Luận Chỉ Quán
Đại thừa Chỉ quán pháp môn:
Chỉ quán của đại thừa
HT. Thích Trí Quang
dịch giải
---o0o---
Mục
Lục
Phần I
Tôn giả Tuệ tư, có hiệu là Tư
đại thiền sư, do hoàng đế nhà Trần phong tặng. Nhưng thường lại
hay gọi là Nam nhạc tôn giả. Gọi như vậy là lấy chỗ ở mà gọi
người, trọng mà không gọi tên húy.
Tôn giả là trò của tôn giả Tuệ
văn, là thầy của đại sư Trí giả. Vị sau là người lập ra tông
Thiên thai (Pháp hoa), nên người ta tôn các tôn giả Tuệ văn và
Tuệ tư là sáng tổ của tông ấy.
Tôn giả có niên đại 515 - 577
dương lịch (2) , sống 63 tuổi âm lịch. Họ Lý, người Vũ tân, nay là
huyện Thượng thái, Hà nam. Sinh ngày 11 tháng 11 năm ất mùi, niên
hiệu Thiên giám thứ 14 của Lương Vũ đế, 515 dl. Mất ngày 22 tháng
6 năm đinh dậu, niên hiệu Thái kiến thứ 9 của Trần Tuyên đế, 577
dl.
Sáu mươi ba năm ở chốn Diêm phù
của tôn giả Tuệ tư có thể phân ra 5 thời kỳ.
Một, 1-6 tuổi, là thời kỳ thơ
ấu, không thấy tài liệu nào ghi chép gì về thời kỳ này. Thân
thế, cuộc sống và giáo dục của tôn giả trong thời kỳ này không
tìm thấy gì cả.
Hai, 7-14 tuổi, là thời kỳ tiền
xuất gia. Mộng thấy Phạn tăng khuyên nên thoát tục. Cảm vì lời
khuyên ấy nên từ thân, nhập đạo. Nhưng ngôi chùa tôn giả xin ở
lại không phải yên tĩnh. Rất yêu thích Pháp hoa, tôn giả tìm ở
chỗ mả trống, ở huyệt, ở thảo am, ngoài việc khất thực, ngày
đêm chuyên tâm trì tụng, không quan tâm ngủ nghỉ. Bị ẩm thấp phù
người, tôn giả vẫn nhịn đau mà tụng Pháp hoa, bịnh bỗng biến mất.
Trong mấy năm mà tụng được một ngàn biến. Mộng thấy đức Phổ
hiền xoa đầu, chỗ xoa nổi nhục kế. Văn tự chưa biết tự nhiên
biết được.
Ba, 15-20 tuổi, là thời kỳ xuất
gia. Thời kỳ này tôn giả tự ghi tụng Pháp hoa, tinh tiến, khổ
hạnh. Các tài liệu khác ghi rõ hơn. Thọ cụ túc giới rồi, mộng
thấy 32 vị Phạn tăng tác pháp kiết ma cho. Nương thân những nơi tĩnh
nhã. Ngày ăn một bữa. Không thọ biệt thỉnh. Mặc vải thô. Chống
lạnh với áo độn cỏ. Mộng thấy đức Di đà và đức Di lạc
thuyết pháp cho, nên tạo 2 tượng mà tôn thờ. Lại mộng thấy theo
đức Di lạc mà dự hội Long hoa. Nghĩ rằng trong mạt pháp của đức
Thích tôn, nhờ thọ trì Pháp hoa mà được thấy đức Từ tôn.
Cảm khái, khóc, và càng tinh tiến. Lại đọc kinh Diệu thắng định (3)
, nên ưa thích thiền định. Tìm yết kiến tôn giả Tuệ văn (4) ,
được truyền thọ cho pháp"nhất tâm tam quán". Pháp này
nguyên tôn giả Tuệ văn phát giác từ bài tụng sau đây, trong luận
Trung quán, của Long thọ đại sĩ (5) .
