TOÀN
TẬP
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000
--o0o--
IV
VỊ
TRÍ
VĂN
HỌC
Việc
tồn
tại
các
kinh
điển
bằng
tiếng
Việt
theo
nghiên
cứu
của
chúng
tôi
đã
xuất
hiện
từ
lâu,
ngay
khi
những
lời
dạy
của
Đức
Phật
được
truyền
thụ
lại
cho
những
người
Phật
tử
Việt
Nam
như
Chử
Đồng
Tử
và
Tiên
Dung.
Điều
bất
hạnh
là
do
thiên
tai
địch
họa,
đặc
biệt
là
do
dã
tâm
diệt
chủng
văn
hoá
của
kẻ
thù,
số
kinh
điển
này
đã
không
được
bảo
lưu
cho
chúng
ta
ngày
nay
một
cách
nguyên
vẹn.
Dẫu
thế
chúng
ta
biết
một
số
chúng
đã
có
mặt
rất
sớm
như
Lục
độ
tập
kinh,
Cựu
tạp
thí
dụ
kinh,
Tạp
thí
dụ
kinh
v.v…Và
qua
những
năm
tháng
sau
đó
chắc
chắn
những
kinh
khác
cũng
đã
được
dịch
ra
tiếng
Việt
hoặc
từ
chữ
Phạn,
Pàli
hay
chữ
Hán,
nhưng
hầu
hết
đã
bị
tán
thất.
Bản
kinh
sớm
nhất
còn
nguyên
vẹn
bằng
tiếng
Việt
mà
ta
có
hiện
nay
là
Phật
thuyết
đại
báo
phụ
mẫu
ân
trọng
kinh
có
thể
coi
là
được
thiền
sư
Viên
Thái
(k.1400-1460)
dịch
vào
khoảng
giữa
những
năm
1440
khi
đất
nước
đang
nỗ
lực
dân
tộc
hoá
các
sinh
hoạt
văn
hoá
của
mình
sau
thời
gian
bị
giặc
Minh
chiếm
đóng.
Rồi
thiền
sư
Pháp
Tính
(k.1470-1550)
đã
mạnh
mẽ
hô
hào
việc
học
tập
tiếng
Việt
quốc
âm
:
Hồng
phúc
tên
Hương
Chân
Pháp
Tính
Bút
hoa
bèn
mới
đính
nên
thiên
Soạn
làm
chữ
cái
chữ
con
San
bản
lưu
truyền
ai
đặt
thì
thông…
Vốn
xưa
làm
nôm
xe
chữ
kép
Người
thiểu
học
khôn
biết
khôn
xem
Bây
chừ
nôn
dạy
chữ
đơn
Cho
người
mới
học
nghĩ
xem
nghĩ
nhuần
.
Trong
Chỉ
Nam
ngọc
âm
giải
nghĩa,
chính
trong
phong
trào
dân
tộc
hoá
đầy
khí
thế
này,
cả
một
cao
trào
sáng
tác
văn
học
bằng
chữ
Việt
mới
ra
đời,
và
được
bảo
lưu
cho
tới
ngày
nay
cho
những
tác
gia
lớn
như
Nguyễn
Trãi,
Viên
Thái,
Lê
Thánh
Tôn,
Pháp
Tính,
Nguyễn
Bỉnh
Khiêm,
Thọ
Tiên
Diễn
Khánh,
Phùng
Khắc
Khoan,
Lê
Đức
Mao,
Nguyễn
Giản
Thanh
v.v…Sinh
ra
và
lớn
lên
trong
khí
thế
của
một
cao
trào
đang
phát
triển
ồ
ạt
như
thế,
ta
không
lạ
gì
khi
hầu
như
toàn
bộ
tác
phẩm
của
Minh
Châu
Hương
Hải
đều
viết
bằng
tiếng
Việt.
Đây
là
một
đóng
góp
lớn
lao
của
Minh
Châu
Hương
Hải
đối
với
lịch
sử
văn
học
dân
tộc
ta,
đặc
biệt
là
đối
với
nền
văn
xuôi
Việt
Nam.
Lý
do
nằm
ở
chỗ
nhiều
người
quan
niệm
nền
văn
học
dân
tộc
ta
phần
lớn
gồm
những
truyện
thơ,
tức
là
các
loại
truyện
bằng
văn
vần
và
không
có
một
nền
văn
xuôi
hoàn
chỉnh.
