng
nổi,
tuy
có
nhưng
mà
chẳng
thật.
Bèn
tỷ
dụ
rằng
hết
thảy
chư
pháp
cũng
như
bào
vậy.
Như
ảnh
là
hiện
hóa
chư
ảnh,
bằng
bóng
ở
trong
gương,
bằng
nguyệt
hiện
dưới
nước,
khác
nào
sắc
thân,
từng
nghiệp
duyên
mê
vọng
chủng
chủng
hư
giả.
Bèn
tỷ
dụ
rằng
hết
thảy
chư
pháp
cũng
như
ảnh
vậy.
Như
lộ
là
bằng
sương
tuyết
sâm
sy,
tuy
nhẫn
có
vậy,
chẳng
được
bao
chầy,
giây
phút
lại
không.
bèn
tỷ
dụ
rằng
hết
thảy
chư
pháp
cũng
như
lộ
vậy.
Như
điện
là
bằng
sấm
chớp
giáng
ra,
tuy
ắt
có
sáng,
chẳng
được
bao
lâu.
Bèn
tỷ
dụ
rằng
chư
pháp
cũng
như
điện
vậy.
Dầu
nhẫn
hữu
vi
vô
vi,
ắt
đều
về
viên
giác
diệu
tâm,
lòng
hằng
không
tịch,
sạch
sẽ
làu
làu,
chẳng
có
chút
thiên
trầm
quải
ngại,
tự
nhiên
thanh
tịnh
vô
vi,
như
như
chẳng
động.
Hợp
xem
bằng
dường
ấy,
mới
phải
ưng
tác
như
thị
quan.
Phật
thuyết
thị
kinh
dĩ,
trưởng
lão
Tu
Bồ
Đề
cập
chư
tỳ
kheo,
tỷ
kheo
ni,
ưu
bà
tắc,
ưu
bà
di,
nhất
thiết
thế
gian
thiên
nhân
a
tu
lai,
văn
Phật
sở
thuyết
giai,
đại
hoan
hỷ,
tín
thọ
phụng
hành.
Tăng
sư
là
tỳ
kheo
vậy.
Sư
cô
là
tỳ
kheo
ni.
Cư
sĩ
là
ưu
bà
tắc.
Đạo
cô
là
ưu
bà
di.
Hết
thảy
những
người
thế
gian,
đến
nhẫn
người
trên
thiên
thượng,
a
tu
la
thần
cùng
khẳm
hết
trong
nơi
lục
đạo
nghe
Phật
chỗ
nói
kinh
này,
đều
sinh
ra
lòng
hoan
hỷ
tin.
Bèn
vâng
chịu
kính
tuân
lời
Phật
dạy,
giữ
làm.
Hễ
lời
chí
lý
vô
ngôn.
Chân
không
diệu
thể
vô
tướng
đều
vắng
lặng
vậy.
Bèn
chẳng
chấp
trước
ngôn
thuyết,
chẳng
còn
chấp
trước
tri
giảim
ắt
thật
vô
ngôn
vô
tướng,
Kinh
Kim
Cương
này
chưng
nơi
ý
thú
vốn
ắt
rằng
vậy
thật.
Bèn
chuyển
lập
chuyển
phá,
muốn
cho
mọi
người
chí
lý,
chẳng
còn
một
pháp
khá
được,
khỏi
hết
thảy
chư
trần
cảnh
hoặc,
đến
nhẫn
rồi
hết,
chứng
được
tâm
địa,
gọi
là
thanh
tịnh
tâm,
lại
gọi
là
bản
lai
tâm.
A?
gọi
là
đáo
bỉ
ngạn,
lại
gọi
là
chứng
niết
bàn.
Lại
rằng
là
giải
thoát
đạo.
A?
thật
cũng
là
một
vậy.