Các pháp duyên sinh
tôi nói là không
cũng nói là giả
đó là trung đạo (6) .
Tôn giả y chỉ tôn giả Tuệ văn,
bẩm thụ đại thừa. Tánh thích khổ hạnh, phục dịch tăng chúng,
đông cũng như hè, không kể khó nhọc. Ngày đêm nhiếp tâm định
ý. Trong mùa an cư, tôn giả rất mực tinh tiến tọa thiền, phát căn
bản thiền (7) , thấy được 3 đời tiền thân. Tinh tiến hơn nữa,
tôn giả đến ngộ Pháp hoa tam muội, pháp môn đại thừa nhất niệm
đổng triệt tất cả.
Bốn, 20-24 tuổi, là thời kỳ tạo
Bát nhã và Pháp hoa chữ vàng (8) . Bát nhã đây là Đại bát nhã
27 cuốn, cũng như Pháp hoa 7 cuốn, do ngài La thập dịch. Thời kỳ này
được chính tôn giả ghi khá rõ. Theo đó, năm 20 tuổi, vì muốn
thành tựu tuệ giác bồ đề cho chúng sinh, nên tôn giả khắp học
đại thừa với các đại thiền sư nước Tề (bấy giờ đúng ra
nên nói nước Lương). Thường ở rừng nội, kinh hành, tu định.
Năm 34 tuổi, tại Duyện châu, tôn giả bị đầu độc suýt chết, nên
phải bỏ ý định ban đầu muốn qua sông khắp học các vị đại thiền
sư (9) . Tôn giả trở lại Tín châu, diễn giảng Bát nhã, 3 năm
không ngừng. Từ 20 tuổi đến 38 tuổi, thường ở Hà nam, học tập
đại thừa, phụng sự chư vị đại thiền sư. Năm 39 tuổi, qua Dĩnh
châu diễn giảng Bát nhã. Tại đây lại bị đầu độc, đau đớn
hết sức, tôn giả sám hối chư Phật, nhất tâm niệm Bát nhã thì
lành. Năm 40 tuổi, đến chùa Khai nhạc ở Quảng châu, diễn giảng
Bát nhã. Năm 41 tuổi, đến núi Đại tô, cũng thuộc Quảng châu,
diễn giảng Bát nhã. Năm 42 tuổi, đến chùa Tây quan cũng thuộc
Quảng châu, diễn giảng Bát nhã, bị nhiều kẻ mưu sát. Tôn giả
khởi tâm đại bi, nguyện tạo Bát nhã và Pháp hoa chữ vàng. Năm
43 tuổi, đến Định châu, diễn giảng Bát nhã, bị phong tỏa thực
phẩm. Tôn giả lạinguyện vì những kẻ ác tâm và tất cả chúng
sinh mà tạo Bát nhã chữ vàng. Năm 44 tuổi, trở về núi Đại tô,
phổ cáo lời nguyện của mình, và rằng ai tạo được? Bấy giờ có
1 vị Tỷ kheo độtnhiên đến nói tạo được. Tôn giả liền phổ
khuyến tài bảo, mua vàng mà tạo kinh. Từ rằm tháng giêng đến 11
tháng 11 năm ấy tạo thành, hoàn mãn tâm nguyện. Tôn giã làm hộp
lưu ly mà tôn trí, và nguyện rằng Bát nhã chữ vàng ấy sẽ xuất
hiện khi đức Di lạc xuất thế tuyên dương kinh ấy.
Năm, 44-63 tuổi, là thời kỳ ở
Nam nhạc. Nhưng các năm 44-53 tuổi, không tài liệu nào ghi chép gì.