Bây
giờ
với
việc
khám
phá
ra
bản
dịch
Phật
thuyết
đại
báo
phụ
mẫu
ân
trọng
kinh
và
Cổ
châu
Pháp
Vân
Phật
bản
hạnh
ngữ
lục
của
Viên
Thái
cùng
với
Tân
biên
truyền
kỳ
mạn
lục
giả
thiết
là
của
Nguyễn
Thế
Nghi
và
ba
bản
giải
kinh
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
tức
Giải
Kim
Cang
kinh
lý
nghĩa,
Giải
Di
Đà
kinh
và
Giải
Tâm
kinh
ngũ
chỉ,
ta
thấy
nền
văn
xuôi
Việt
Nam
đến
thế
kỷ
thứ
17
đã
phát
triển
rực
rỡ
và
phong
phú.
Tiếng
nói
dân
tộc
được
ghi
lại
một
cách
trung
thành,
sau
các
tác
phẩm
tiếng
Việt
đầu
tiên
hiện
còn
bảo
tồn
là
Cư
trần
lạc
đạo
của
Trần
Nhân
Tông
(1258-1308)
và
Vân
Yên
tự
phú
của
Huyền
Quang
(1251-1334)
.
Ngôn
ngữ
của
bản
kinh
giải
này
đã
đạt
đến
một
vẻ
đẹp
văn
học
nhất
định,
chúng
ta
hiện
có
thể
đọc
các
đoạn
văn
sau
đây
và
cảm
thấy
chúng
gần
gũi
với
tiếng
nói
chúng
ta
ngày
nay
như
thế
nào,
khi
Minh
Châu
Hương
Hải
giải
thích
bài
kệ
cuối
cùng
của
kinh
Kim
Cương
:
"Nhất
thiết
hữu
vi
pháp
Như
mộng
huyễn
bào
ảnh
Như
lộ
diệc
như
điện
Ư?g
tác
như
thị
quan
Hết
thảy
hữu
vi
pháp
là
trên
tự
thiên
địa
tạo
hoá,
dưới
đến
nhân
gian
vạn
vật,
dầu
sanh
lão
bệnh
tử,
giàu
khó
sang
hèn,
sĩ
nông
công
thương,
mọi
loài
sắc
vật,
dầu
nhẫn
xanh
vàng
thâm
trắng
thô
tế
thanh
trọc,
dầu
có
dầu
không,
dầu
hư
dầu
thiệt,
sâu
cạn
thấp
cao,
ách
thật
vọng
tâm
khởi
diệt.
Hết
thảy
thiện
ác
muôn
pháp
cũng
là
hưũ
vi
vậy
…"
Đọc
các
đoạn
văn
như
thế
này,
rõ
ràng
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
có
những
đóng
góp
mới.
Ông
đã
không
dùng
thủ
pháp
dịch
đuổi
mà
cho
đến
thời
ông
tương
đối
khá
phổ
biến
và
được
thử
thách,
thể
hiện
qua
các
công
trình
dịch
Phật
thuyết
đại
báo
phụ
mẫu
ân
trọng
kinh
và
Cổ
châu
Pháp
Vân
Phật
bản
hạnh
ngữ
lục
của
thiền
sư
Viên
Thái
thuộc
thế
kỷ
thứ
15
cũng
như
Tân
biên
truyền
kỳ
mạn
lục
của
Nguyễn
Thế
Nghi
thuộc
thế
kỷ
16.
Dịch
đuổi
là
dịch
theo
lối
chữ
nào
nghĩa
đó.
Trường
hợp
các
bản
thích
giải
của
Minh
Châu
Hương
Hải
không
thuộc
và
sử
dụng
thủ
pháp
ấy,
ông
đã
dựa
vào
một
câu
hay
đoạn
văn
chữ
Hán
rồi
giải
thích
bằng
tiếng
Việt
quốc
âm
theo
cách
hiểu
của
bản
thân
ông,
đây
có
thể
nói
là
một
đóng
góp
mới
đối
với
lịch
sử
văn
học
tiếng
Việt,
bởi
vì,
tiếng
Việt
văn
xuôi
được
dùng
một
cách
tự
nhiên,
không
bị
gò
bó
bởi
câu
chữ
của
nguyên
bản
tiếng
Hán.
Có
thể
nói
Minh
Châu
Hương
Hải
là
người
đầu
tiên
đã
ghi
lại
những
câu
nói
tiếng
Việt
bình
thường
của
người
Việt
Nam
vào
thời
ông
trong
khi
trao
đổi
ý
kiến
hay
giảng
giải
cho
nhau
nghe
về
những
vấn
đề
gì,
mà
họ
cảm
thấy
quan
tâm
hay
thích
thú.
