TOÀN
TẬP
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000
--o0o--
III
NỘI DUNG THƠ VĂN
Sau khi đã xác định 54 bài thơ kệ
và 14 đoạn ngữ lục ngữ là của, hoặc nghi là của các thiền sư
Trung Quốc, còn lại như vậy 5 bài thơ chữ Hán và 4 tác phẩm bằng
tiếng Việt là của Minh Châu Hương Hải. Căn cứ vào số lượng
tác phẩm này, ta có thể rút ra một số nhận định sau về nội dung
thơ văn ông .
1.Về quan hệ Nho Phật
Bản thân Minh Châu Hương Hải từ
nhỏ đã học Nho, lớn lên đã đi thi đỗ và ra làm quan. Cho nên
trong thơ văn, ông ta đã thấy xuất hiện quan điểm của ông về quan
hệ giữa cái Nho giáo và cái học Phật giáo. Tất nhiên, ngay việc
ông từ quan, xuất gia, trở thành một thiền sư đã chứng tỏ ông
không đánh giá cao cái học Nho giáo, vì không đánh giá cao nên
mới từ bỏ chúng cho một lý tưởng đẹp hơn, đó là lý tưởng
Phật giáo. Điều này ông nói rất rõ trong tác phẩm thơ Sự lý
dung thông :
Luận chưng thánh tổ Nho gia
Trong đời trị thế, người là nhân
sư
Sao bằng đâu suất vị cư
Lão quân tiên chủ đại từ được
phương
Phật là vạn pháp trung vương
Làm thầy ba cõi đạo trường nhân
thiên
Quan điểm này phản ánh quan điểm
trước sau như một của những người Phật giáo Việt Nam từ Mâu
Tử (160-220), Khương Tăng Hội (?-280) Đạo Cao (370-450?) Lý Thánh
Tông(1054-1072) Trần Thái Tông(1125-1258) Nguyễn Trung Ngạn (?-1370)
v.v
cho đến những người sống sau Minh Châu Hương Hải như Ngô
thời Nhiệm (1746-1803) Toàn Nhật (1750?-1832) v.v
việc coi Nho giáo
không bằng Phật giáo và như một phương tiện bộ phận để truyền
bá Phật giáo phải nói là một quan điểm thống soái xuyên suốt
lịch sử tồn tại của Nho giáo tại Việt Nam. Điều này giải thích cho
ta rất nhiều vì sao một Phật tử thuần thành và thực tế là một
vị tổ của thiền phái Thảo Đường như Lý Thánh Tông lại lập văn
miếu để thờ Khổng Tử, và Trần Thái Tông đã cho mở đều đặn
các khoa thi Nho giáo, đặt nền tảng cho hệ thống thi cử Việt Nam sau
này. Và điều này cũng giải thích tại sao các nhà Nho Việt Nam, từ
một ông thầy đồ ở làng cho đến một vị trạng nguyên tại triều
đình, hầu hết đều là Phật tử. Nhận thức được tình hình đó,
ta mới thấy việc xác định vai trò của Nho và Lão giáo tại Việt
Nam đều cùng một đường, nghĩa là phục vụ cho con đường Phật
giáo phát triển và tồn tại, đúng như Minh Châu Hương Hải đã
viết trong Sự lý dung thông :
Trong nơi danh giáo có ba
Nho hay giúp nước sửa nhà trị dân
Đạo thì dưỡng khí an thần
Thuốc trừ tà bệnh chuyên cần
luyện đan
Thích độ nhân miễn tam đồ khổ
Thoát cửu huyền thất tổ siêu
phương
Nho dùng tam cương ngũ thường
Đạo gìn ngũ khí, giữ giàng ba
nguyên
Thích giáo nhân tam quy ngũ giới
Thể một đường, xe phải dùng ba
Không những thơ viết bằng chữ
Việt, thơ chữ hán của Hương Hải cũng biểu lộ những nhận định
như thế, qua hai bài thơ số 14 và 15 theo cách đánh số của chúng
tôi trong Hương Hải thiền sư ngữ lục và thường được những
người viết về Minh Châu Hương Hải trích dẫn nhiều lần. Bài thơ 14
đọc :
Thành thị du lai ngụ tự chiền
Tuỳ cơ ứng hoá mỗi thời nhiên
Song chiêu nguyệt đáo sàng thiền
mật
Tùng tiếu phong suy tích khách miên
Sắc ánh lâu đài minh sắc diệu
Thanh truyền chung cỗ diễn thanh huyền
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
Nhiệm vận hà tằng lý hữu thiên
(Phố thành chơi dạo, ở chùa chiền
Ứng biến tuỳ cơ mỗi tự nhiên
Cửa đón trăng vào thiền chõng
ngọt
Thông reo gió thổi khách giấc yên
Lâu đài sắc sáng càng thêm sáng
Chuông trống tiếng đưa tiếng mỗi
truyền