Dầu vậy, chắc chắn các năm ấy tôn giả vẫn ở núi Đại tô, và
truyện đại sư Trí giả ghi rằng, tại đây, đại sư đến yết kiết
cầu pháp với tôn giả. Cho đến ngày 22 tháng 6 năm mậu tí, tôn
giả 54 tuổi, thì đến núi Nam nhạc, nói với mọi người, rằng ở
10 năm rồi sẽ đi xa. Tại Nam nhạc, tôn giả chỉ 3 nơi, nói dưới
đó có xương cốt 3 đời của mình. Đào lên quả đúng. Tôn giả
dựng đài, diễn giảng Bát nhã. Kẻ ác mật vu tôn giả là gián
điệp của Hà bắc, nhưng rồi nhà Trần cũng không làm gì được
(10) . Ngày 22 tháng 6 năm đinh dậu, tôn giả nhập diệt, đúng với
số lượng 10 năm mà tôn giả đã nói trước. Trước đó, tôn
giả họp chúng, nói, nếu có 10 người bất kể tính mạng mà tu Pháp
hoa sám pháp hay Niệm Phật tam muội, thì tôi đích thân cung phụng
phục dịch, không thì tôi sẽ đi xa. Chúng không ai lên tiếng cả. Tôn
giả sau đó từ biệt, chánh niệm mà xả bỏ báo thân. Sau này,
luật tổ Đạo tuyên biên tập Tục cao tăng truyện, đến truyện của
tôn giả thì viết, tôn giả đầu có nhục kế, tai có trùng luân,
thắng tướng trang nghiêm. Phụng trì Bồ tát giới, không thọ biệt
thỉnh, không nhận biệt cúng. Mặc vải thô. Lạnh thì dùng áo độn
cỏ. Ăn ngày một bữa. Thường ở núi rừng. Đêm tư duy, ngày phu
diễn, phát ngôn sâu xa."Nhân định mà phát tuệ, điều này thấy
rõ nơi tôn giả Tuệ tư".
(1) Trung hoa có 2 nguồn Thiền. Có
nguồn Thiền rất nghiêm cẩn: khổ tu, tinh học, thực chứng. Có nguồn
Thiền linh hoạt, nhưng hay cuồng phóng, hoạt đầu -- nguồn Thiền mà
lịch sử bao giờ nói đến cũng nói Phật giáo thịnh vì đó là suy
vì đó. Tôn giả Tuệ tư, và luận Chỉ quán của tôn giả, là nguồn
Thiền thứ nhất. Việt Nam chỉ Khóa hư lục là có hơi hướng của
nguồn Thiền này.
Tôn giả Tuệ tư sinh vào thời
đại tổ sư Đạt ma đến Tàu, nơi đến cũng là Hà nam, năm 527.
Nhưng không có ảnh hưởng gì nơi tôn giả. Thiền của tôn giả cũng
không tạo ra con cháu như Lâm tế, mà con cháu của tôn giả là
Thiên thai.
(2) Thời đại của tôn giả Tuệ tư
sau Thắng man (435-443), nhưng cùng thời đại với Khởi tín (553) (1) và
Nhiếp luận (563). Quá rõ ràng để nói luận Chỉ quán chịu ảnh
hưởng của 3 thánh điển này (2) . Chịu ảnh hưởng, nhưng cũng quá
rõ ràng để nói, từ tư tưởng đến văn từ, luận Chỉ quán rất
có đặc sắc, và đặc sắc ấy thật độc đáo.
Ảnh hưởng của luận Chỉ quán thì
chỉ nói một điều rất nhỏ cũng đủ biết. Ấy là cái thuyết tính
dơ bẩn tính trong sạch (3) . Chính từ cái thuyết này mà có cái
thuyết tánh cụ, thuyết 10 pháp giới -- cái thuyết mà có kẻ đã
cho là có thể chủ trương tánh ác (dĩ nhiên không phải tánh ác
của Tuân tử). Thế nhưng ảnh hưởng của luận Chỉ quán không phải
chỉ là căn bản của toàn bộ tư tưởng Thiên thai tông, tư tưởng
nổi tiếng là đặc biệt của Trung hoa. Mà trong luận ấy đã thấy rõ
tư tưởng"sự sự vô ngại" của Hoa nghiêm tông.