Việc
này
giúp
ta
xoá
bỏ
vĩnh
viễn
thành
kiến
cho
rằng
văn
học
dân
tộc
ta
không
có
nền
văn
xuôi
cho
đến
thời
kỳ
mất
nước
của
thế
kỷ
20,
mà
trước
đây
thường
hay
rao
giảng
một
cách
vô
bằng
.
Điều
quan
trọng
hơn
nữa
là
văn
xuôi
hay
của
Minh
Châu
Hương
Hải
có
thể
nói
là
đại
biểu
cho
tiếng
nói
của
một
dân
tộc
thống
nhất
mà
vào
thời
ông
các
sử
sách
ta
thường
hay
đề
cập
đến
việc
chia
cắt
đất
nước
thành
hai
miền
khác
nhau,
và
các
nhà
lãnh
đạo
chính
trị
của
hai
miền
này
thường
được
giả
thiết
là
muốn
biến
thành
hai
nước
khác
nhau.
Thực
tế,
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
sinh
ra,
lớn
lên
và
thành
đạt
ở
miền
Nam
của
Tổ
quốc,
tức
tại
vùng
Trị
Thiên
và
Quảng
Nam
ngày
nay.
Rồi
sau
đó,
ông
đã
ra
sống
30
năm
cuối
cùng
của
đời
mình
tại
miền
Bắc,
ở
tỉnh
Hưng
Yên
hiện
tại.
Những
tác
phẩm
văn
xuôi
do
ông
để
lại
cho
chúng
ta
vì
thế,
thể
hiện
được
tiếng
nói
thống
nhất
của
cả
hai
miền
tổ
quốc.
Đây
là
một
đặc
điểm
khác
của
văn
xuôi
Minh
Châu
Hương
Hải,
mà
ta
cần
nghiên
cứu
sâu
hơn
để
hiểu
được
tiếng
nói
của
dân
tộc
ta
vào
thời
bấy
giờ.
Văn
xuôi
của
Minh
Châu
Hương
Hải
không
còn
là
loại
văn
xuôi
dịch
thuật,
mà
đã
bắt
đầu
buớc
qua
địa
hạt
văn
xuôi
sáng
tác,
dùng
văn
xuôi
tiếng
Việt
hàng
ngày
để
thể
hiện
tư
tưởng,
tình
cảm,
quan
điểm
của
mình,
để
vươn
lên
và
đạt
tới
một
nền
văn
xuôi
văn
học
.
Vậy
thì
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
có
một
vị
trí
xứng
đáng
trong
lịch
sử
văn
học
Việt
Nam,
người
mở
đầu
cho
nền
văn
xuôi
sáng
tác
tại
Việt
Nam,
mà
ta
hiện
biết.
Cho
nên,
phải
nói
rằng
Hương
Hải
mới
chính
là
người
đã
đặt
nền
móng
cho
nền
văn
xuôi
Việt
Nam
bằng
tiếng
Việt
chứ
không
phải
tác
giả
Truyền
kỳ
mạn
lục,
như
quan
điểm
của
các
sách
về
lịch
sử
văn
học
Việt
Nam
trước
đây.
Ai
đã
chịu
khó
đọc
sơ
qua
lịch
sử
văn
học
hiện
thực
Trung
quốc,
thì
cũng
biết
Nguyễn
Dữ
viết
Truyền
kỳ
mạn
lục
đã
mô
phỏng
theo
Tiễn
đăng
tân
thoại
của
Cù
Hựu
đời
Minh
Trung
quốc,
trong
đó
thậm
chí
có
truyện
đã
lấy
lại
hẳn
cốt
truyện
của
Cù
Hựu,
với
chỉ
một
vài
thay
đổi
về
nhân
danh
và
địa
danh.
Vì
vậy,
nói
đến
văn
xuôi
sáng
tác
tiếng
Việt,
ta
phải
coi
Minh
Châu
Hương
Hải
là
người
tiên
phong,
tối
thiểu
là
trong
lĩnh
vực
sở
trường
của
ông,
lĩnh
vực
tư
tưởng
Phật
giáo
và
sử
dụng
tiếng
nói
dân
tộc
.
Tất
nhiên,
tiếng
Việt
thời
Minh
Châu
Hương
Hải
cách
chúng
ta
gần
400
năm,
có
những
nét
đặc
thù
mà
khi
tiếp
cận
ta
cảm
thấy
khó
khăn
cho
việc
nhận
thức
và
lý
hội.