Ba giáo xưa nay cùng một thể
Theo thời sao lẽ có nghiêng bên)
Bài thơ thứ 15 :
Thượng sĩ du lai bát nhã lâm
Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm
Liêm khê, Trình thị minh cao thức
Tô tử, Hàn văn khế diệu âm
Vạn tường sum la cao dị hiển
Nhất biều tạo hoá mật nan tầm
Nho nguyên đảng đảng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển
thâm
(Bát nhã rừng thường thượng sĩ
thăm
Ở đời chẳng nhuốm, rõ thiền tâm
Liêm khê, Trình thị thông cao kiến
Tô tử, Hàn văn rõ diệu âm
Muôn trạng bao la xa dễ hiểu
Một bầu tạo hoá kín khôn tìm
Nguồn Nho bát ngát lên thêm rộng
Biển Phật mênh mông xuống sâu lần)
Rõ ràng quan hệ Phật Nho một lần
nữa được Minh Châu Hương Hải xác định không chỉ với tư cách
một thiền sư, mà còn với tư cách một người thành đạt trong học
giới nhà Nho, quy định hẳn mối quan hệ này, bắt buộc Nho giáo phục
vụ cho lợi ích của Phật giáo. Đây đúng là quan điểm mà Trần
Thái Tông đã phát biểu :"Như thế đủ biết giáo lý của Đức
Phật ta, nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời"(Tắc tri ngã
Phật tri giáo hựu giả tiên thánh nhân dĩ truyền ư thế dả). Phải
thấy điều này, ta mới hiểu tại sao có những nhà Nho thành đạt
trên quan trường, tích cực đối với việc mở mang chính giáo nhưng
vẫn có những bài thơ ca ngợi Phật giáo. Trương Hán Siêu cuối
cùng đã có quan hệ tốt với nhà chùa, đến nỗi Ngô Sĩ Liên
phải tỏ ra bực tức. Lê Thánh Tông, ban Từ thư ngũ kinh cho phủ
huyện học, nhưng vẫn coi chùa Trấn Quốc là đứng ở giữa trung
tâm của trời đất, làm bền vững kinh đô của đất nước mình :
Trung lập càn khôn vững đế đô
Mảng danh Trấn Quốc ở Tây hồ
Rồi các tiến sĩ, cử nhân nhà Mạc
đua nhau lập chùa, đúc chuông, mà vết tích thì còn lại rất nhiều
qua các văn bia hiện đã tìm thấy. Đến đời Lê Trung Hưng và
Nguyễn thì các danh Nho, tiến sĩ như Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn,
Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Công Trứ, Phạm Phú Thứ
v.v
đều có thơ văn đề cao Phật giáo và bản thân gia đình
cũng có người xuất gia (như trường hợp con gái của Nguyễn Công
Trứ) hoặc đóng góp tiền của để in kinh, dựng chùa (như trường
hợp của Phạm Phú Lâm con của Phạm Phú Thứ). Và đến cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi tổ quốc lâm vào đại nạn mất nước,
thì chính những nhà Nho đại khoa bảng như Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp
đã lên tiếng "phế Nho hưng Phật" để cứu dân cứu nước.
Nói cụ thể hơn người Việt Nam học Nho, nhưng biết mình học Nho để
làm gì và biết mình là ai. Cho nên dù xuất thân từ cửa Khổng
sân trình, họ vẫn sẵn sàng kêu gọi bỏ Nho theo Phật để phục vụ
cho dân cho nước mình .
Quan hệ Phật Nho dưới nhãn quan của
Minh Châu Hương Hải như thế không nằm ngoài quỹ đạo nhận thức
của người Phật giáo Việt Nam. Người Phật giáo Việt Nam rất cởi
mở, và nền giáo dục của họ không phải đợi đến khi Lý Thánh
Tông lập Văn miếu và mở ra ngôi trường đại học đầu tiên cho
đất nước vào năm 1070, mới bao gồm cái học của nhà Nho, mà ngay
từ những năm tháng đầu của thời kỳ đấu tranh khốc liệt và bi
hùng với kẻ thù phương Bắc, họ đã thành công khi tiếp nhận nền
học thuật nhà nho này để phục vụ cho đất nước họ, mà những
sản phẩm đầu tiên thể hiện qua những con người như Sĩ Nhiếp
(137-226), Mâu Tử, Khương Tăng Hội và Đạo Thanh (220-300?) [Lê Mạnh
Thát, Nghiên cứu về Mâu Tử, Tu thư Vạn Hạnh, 1982, tr.262-308, Khương
Tăng Hội toàn tập, tập I, Viện Đại học Vạn Hạnh, 1975, tr.35-48}.