(3) Nội dung luận Chỉ quán có 2
điều cần nói nhất. Thứ nhất, luôn luôn đề cao cái gọi là nhất
tâm (4) . Nhất tâm là xuất điểm mà cũng là qui điểm của chỉ
quán đại thừa. Thứ hai, ý thức là công cụ chính yếu của chỉ
quán đại thừa ấy. Chỉ quán là chỉ và quán nhất tâm, chỉ và
quán ấy là ý thức. Đó là cái Thiền của tôn giả Tuệ tư tu
tập, và "phương tiện chỉ dạy" qua luận Chỉ quán.
(4) Về nhất tâm, nên nói lại
chút ít. Nhất tâm là cái Tâm đồng nhất hay duy nhất. Nhưng luận
này chủ trương, và nói rõ, là cái Tâm duy nhất. Tôi dịch hay dùng
chữ Tâm mà thôi, nhưng có chỗ vẫn dịch đủ. Không cần phải nói
chủ thuyết luận này là duy tâm tuyệt đối, cái duy tâm của Phật
giáo ấy; mà nên chú ý sự đặc hữu của luận này trong những
danh từ liên hệ đến Tâm. Thídụ tâm thể (là bản thể của Tâm)
tâm tánh (là tính năng của Tâm) tịnh tâm (là tâm thể trong
sạch)...
*
Luận này tôi dịch và in năm 1951,
khi vào Nam lần đầu. Việc làm hơn 40 năm rồi thì phải chữa lại.
Lần này chữa lại, tôi vẫn lấy
Đại thừa chỉ quán pháp môn thích yếu và thuật ký (của các ngài
Trí húc và Đế nhàn) làm tài liệu. Phụ vào là bản dịch của
trưởng giả Tâm minh Lê đình Thám, và bản dịch 1951 của tôi (5) .
Cũng nên nói lại về cái tên
luận Chỉ quán. Đại thừa chỉ quán pháp môn (Chỉ quán của đại
thừa) là thể văn luận tạng, và rất xứng đáng để gọi là 1
bộ luận. Nên tôi đã để, và vẫn để, cái tên luận Chỉ quán
mà tôi đã đổi ra.
Trí Quang
Như Mặt Gương Sáng
Như mặt gương sáng, có đủ tính
năng của các loại hình ảnh, và biểu hiện được các loại hình
ảnh đó. Hiện cùng lúc, hiện trước sau, đều có. Toàn thể mặt
gương hiện một hình ảnh, toàn thể mặt gương hiện mọi hình ảnh.
Mọi hình ảnh không trở ngại gì nhau. Tâm cũng vậy. Luận này thỉ
chung nhất quán đưa ra cái Tâm mà, cho đến nay, không một kinh sách
nào tôi đọc, đã nói rõ cho bằng. Dưới đây là tóm tắt lý
thuyết về Tâm ấy.
Tâm Thể Nhất Vị
Tâm thể là bản thể của Tâm.
Tâm thể thì nhất vị (một mùi vị) bất nhị (không sai biệt) bình
đẳng (nơi chúng sinh hay nơi Phật hoàn toàn như nhau) vô tướng (siêu
việt hình tướng, khái niệm). Tâm thể hay được gọi là nhất tâm.
Nhất tâm là cái Tâm duy nhất ? hay là cái Tâm đồng nhất? Luận
này nói dứt khoát mà minh bạch."Hỏi, mỗi một chúng sinh mỗi
một đức Phật đều có một Tâm hay tất cả chúng sinh tất cả
đức Phật chỉ có một Tâm? Đáp, tất cả chúng sinh và tất cả
đức Phật chỉ cùng một Tâm". Tâm thể như mặt gương
vậy."Tâm thể trong lặng mà chiếu soi"."Tâm thể vốn đủ
2 trạng huống vắng lặng và hoạt dụng".