Chẳng
hạn
những
từ
như
bui
(
),
lệ
(
),
hợp
(
)
v.v…
với
nghĩa
chỉ,
sợ
và
nên
ngày
nay
không
còn
dùng
trong
tiếng
Việt
hiện
đại,
nhưng
không
phải
vì
thế
mà
ta
không
hiểu
tác
phẩm
văn
xuôi
của
ông.
Thực
tế,
như
đoạn
văn
xuôi
chúng
tôi
trích
ở
trên
cho
thấy
tiếng
Việt
thời
ông
không
xa
với
tiếng
nói
của
người
Việt
chúng
ta
ngày
nay
bao
nhiêu
.
Chúng
ta
hãy
đọc
một
đoạn
văn
mở
đầu
cho
bản
Giải
tâm
kinh
ngũ
chỉ
sau
đây
thì
cũng
có
thể
thấy
:"Nương
lời
trong
kinh,
dịch
rằng
Thích
Ca
Thế
Tôn
thuở
trú
trong
Linh
thứu
sơn,
vào
tọa
thiền,
nhập
Quang
minh
đại
định.
Khi
ấy
Xá
Lợi
Tử
bạch
Quán
Tự
Tại
Bồ
Tát
rằng
:"Dầu
có
chúng
sinh
tu
hành,
muốn
học
cửa
pháp
Bát
Nhã
thần
thông
vi
diệu,
rằng
làm
sao
cho
hiểu
thấu
được"Quán
Tự
Tại
Bồ
tát
bèn
dạy
bảo
Xá
Lợi
Tử
rằng
:"Thích
Ca
Thế
Tôn
diễn
thuyết
đại
bộ
Bát
Nhã
600
quyển.
Một
Bát
nhã
tâm
kinh
này
lấy
làm
chí
tinh
chí
yếu,
,
là
mẹ
đại
bộ
chư
kinh,
truyền
sang
Đông
Độ
đã
5
lần
dịch,
đến
đời
Đường
Huyền
Tráng
pháp
sư
lại
vâng
chiếu
dịch
truyền
để
Đông
Độ
lấy
làm
chính
giáo
thịnh
hành
…"
Đọc
đoạn
này,
tiếng
Việt
của
Minh
Châu
Hương
Hải
đâu
có
cách
xa
gì
với
tiếng
Việt
của
chúng
ta
hiện
nay.
Chỉ
có
vấn
đề
là
ông
đã
giới
hạn
việc
sử
dụng
tiếng
Việt
trong
việc
giải
thích
các
kinh
điển
Phật
giáo,
mà
không
mở
rộng
đến
các
lĩnh
vực
khác
của
đối
tượng
văn
học,
tất
nhiên
ta
không
thể
đòi
hỏi
nhiều
ở
Minh
Châu
Hương
Hải,
những
con
người
tiên
phong
.
Điểm
lôi
cuốn
hơn
nữa
là
Minh
Châu
Hương
Hải
không
phải
không
biết
làm
thơ
bằng
tiếng
Việt.
Sự
lý
dung
thông
là
một
điển
hình,
đây
là
một
bài
thơ
hay,
lời
lẽ
điêu
luyện,
hình
tượng
hấp
dẫn
dài
162
câu,
được
viết
theo
thể
song
thất
lục
bát,
đứng
vào
hàng
những
bài
thơ
song
thất
lục
bát
đầu
tiên
của
dân
tộc,
mở
đầu
cho
những
danh
tác
về
sau
như
Cung
oán
ngâm
khúc
của
Nguyễn
Gia
Thiều
và
Chinh
phụ
ngâm
của
Phan
Huy
Ích.
Vì
vậy,
việc
ông
dành
một
số
lớn
thời
gian
để
thích
giải
các
kinh
điển
Phật
giáo
bằng
văn
xuôi
tiếng
Việt
đã
chứng
tỏ
ông
có
một
niềm
đam
mê
và
yêu
mến
như
thế
nào
đó
đối
với
tiếng
nói
hằng
ngày
của
đồng
bào
mình.
Tình
cảm
nồng
đậm
này
phải
kể
là
một
điểm
son
khác
của
sự
nghiệp
Minh
Châu
Hương
Hải.
Sau
ông
vẫn
còn
tìm
thâý
những
người
Việt
Nam
khác
đã
dùng
thơ
truyện
để
diễn
giải
kinh
truyện
Phật
giáo
như
Chân
Nguyên
trong
Đạt
Na
thái
tử
hạnh,
Nam
hải
Quan
âm
bản
hạnh,
v.v…và
Pháp
Liên
trong
Pháp
Hoa
quốc
ngữ
kinh.