Nói khác đi, quan điểm của Minh Châu
Hương Hải về quan hệ Nho Phật không phải là những quan điểm mới
lạ vào thời ông. Nó đã xuất hiện và được thử thách qua lịch
sử. Cho nên dù có nơi có lúc có những người Phật giáo đòi
loại bỏ cái học nhà Nho như trường hợp hoàng đế Lý Miễu
(400-460), nhưng hầu hết những người Phật giáo vẫn ôn tồn và bình
tĩnh tiếp thu có chọn lọc những nền học thuật ấy nhằm phục vụ
không những cho học thuyết của mình mà còn cho đất nước nữa .
2.Về quan điểm thiền Phật giáo
Bản thân Minh Châu Hương Hải là
một vị thiền sư, và với pháp danh Minh Châu, ông thuộc về Thiền
phái Lâm Tế dòng Trí Bảng Đột Không, với bài kệ truyền pháp
như ta đã thấy ở trên. Tuy thế, qua bảng liệt kê các tác phẩm
kể trước, ta thấy ông tỏ ra quan tâm và quán xuyến các kinh điển
của các trường phái khác nhau trong Phật giáo. Không những ông
dịch kinh Kim Cang, mà còn dịch cả kinh Pháp Hoa, kinh Di Đà, kinh Vô
lượng thọ, kinh Địa tạng v.v
Ngoài ra, còn có Giải Sa di giới
luật, lại viết Nghi thức cúng Phật Dược sư, cúng Cửu phẩm
v.v
điều này chứng tỏ một lần nữa Minh Châu Hương Hải đã
nằm trong dòng chủ lưu của thiền Phật giáo Việt Nam, không bị ảnh
hưởng nhiều của các dòng thiền Trung quốc. Nói khác đi, một trong
những nét khác biệt giữa thiền Trung Quốc và thiền Việt Nam ngay
từ đầu cho đến những phát hiện về sau là không loại bỏ việc
học và tụng niệm các kinh điển Phật giáo, trong khi vẫn tự nhận
mình là tu học theo thiền. Trong lịch sử thiền tông Trung Quốc ta hầu
như không bao giờ gặp một vị tổ nào vừa là thiền sư lại vừa
là dịch giả. Nhưng vị tổ thiền đầu tiên của Việt Nam là Tỳ Ni Đa
Lưu Chi là người dịch các kinh Tượng đầu tinh xá, Báo nghiệp sai
biệt v.v
Rồi các vị thiền sư Việt Nam về sau như Pháp Thuận
(925-990) viết Bồ tát hiệu sám hối văn, Viên Chiếu (999-1090) viết
Tán viên giác kinh, Thập nhị Bồ tát hạnh tu chứng đạo tràng và
Dược sư thập nhị nguyện văn [Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền
uyển tập anh, Nhà xuất bản TpHCM, 1999, tr.194, 195, 250, 252, 262], Pháp Loa
(1284-1330) đã viết Pháp Hoa kinh khoa sớ, Niết bàn đại kinh khoa sớ,
Kim Cang trường đà la ni kinh khoa chú, Bát nhã tâm kinh khoa sớ
v.v
truyền thống thiền học Việt Nam như vậy có một dấu ấn sâu
đậm, tác động lên những người Phật giáo thiền tông Việt Nam
về sau. Minh Châu Hương Hải đã kế thừa truyền thống này và phát
huy nó lên một điểm cao mới, đó là chính thức giải quyết các
kinh điển ấy ra bằng tiếng Việt mà ta hiện tìm thấy .
Những người Phật giáo thiền tông
Việt Nam như vậy không đi đến cực đoan coi mọi kinh giáo là không
phản ánh đầy đủ tư tưởng cốt lõi của Đức Phật, và chỉ có
việc truyền tâm ấn mới phản ảnh trọn vẹn, như đã ít nhiều xuất
hiện trong lịch sử thiền tông Trung Quốc. Trong lịch sử Phật giáo
thiền tông Việt Nam, mọi kinh điển đều được đánh giá cao, nhưng
được học tập và nghiên cứu với một nhận thức thiền tông. Cho
nên Minh Châu Hương Hải đã viết các bản giải thích bằng tiếng
Việt về những kinh điển tiêu chuẩn Phật giáo, từ Di Đà cho đến
Kim Cang, từ Pháp Hoa cho đến Dược Sư, đây là một nét đặc trưng
ta cần chú ý đến khi nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Trước và sau Minh Châu Hương Hải đã có những vị thiền sư từng
làm như vậy. Ta đã gặp Pháp Thuận, Viên Chiếu, Pháp Loa, Viên
Thái, Pháp Tính rồi về sau những người như Chân Nguyên, Như
Trừng, Pháp Chuyên, An Thiền, Thanh Đàm v.v
cho tới ngày nay, có
một số người, khi thu thập được một số kiến thức về lịch sử
thiền tông Trung Quốc, mà không nhận thức được sự khác biệt
giữa thiền tông Trung quốc và thiền tông Việt Nam, nên đã nêu
lên vấn đề tại sao thiền tông Việt Nam lại
không giống thiền tông Trung quốc.