Tâm Tánh Duyên
Khởi
Tâm tánh của luận này là tính
năng của Tâm, không phải nghĩa thường là thể tánh của Tâm. Tính
năng của Tâm là như mặt gương có đủ tính năng của tất cả hình
ảnh nên biểu hiện được hình ảnh ấy. Tính năng của Tâm có 2
loại: tính thuận (tính thuận, thuận hợp với Tâm) tính tịnh (tính
trong sạch); tính trái (tính trái, chống trái với Tâm) tính nhiễm
(tính dơ bẩn). Như tính năng của mặt gương có thể biểu hiện hình
ảnh tốt hay hình ảnh xấu, nhưng tính năng chỉ là tính năng, chỉ là
nhất vị. Tính năng của Tâm cũng vậy, chỉ là nhất vị, không trở
ngại hay phá hoại lẫn nhau, đặc biệt không tính năng nào mất đi,
dầu ở giai đoạn chúng sinh hay giai đoạn chư Phật.
Tâm Dụng Nhiễm Tịnh
Tâm tánh do 2 loại tính năng nhiễm
tịnh mà, tùy sức mạnh của sự huân tập, biểu hiện 2 loại dụng:
dụng trái, dụng dơ bẩn, và dụng thuận, dụng trong sạch. Cũng như
mặt gương do có tính của hình ảnh xấu và tính của hình ảnh đẹp
mà biểu hiện được 2 loại hình ảnh ấy. Theo thuyết của luận này,
không những dụng trong sạch, dụng thuận, mới không bao giờ mất,
mà dụng dơ bẩn, dụng trái, cũng không bao giờ mất. Do vậy, Phật
có thuận hóa (sự biến thể và phương cách hóa độ thuận với
Tâm) và vi hóa (sự biến thể và phương cách hóa độ trái với
Tâm). Vi hóa là dụng trái, dụng dơ bẩn, mà ở chư Phật gọi là
diệu dụng bất tư nghị: biến thể đủ loại thân hình, cư trú đủ
loại thế giới, quyền hiện đủ loại công việc. Nếu tính trái mất
thì diệu dụng ấy làm sao có? nếu không phải là dụng trái thì
diệu dụng ấy là gì? Vậy cái phải mất chỉ là cái không thực,
đó là vô minh, là vọng tưởng và vọng cảnh của vô minh. Như một
kẻ lạc nhà, đi sai hướng, thì vấn đề không phải xoay nhà, đổi
hướng, đừng đi, mà vấn đề ở chỗ đừng lầm hướng nhà
nữa.
Pháp Giới Pháp Nhĩ
Danh từ pháp nhĩ không do luận này
sáng tác, nhưng được sử dụng như một lý thuyết. Pháp nhĩ là
ngữ khí, như nói thế đấy, vậy đó. Tôi để nguyên. Trưởng giả
Tâm minh dịch là bản nhiên.Tâm mà thể tánh dụng như trên là pháp
nhĩ, là pháp môn pháp giới. Có một pháp nhĩ mà luận này hay nói
là thường đồng thường biệt (thường duy nhất mà thường sai
biệt) Tâm thể duy nhất mà tâm tánh và tâm dụng sai biệt là pháp
nhĩ như vậy. Tâm thì tịch mà chiếu (vắng lặng mà chiếu soi) tịch mà
dụng (vắng lặng mà hoạt dụng) cũng là những pháp nhĩ mà luận
này hay nói.
Có Với Chẳng Có
Có là chẳng có, chẳng có là
có, hoặc có mà chẳng có, chẳng có mà có, 2 câu này luận này
nói khá nhiều mà vẫn không là sáo ngữ. Và thể tánh dụng của
Tâm là như vậy, Tâm là như vậy. Có là chẳng có, vì toàn là
tâm thể. Chẳng có mà có, vì tâm tánh duyên khởi. Câu một là
hệ Bát nhã. Câu hai là hệ Pháp tướng. Câu một là hệ tánh
không. Câu hai là hệ diệu hữu. Chỉ và Quán thì Chỉ là quán có
mà chẳng có, các pháp là tâm thể siêu việt; Quán là quán chẳng
có mà có, các pháp là tâm tánh duyên khởi.