Thế
mà
vào
thời
mình,
ở
thế
kỷ
thứ
17,
Minh
Châu
Hương
Hải
đã
mạnh
dạn
giảng
giải
kinh
điển
cho
đồng
bào
mình
bằng
tiếng
nói
thường
ngày
của
họ.
Nói
khác
đi,
không
phải
Minh
Châu
Hương
Hải
không
có
tài
làm
thơ,
nên
ông
đã
dùng
văn
xuôi
để
viết
nên
các
tác
phẩm
của
mình.
Trái
lại
nữa
là
khác,
nhưng
ông
đã
viết
hầu
như
toàn
bộ
tác
phẩm
của
mình
bằng
văn
xuôi,
mà
hiện
tại
ta
đã
tìm
thấy
3
tác
phẩm,
thì
đó
là
một
biểu
hiện
tấm
lòng
yêu
mến
của
Minh
Châu
Hương
Hải
đối
với
tiếng
nói
thường
ngày
của
dân
tộc
ta.
Đây
là
một
số
những
thu
hoạch
sơ
bộ
của
chúng
tôi,
khi
nghiên
cứu
các
tác
phẩm
của
Minh
Châu
Hương
Hải,
để
cho
ra
đời
toàn
tập
này.
Chúng
ta
cần
nghiêm
chỉnh
tìm
hiểu
sâu
xa
hơn
để
xác
định
đúng
đắn
không
những
vị
trí
của
Minh
Châu
Hương
Hải
trong
lịch
sử
văn
học
dân
tộc,
mà
còn
để
làm
rõ
quá
trình
phát
triển
và
tiến
hoá
của
lịch
sử
văn
học
Việt
Nam,
giúp
cho
con
cháu
ta
nhận
thức
chính
xác
những
cống
hiến
to
lớn
của
tổ
tiên
trong
việc
giữ
gìn
và
bồi
đắp
tiếng
nói
của
dân
tộc.
Quá
trình
phát
triển
văn
học
dân
tộc
bằng
tiếng
Việt
là
một
quá
trình
đấu
tranh
cam
go,
khốc
liệt
chứ
không
phải
là
quá
trình
phát
triển
dễ
dàng
và
êm
thắm,
đặc
biệt
là
trong
lĩnh
vực
văn
xuôi.
Quá
trình
này
có
sự
đóng
góp
của
nhiều
người
qua
nhiều
thế
kỷ,
mà
ngày
nay
tác
phẩm
phần
lớn
đã
bị
thất
truyền,
từ
những
bản
kinh
đầu
tiên
thời
Hùng
vương
cho
đến
những
tác
phẩm
của
Từ
Đạo
Hạnh
v.v…cuối
cùng
đến
Trần
Nhân
Tông
và
Huyền
Quang,
chúng
ta
có
được
những
tác
phẩm
đầu
tiên
của
dân
tộc
được
bảo
tồn
nguyên
vẹn,
rồi
đến
Trần
Tùng
Quang,
Nguyễn
Biểu,
nhà
sư
chùa
An
Quốc,
Nguyễn
Trãi,
Viên
Thái
v.v…chúng
ta
có
một
loạt
những
tác
phẩm
văn
học
được
lưu
truyền
cho
đến
ngày
nay.
Tới
nhóm
thơ
Tao
Đàn
do
Lê
Thánh
Tôn
thành
lập
rồi
các
tác
phẩm
của
Pháp
Tính,
Nguyễn
Bỉnh
Khiêm,
v.v…cả
một
cao
trào
sử
dụng
tiếng
Việt
để
làm
thơ,
văn
đang
hừng
hực
vươn
lên
chiếm
lĩnh
vị
thế
chủ
đạo,
Pháp
Tính
đã
mạnh
dạn
nói
rằng
mình
đã
kế
thừa
sự
nghiệp
tự
điển
quốc
âm
của
Sĩ
nhiếp,
thiết
định
lại
chữ
viết
tiếng
quốc
âm
cho
mọi
người
dễ
học,
dễ
nhớ.
Nhưng
tất
cả
các
vị
này
hầu
hết
đều
bằng
tiếng
Việt
thơ
mà
không
phải
tiếng
Việt
văn
xuôi,
điều
này
ta
phải
đợi
đến
Minh
Châu
Hương
Hải
mới
có
được
những
thành
tựu
đầu
tiên
hiện
được
lưu
truyền.
Chúng
ta
cần
phải
trân
trọng
những
thành
tựu
đó
và
cần
nghiên
cứu
thêm
hơn
nữa
để
hiểu
biết
trọn
vẹn
hơn
quá
trình
phát
triển
của
lịch
sử
văn
học
dân
tộc
ta
.