Thậm chí họ còn hồ đồ bảo rằng "đối với đông đảo Phật
tử Việt Nam, thiền đã (và vẫn) chỉ là những tin đồn từ tu
viện, và họ không bao giờ thực sự chấp nhận nó v.v
"
Phải thấy thiền Việt Nam khác thiền Trung quốc như thế nào trong nhận
thức và thực tiễn, mới không đem lại cái khuôn hình thiền Trung
quốc chụp lên hiện thực thiền Việt Nam. Người Phật giáo Việt Nam
trên cả ngàn năm cho đến bây giờ vẫn nhận mình là thuộc một
dòng thiền nào đó của Phật giáo Việt Nam. Và nhiều chùa Việt Nam
vẫn gọi là chùa Thiền. Bản thân các vị thiền sư dù có tu luyện
những pháp môn nào đi nữa, cuối cùng cũng vẫn nhận mình là
thiền sư .
Vấn đề do đó là phải tìm cách
mô tả thực tiễn thiền Việt Nam này, như nó đã xuất hiện trong
lịch sử Việt Nam, rồi từ đấy sẽ giúp ta nhận thức được
những khác biệt cơ bản giữa các thực tiễn thiền của các dân
tộc khác nhau. Cũng là thịt nướng cả, nhưng người A? Mỹ thì làm
khác mà người Việt nam thì làm khác. Cho nên , khi Minh Châu Hương
Hải đã dành trên 30 năm cuối của cuộc đời mình để giải thích
các kinh điển Phật giáo ra tiếng Việt, không phải ông đã làm một
việc thoát ly ra khỏi cuộc sống thiền của chính bản thân ông.
Ngược lại, lúc làm thế ông đã đưa chính tư tưởng thiền của
mình vào. Trong Sự lý dung thông, tư tưởng thiền của ông được
ghi nhận như thế này :
Ai nhìn sáu tổ năm tông
Thiền hà muôn phái một dòng Tào
khê
Bể từ rạt sạch nguồn mê
Máy thiêng mở khép đề huề độ
sinh
Chuyển vô minh bối trần hiệp giác
Vui về bề diệu dược liên bang
Dầu ai hiểu biết tâm vương
Chứng vô thượng đạo lên đường
Như Lai
Ra nhân đức, nhuận ân oai
Làu tàu viên tịnh trong ngoài sáng
thanh
Há còn chấp tướng ngại danh
Tùy cơ thuận nghịch tung hoành cũng
ưa
Phát biểu như thế chỉ trong một số
câu ngắn ngủi này, ta đã thấy tư tưởng thiền của Minh Châu Hương
Hải bao gồm nhiều thành tố Phật giáo khác nhau. Ông đã nói tới
diệu dược liên bang, tức tư tưởng tịnh độ, rồi tiếp theo đến
khái niệm tâm vương, một khái niệm triết học duy thức. Nhưng tất
cả tư tưởng và khái niệm này là nhằm thực hiện cho được mục
tiêu "chuyển vô minh bồi trần hiệp giác" và đạt mục tiêu
này là để "tùy cơ thuận nghịch" mà"ra nhân đức,
nhuận ân oai". Đây là tư tưởng thiền tích cực hành động,
mà các vị tiền bối của Minh Châu Hương Hải đã từng sống và
thể hiện. Cũng trong Sự lý dung thông, ông viết:
Đạo
viên
minh
ngại
chi
chân
tục
Miễn
lòng
rồi,
tri
túc
thì
nên
Năm
mươi
lăm
phẩm
dưới
trên
Luyện
tam
muội
hoả,
chí
bền
kim
cương
Rõ
ràng
khi
nói
thế
ông
đã
ít
nhiều
tiếp
thu
tư
tưởng
Cư
trần
lạc
đạo
của
thiền
học
Trần
Nhân
Tông
:
Trần
tục
mà
nên
Phúc
ấy
càng
yêu
hết
tức
Sơn
lâm
chẳng
cốc
Họa
kia
thực
cả
đồ
công
Mà
chính
vì
tư
tưởng
nhập
thế
ở
đời
vui
đạo
này,
Minh
Châu
Hương
Hải
không
những
đã
dặn
dò
những
người
tu
thiền
theo
hướng
:
A?
lời
khuyên
dặn
người
thiền
tử
Lý
hiểu
tường,
sự
giữ
tiệm
tu
Hằng
rèn
giới
hạnh
công
phu
Lên
đường
tinh
tấn
nhẫn
phù
yên
tâm
Mà
còn
phải
:
Dốc
làm
chí
cả
trượng
phu
Đạo
nên
trung
hiếu,
ân
thù
vẹn
hai
Trong
khi
khó
nhọc
mựa
nài
Sức
dùng
hà
đảm
Như
lai
viên
thành
.
Thật
là
minh
bạch.