Đại Dụng Chỉ Quán
"Tâm thể vốn đủ 2 trạng
huống vắng lặng và hoạt dụng". Chỉ làm cho vắng lặng thể hiện.
Quán làm cho hoạt dụng phong phú. Vắng lặng là tự lợi. Hoạt dụng
là lợi tha.
Vai Tuồng Ý Thức
Luận này cũng cho ý thức là
công cụ để tu chỉ quán. Nhưng ý thức, qua chỉ quán, trước hết
là khả năng biết pháp biết nghĩa, kế đến thành vô trần trí, rồi
thành vô ngại trí, sau hết chính nó làm cho bản thức thành vô
phân biệt trí.
Bước Đầu Chỉ
Quán
Luận này sử dụng những danh từ
chống lại, cưỡng lại, để nói ý chí phản tỉnh. Và đó là công
phu quan trọng trong bước đầu. Bước đầu hơn nữa là phát nguyện,
rồi tập Chỉ, rồi khởi Quán. Tối quan trọng trong bước đầu là
biết tin vào giáo lý mà tự biết tâm thức của mình là mê lầm,
"không còn tự cho tâm thức của mình là không mê lầm
nữa". Và từ đó mà bắt đầu đi,"đừng khinh thường bản
thân, cũng đừng khinh thường người".
*
Hãy tạm ngưng sự quan sát nội dung
luận này ở đây. Nay, hãy tạm quan sát ngoại hình của luận này.
Chỉ Quán 3 Tánh
Luận này phần chính có 5 chương.
Tựu trung, chương 1 nói lý thuyết của chỉ quán, 4 chương còn lại
toàn nói trạng huống chỉ quán.Trong đó đặc biệt phải nói là 3
tánh. Vào thời tôn giả Tuệ tư, 3 tánh được dịch là phân biệt y
tha và chân thật. Thế nhưng trong luận này thì 3 tánh là 3 tánh của
tôn giả. Nhất là tánh phân biệt. Tôn giả định nghĩa phân biệt
là"đối lại với trí vô phân biệt", và nói tất cả cái
dụng lợi tha của Phật chính là phân biệt phần trong sạch. Thiên thai
tông của Tàu được tiếng là tư tưởng đặc hữu của Tàu. Điều
đó có phần đúng. Nhưng sự đặc hữu ấy không khỏi có vết đen
trên áo trắng. Ấy là do"vọng văn sinh nghĩa". Nên, cho đến
nay,"tất đàn nghĩa là biến thí", ngày càng là chuyện buồn
cười. Tuệ tư tôn giả vọng văn sinh nghĩa không ít trong luận này.
Nhưng lối sinh nghĩa của tôn giả rất khó, đến nỗi không thể, cho
là suy diễn sai lầm. Luận này đầy những sinh nghĩa của tôn giả,
nhưng là sinh nghĩa đầy tính thuyết phục.
Về Khởi Tín Luận
Lương Khải Siêu tập hợp kiến
giải của học giả Nhật chứng minh Khởi tín luận là sáng tác của
Tàu. Kiến giải ấy như thế nào, tôi chưa được đọc nên chưa
biết. Nhưng về Lương Khải Siêu tôi đã có kinh nghiệm, khi làm việc
cho kinh Tứ thập nhị chương. Ông cực lực bài xích thời đại kinh
ấy theo thuyết xưa. Thế nhưng bản văn ông căn cứ để nói là bản
hiện hành. Ông hoàn toàn không tra đọc kinh ấy ngay trong Đại tạng
bản Đại chính!
Luận này liên quan đến Khởi tín
thì khỏi nói. Chỉ nói sự liên quan ấy tất chứng minh được thời
đại của luận ấy - thời đại ngài Chânđế phiên dịch Khởi tín.