Để
gánh
vác
(hà
đảm)
công
việc
của
Như
Lai
một
cách
thành
công
và
trọn
vẹn,
người
thiền
tử
phải
là
những
đấng
trượng
phu
có
trung
có
hiếu.
Mẫu
người
Phật
giáo
Việt
Nam
lý
tưởng
là
như
thế
đó.
Người
Phật
tử
Việt
Nam
không
chỉ
biết
nhắm
đến
giác
ngộ,
mà
còn
nhắm
đến
việc
giác
ngộ
trong
trung
hiếu.
và
tư
tưởng
này
cũng
không
phải
đến
thời
Minh
Châu
Hương
Hải
lần
đầu
tiên
đề
ra,
mà
trong
Lục
độ
tập
kinh
đã
nói
tới,
và
trong
Cư
trần
lạc
đạo
phú,
Trần
Nhân
Tông
[Lê
Mạnh
Thát,
Trần
Nhân
Tông
toàn
tập,
Tu
thư
Vạn
Hạnh,
1983
]đã
xác
định
một
cách
rõ
ràng
:
Sạch
giới
lòng,
chùi
giới
tướng
Nội
ngoại
nên
Bồ
tát
trang
nghiêm
Ngay
thờ
chúa,
thảo
thờ
cha
Đi
đỗ
mới
trượng
phu
trung
hiếu
Và
gần
Minh
Châu
Hương
Hải
hơn,
Thọ
Tiên
Diễn
Khánh
[Lê
Mạnh
Thát,
Thọ
Tiên
Diễn
Khánh
và
truyện
Nam
hải
Quan
Âm,
cảo
bản,
Tu
thư
Vạn
Hạnh
1982]khi
viết
Nam
hải
Quan
âm
Phật
sự
tích
ca,
đã
không
ngần
ngại
ngay
trong
câu
mở
đầu
đã
nói
lên
mẫu
người
lý
tưởng
Phật
giáo
Việt
Nam
này
:
Chân
như
đạo
Phật
rất
mầu
Tâm
trung
chữ
hiếu,
niệm
đầu
chữ
nhân
Hiếu
là
độ
được
đấng
thân
Nhân
là
vớt
hết
trầm
luân
mọi
loài
Giống
như
khái
niệm
nhân
nghĩa,
phạm
trù
trung
hiếu
không
phải
là
một
phạm
trù
Nho
giáo,
người
Việt
Nam
cũng
có
đạo
lý
trung
hiếu
trước
khi
tiếp
thu
đạo
Nho.
Cho
nên,
Phật
giáo
phối
hợp
tư
tưởng
trung
hiếu
của
người
Việt
Nam
với
lý
tưởng
Bồ
tát
của
mình
để
ta
có
một
mẫu
người
Phật
tử
Việt
Nam
mới,
người
Phật
tử
trung
hiếu.
Nếu
đem
những
tư
tưởng
này,
đặc
biệt
là
mẫu
người
Phật
giáo
thiền
tông
Việt
Nam,
ta
khó
tìm
được
những
tương
đương
ở
những
nơi
khác.
Yêu
cầu
thực
tiễn
của
dân
tộc
Việt
Nam
đòi
hỏi
Phật
giáo
Việt
Nam,
cụ
thể
là
thiền
tông
Việt
Nam,
phải
đề
cho
ra
được
một
mẫu
người
phù
hợp
với
thực
tiễn
dân
tộc
mình,
đáp
ứng
được
đòi
hỏi
của
thực
tiễn
ấy.
Cho
nên
thật
buồn
cười
và
dại
dột
khi
muốn
đem
những
phạm
trù
và
tư
tưởng
thiền
Trung
Quốc
áp
đặt
lên
thiền
Việt
Nam,
buộc
thiền
Việt
Nam
phải
có
những
nét
và
phẩm
chất
tương
tự
như
thiền
Trung
quốc
thì
mới
được
gọi
là
thiền.
Tại
sao
lại
phải
làm
thế?
Phật
giáo
Việt
Nam
chưa
bao
giờ
là
một
bản
sao
của
Phật
giáo
Trung
quốc,
chưa
bao
giờ
được
Phật
giáo
Trung
quốc
gầy
dựng
nên.
Ngược
lại,
trong
lịch
sử
Phật
giáo
Việt
Nam
đã
từng
gầy
dựng
nên
Phật
giáo
Trung
quốc.
Phải
nhận
thức
được
điều
này,
để
khi
đọc
Minh
Châu
Hương
Hải
ta
mới
không
ngỡ
ngàng
trước
tư
tưởng
và
mẫu
người
thiền
của
ông
.
3.
Nội
dung
thiền
Minh
Châu
Hương
Hải
Như
ta
đã
thấy,
khi
Minh
Châu
Hương
Hải
viết
Sự
lý
dung
thông,
thì
hai
phạm
trù
sự
và
lý
ông
dùng
ở
đây
không
phải
nằm
trong
quỹ
đạo
của
tư
tưởng
sự
lý
nổi
tiếng
của
tồn
phái
Hoa
Nghiêm
Trung
quốc.
Ngược
lại,
sự
và
lý
ở
đây
là
sự
và
lý
của
thiền
Việt
Nam.
Lý
thiền
đây
là
gì?
Nó
là
:
Máy
càn
khôn
một
bầu
thế
giới
Vốn
chứ
từng
thành
hoại
hư
không
Rừng
Nho
bể
thích
dung
thông
Linh
đài
vằng
vặc,
vừng
hồng
sáng
thanh
Bồ
đề
quả
mãn
viên
thành
A?
Quang
còn
nghĩ
thái
lành
muôn
duyên
Xưa
sau
thiên
thánh
vạn
hiền
Chứng
nên
thành
Phật
thành
tiên
một
lòng
Muôn
điều
ngàn
mối
rũ
xong
Hằng
sa
tính
đức
há
phòng
niệm
sinh
Lý
thiền
là
thế,
nghĩa
là
phải
kết
hợp
lý
luận
Nho
Phật
để
xây
dựng
một
mẫu
người
lý
tưởng
Bồ
tát
trung
hiếu,
còn
về
sự,
thì
mẫu
người
lý
tưởng
này
phải
:
Lý
hiểu
tường,
sự
giữ
tiệm
tu
Hằng
rèn
giới
hạnh
công
phu
Lên
đường
tinh
tấn
nhẫn
phù
yên
tâm
Vậy
về
sự
thì
bao
gồm
việc
tiệm
tu
giới
hạnh,
rõ
ràng
dù
nhận
mình
thuộc
thiền
phái
Tào
khê,
bởi
vì
:
Thiền
hà
muôn
phái
một
dòng
Tào
khê
Nhưng
Minh
Châu
Hương
Hải
vẫn
chủ
trương
tiệm
tu,
một
khái
niệm,
một
chủ
trương
nổi
tiếng
của
dòng
thiền
Thần
Tú,
đối
lập
lại
với
quan
điểm
đốn
giác
nổi
tiếng
của
thiền
phái
Tào
khê.
Như
thế,
dù
bản
thân
là
một
thiền
sư
dòng
Lâm
Tế
thuộc
thiền
phái
Tào
khê,
Minh
Châu
Hương
Hải
vẫn
không
chống
lại
mà
còn
cổ
suý
quan
điểm
tiệm
tu
của
Thần
Tú.
Tuy
nhiên,
quan
điểm
tiệm
tu
này
không
phải
hoàn
toàn
giống
với
Thần
Tú.
Thế
thì
nó
có
nội
dung
gì?
Nội
dung
này
ta
có
thể
thấy
dễ
dàng
qua
tên
đặt
cho
nơi
ở
của
ông,
đó
là
viện
Thiền
tịnh.
Nói
khác
đi,
thiền
của
ông
đã
kết
hợp
chặt
chẽ
với
tư
tưởng
Tịnh
độ,
mà
ông
nói
rõ
trong
Sự
lý
dung
thông
:
Chuyển
vô
minh,
bối
trần
hiệp
giác
Vui
về
bề
diệu
dược
Liên
bang
Tư
tưởng
tịnh
độ
(liên
bang)
được
ông
coi
là
một
thứ
thuốc
mầu,
điều
này
thể
hiện
rất
rõ
trong
việc
ông
đã
dịch
giải
các
kinh
A
Di
Đà,
Vô
lượng
thọ
và
Quán
Vô
lượng
thọ
cùng
việc
ông
soạn
Khoa
cúng
Cửu
phẩm.
Nhận
thức
này
từ
lâu
đã
được
lưu
hành
ít
lắm
là
từ
thời
Trần
Thái
Tông
trở
đi.
Nhưng
tiệm
tu
không
chỉ
bao
gồm
tư
tưởng,
mà
gồm
luôn
cả
một
số
cách
thực
hành
đi
đôi
với
tư
tưởng
ấy.
Cũng
trong
Sự
lý
dung
thông,
ông
đã
viết
:
Sạch
lời
đối
đãi
đua
tranh
Bẻ
rào
nhân
ngã,
tẩy
thành
mạn
nghi
Thanh
trần
gác
để
thị
phi
Tịnh
thân
khẩu
ý,
thanh
qui
làu
làu
Nết
hằn
trao
ngôn
từ
đức
hạnh
Trí
phen
đòi
lượng
thánh
hiền
xưa
Bữa
dùng
đạm
bạc
muối
dưa
Bả
bô
thường
tịnh,
sớm
trưa
khỏi
thì
Nội
dung
thiền
của
Minh
Châu
Hương
Hải
do
vậy
có
những
nét
riêng
của
nó
mà
ta
cần
lưu
ý
khi
tiếp
cận
các
tác
phẩm
của
ông
.