Một chi tiết nhỏ mà khiến tôi ngờ vực không ít, ấy là 1 trong
những câu của luận ấy mà luận này trích dẫn. Xin coi ghi chú số 59
thì biết. Phát giác này đặt ra, ít nhất là sự thận trọng, đối
với văn tự của Khởi tín luận.
Nên Có Hay Không?
Luận này chương 1 của phần chính
từ từ đưa người đọc thấy thật rõ cái Tâm duy nhất, bản thể
của Chỉ Quán. Trong 4 chương tiếp theo, chỉ đọc không thôi mà càng
lúc càng thấy như đang Chỉ Quán thật sự. Trong phần kết, gồm 3
chương ngắn, tiêu đề"chỉ việc' thì rất phải: phải cho thấy Chỉ
Quán, ngoài thì khóa tịnh tu, cần phải có trong sinh hoạt bình thường
là lễ bái, ăn uống, tiện lợi. Sinh hoạt bình thường trọng nhất
như lễ bái, khinh nhất như tiện lợi, đều phải có Chỉ Quán. Thế
nhưng, theo thiển ý, bất cứ lúc nào, việc gì, cũng xét "chẳng
có mà có" để sinh hoạt, "có mà chẳng có" để hội
qui. Thế cũng đủ. Vừa khỏi phải phân tâm, vừa khỏi một cái gì
có vẻ không nên có như 3 chương ấy, nhất là chương cuối, nói.
Cảnh cáo cần ghi Rất nên sao lục lại ở đây lời tôn giả Tuệ
tư cảnh cáo về thiền bịnh của những kẻ dám tự xưng thiền sư.
"Chỉ vì chuyên tâm vào sự không nghĩ, lấy sự không nghĩ ấy
làm đối tượng, ý thức bị đối tượng này ràng buộc nên không
còn vin theo những đối cảnh khác. Kẻ lầm lẫn không biết như vậy
nên bảo rằng đó là không còn vin theo các pháp, và sinh ra một
cách sâu xa ý tưởng quí báu cho là chân thật. Do vậy mà thúc
dục tâm ý tiếp tục không ngừng. Rồi ngày đêm luyện tập, lâu
ngày thuần thục, không còn tác ý, và cứ tự nhiên mà đi tới.
Thế nhưng họ không biết sự sinh diệt vẫn thường xuyên liên tục,
vẫn thường xuyên nổi lên trong từng sát na, nổi lên mà không
biết; vô minh vọng tưởng chưa loại bỏ mảy may; lại không biết bản
thân đứng vào vị trí nào; thế mà bảo rằng tâm tôi đứng vào
trong sự vắng lặng, sự vắng lặng này là chân như tam muội! Bảo
như vậy thì thật không biết phận mình!".
Nhân Định Phát Tuệ
Luật tổ Đạo tuyên viết về tôn
giả Tuệ tư như sau, xin coi lại lược truyện: "Phụng trì Bồ tát
giới, không thọ biệt thỉnh, không nhận biệt cúng. Mặc vải thô.
Lạnh thì dùng áo độn cỏ. Ăn ngày 1 bữa. Thường ở núi rừng.
Đêm tư duy, ngày phu diễn, phát ngôn xâu xa. Nhân định mà phát
tuệ, điều này thấy rõ nơi tôn giả Tuệ tư". Thiền của tôn
giả Tuệ tư là khổ tu, tinh học, thực chứng. Luận này cho thấy rõ
như vậy. Phi "nhân định mà phát tuệ", không thể nói gì gọi
là đáng nói về luận này. Suốt 5 chương về Chỉ Quán, đặc biệt 4
chương sau, rõ ràng như phơi bày trên giấy sự tinh tu thực chứng
của tôn giả Tuệ tư.
Trí Quang
Mục Lục |
Xem tiếp
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn ĐĐ Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử
này
Cập nhật ngày: 01-05-2001