Những
bản
kinh
do
ông
dịch
giải
bằng
tiếng
Việt
bao
gồm
các
kinh
Pháp
Hoa,
Kim
cang,
Di
Đà,
Vô
lượng
thọ,
Địa
tạng,
Bát
nhã
tâm
kinh
và
Phật
tổ
tam
kinh.
Phật
tổ
tam
kinh
tức
các
kinh
Bát
đại
nhân
giác,
Tứ
thập
nhị
chương
và
Di
giaó
mà
các
dòng
thiền
Trung
quốc
thường
sử
dụng
cho
việc
học
tập
của
các
thiền
sinh
trong
các
thiền
viện
của
mình
[Mizuno
K.,Nakamura
H.
,
Hirakawa
A.
,
và
Tamashiro
K.,
Butten
kaitai
jiten,
Tokyo:
Shunjusha,
1998,
tr.75a].
Các
bộ
kinh
còn
lại
thì
qua
lịch
sử
cũng
được
các
dòng
thiền
Trung
quốc
cũng
như
Việt
Nam
quan
tâm
và
sử
dụng.
Chẳng
hạn
thiền
sư
Thông
Biện
(?-1134)
[Lê
Mạnh
Thát,
Nghiên
cứu
về
Thiền
uyển
tập
anh,
Nhà
xuất
bản
TpHCM
1999,
tr.205]
đã
nổi
tiếng
trì
kinh
Pháp
Hoa,
đến
nỗi
người
bấy
giờ
gọi
ông
là
Ngộ
Pháp
Hoa.
Rồi
hai
thiền
sư
Bảo
Tính
và
Minh
Tâm
[Lê
Mạnh
Thát,
Nghiên
cứu
về
Thiền
uyển
tập
anh,
tr.198]
tự
thiêu
vào
năm
1034
cũng
vì
kinh
này.
Kinh
Kim
Cang
thì
đã
nổi
tiếng
ở
Trung
quốc
với
Lục
tổ
Huệ
Năng
(638-713)
còn
ở
nước
ta
thì
Thanh
Biện
(?-686)
[Lê
Mạnh
Thát,
Nghiên
cứu
về
thiền
uyển
tập
anh,
tr.255]
là
người
đầu
tiên
chuyên
trì
tụng
kinh
Kim
Cang.
Sau
này
Trần
Thái
Tông
cũng
vì
"thường
đọc
kinh
Kim
cương
đến
câu
"Ưng
vô
sở
trụ
nhi
sanh
kỳ
tâm",
vừa
bỏ
sách
ngâm
nga,
bỗng
nhiên
tự
ngộ,
nhà
vua
bèn
đem
những
điều
giác
ngộ
được
và
làm
bài
ca
đề
tên
gọi
Thiền
tông
chỉ
nam",
[Lê
Mạnh
Thát,
Trần
Thái
Tông
toàn
tập,
Tu
thư
Vạn
Hạnh
1983,
tr.65]
Kinh
Di
Đà
và
Vô
lượng
thọ
tuy
cơ
bản
là
những
kinh
sách
gối
đầu
giường
của
người
tu
theo
pháp
môn
Tịnh
độ.
Tuy
nhiên,
ở
Trung
quốc
thì
từ
thời
Vĩnh
minh
Diên
Thọ,
một
tác
giả
mà
Minh
Châu
Hương
Hải
biết
tới
và
có
trích
dẫn
thơ,
người
ta
đã
nêu
cao
chủ
trương
kết
hợp
thiền
với
tịnh
độ,
để
cho
sự
tu
chứng
được
thành
tựu
mỹ
mãn.
Một
bài
thơ
của
Vĩnh
Minh
Diên
Thọ
đã
đề
cập
đến
tình
trạng
một
vạn
người
tu
thiền
chỉ
có
một
người
thành
tựu,
trong
khi
đó
nếu
kết
hợp
với
tịnh
độ
thì
cả
vạn
người
này
đều
thành
tựu
được
sự
nghiệp
tu
thiền
của
mình.
Thực
tế
tư
tưởng
tịnh
độ
và
thực
tiễn
tịnh
độ
xuất
hiện
rất
sớm
trong
lịch
sử
nước
ta.
Ngay
từ
những
năm
425,
Đàm
Hoằng
đã
từ
miền
Bắc
Trung
quốc
đến
chuyên
tu
pháp
môn
tịnh
độ
tại
chùa
Tiên
Sơn
ở
Bắc
Ninh,
đến
thời
Lý
tín
ngưỡng
A
di
đà
phát
triển
mạnh.
Có
những
ngôi
chùa
thiền
chỉ
thờ
tượng
Đức
Phật
A
di
đà
mà
thôi,
cụ
thể
là
chùa
Viên
Quang
của
thiền
sư
Giác
Hải
mà
may
mắn
tấm
bia
nhan
đề
"Viên
Quang
tự
bi
minh
tịnh
tự"
do
Dĩnh
Đạt
viết
vào
năm
Thiên
phù
duệ
vũ
thứ
ba
(1122)
hiện
đã
tìm
thấy
:"Thế
là
thợ
thuyền
họp
lại
như
mây,
gỗ
đá
chất
cao
như
núi,
búa
rìu
đẽo
gọt
mà
hoá
ra
cung
trời;
vàng
biếc
điểm
tô
mà
trở
nên
điền
báo.
Tọa
giữa
là
Giáo
chủ
Di
Đà
mắt
xanh
mày
trắng
lung
linh,
kế
bên
vẽ
hình
thượng
nhân
trụ
thế,
thân
gầy
mi
đậm
sờ
sờ…"Rồi
đến
Trần
Nhân
Tông
khi
viết
Cư
trần
lạc
đạo
phủ,
cũng
không
quên
căn
dặn
:
Tịnh
độ
là
lòng
trong
sạch
Chớ
còn
ngờ
hỏi
đến
Tây
phương
Di
Đà
là
tính
sáng
soi
Mựa
phải
nhọc
tìm
về
Cực
lạc
Chính
trong
truyền
thống
tư
tưởng
tịnh
độ
như
thế,
mà
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
cho
dịch
giải
Phật
thuyết
A
di
đà
kinh
sớ
sao,
mà
Hương
Hải
thiền
sư
ngữ
lục
gọi
là
Giải
Di
Đà
kinh
và
Giải
Vô
lượng
thọ
kinh.
Nói
tóm
lại,
khi
thích
giải
các
kinh
điển,
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
tiếp
thu
các
tư
tưởng
truyền
thống
thiền
Việt
Nam
để
tạo
cho
các
bản
thích
giải
này
một
sắc
diện
mới
trong
nhận
thức
kinh
điển
của
những
người
Phật
giáo
thiền
tông
nước
ta.
điều
đáng
tiếc
là
ngày
nay
các
bản
thích
giải
như
Giải
Địa
Tạng
kinh
hay
Giải
Phật
Tổ
tam
kinh
vẫn
chưa
được
tìm
ra.
Cho
nên,
ta
chưa
thể
lý
hội
hết
cách
xử
lý
của
Hương
Hải
như
thế
nào
đối
với
các
tín
ngưỡng
như
tín
ngưỡng
Địa
Tạng.
Cũng
thế,
đối
với
tín
ngưỡng
Dược
Sư
do
chưa
tìm
được
Soạn
cúng
Dược
sư,
ta
không
biết
ông
đã
có
quan
niệm
gì
về
Đức
Phật
này
với
tư
cách
là
một
thiền
sư.
Điểm
nổi
bật
vẫn
là
xuất
phát
từ
cái
nền
Phật
giáo
quyền
năng
hình
thành
vào
những
thế
kỷ
đầu
của
sự
có
mặt
Phật
giáo
tại
nước
ta,
những
người
Phật
giáo
thiền
tông
về
sau,
trong
đó
có
cả
Minh
Châu
Hương
Hải,
đã
xây
dựng
cho
mình
một
dòng
thiền
dân
tộc,
vừa
kết
hợp
tinh
hoa
của
Phật
giáo
thế
giới,
vừa
phát
huy
những
mặt
tích
cực
của
nền
Phật
giáo
quyền
năng
đó
.
Nội
dung
tư
tưởng
thiền
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
do
thế,
không
phải
tản
mạn,
như
nhan
đề
những
tác
phẩm
thích
giải
kinh
điển
của
ông
để
lại.
Trái
lại,
nó
có
tính
nhất
quán,
nhất
quán
ở
chỗ
vì
chủ
trương
"sự
giữ
tiệm
tu"
và
"hằng
rèn
giới
hạnh
công
phu"những
người
tu
thiền
theo
quan
điểm
Minh
Châu
Hương
Hải
có
thể
thực
hành
một
số
những
pháp
môn
khác
nhau
ngoài
những
lối
tu,
công
án
hay
mặc
chiếu,
mà
thiền
Trung
quốc
đã
đề
ra.
và
nó
cũng
nhất
quán
ở
chỗ
nó
đã
xuất
phát
từ
truyền
thống
thiền
tông
Việt
Nam
mà
vào
thời
ông
đã
có
một
bề
dày
lịch
sử
trên
cả
ngàn
năm,
và
đã
hình
thành
một
số
quan
điểm
và
phương
pháp
tu
hành
không
phải
hoàn
toàn
rập
khuôn
theo
quan
điểm
phương
pháp
tu
thiền
của
Trung
quốc.
Chính
trong
xu
thế
này
mà
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
phát
biểu
ý
kiến
của
mình
bằng
thơ
và
văn
tiếng
Việt
mà
hiện
tại
ta
đã
tìm
thấy
4
tác
phẩm
đã
nói
ở
trên
.
---o0o---
[Mục
lục] [Chương kế
]
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi
tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-02-2002