PHỤ
LỤC 1
(TUỆ
SỸ)
1.
Bản phiên âm Phạn-Hán
Taishō
No. 256
2.
Hán dịch của Cưu-ma-la-thập
MA-HA
BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT ĐẠI MINH CHÚ KINH
摩訶般若波羅蜜大明咒經
(Taishō
No 250)
姚秦天竺三藏鳩摩羅什譯
觀世音菩薩。行深般若波羅蜜時。照見五陰空。度一切苦厄。舍利弗色空故無惱壞相。受空故無受相。想空故無知相。行空故無作相。識空故無覺相。何以故。舍利弗非色異空。非空異色。色即是空。空即是色。受想行識亦如是。舍利弗是諸法空相。不生不滅。不垢不淨。不增不減。是空法。非過去非未來非現在。是故空中。無色無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界乃至無意識界。無無明亦無無明盡。乃至無老死無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩薩依般若波羅蜜故。心無罣礙。無罣礙故無有恐怖。離一切顛倒夢想苦惱。究竟涅槃。三世諸佛依般若波羅蜜故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜是大明咒。無上明咒。無等等明咒。能除一切苦真實不虛故說般若波羅蜜咒即說咒曰。
竭帝竭帝 波羅竭帝 波羅僧竭帝 菩提僧莎呵。 摩訶般若波羅蜜大明咒經。
--------------------------------------------------------------------------------
3.
Việt dịch theo bản Hán của Cưu-ma-la-thập
A.
Phiên âm Hán-Việt
Quán
Thế Âm Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật thời, chiếu
kiến ngũ ấm Không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-lợi-phất,
sắc không cố vô não hoại tướng; thọ không cố vô thọ
tướng; tưởng không cố vô tri tướng; hành không cố vô
tác tướng; thức không cố vô giác tướng. Hà dĩ cố? Xá-lợi-phất,
phi sắc dị không, phi không dị sắc; sắc tức thị không,
không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc như thị.
Xá-lợi-phất,
thị chư pháp không tướng bất sinh, bất diệt, bất cấu,
bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị không pháp phi quá khứ,
phi vị lai, phi hiện tại. Thị cố, không trung vô sắc; vô
thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi
chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi
chí vô lão tử, vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo;
vô trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố.
Bồ-tát
y Bát-nhã ba-la-mật cố tâm vô quái ngại; tâm vô quái ngại
cố vô hữu khủng bố, ly nhất thiết điên đảo mộng tưởng
khổ não, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phât y Bát-nhã ba-la-mật
cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Cố
trí Bát-nhã ba-la-mật thị đại minh chú, vô thượng minh chú,
vô đẳng đẳng minh chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân
thật, bất hư cố; thuyết Bát-nhã ba-la-mật chú. Tức thuyết
chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế,
bồ-đề tăng sa-ha.
B.
Việt dịch
Bồ-tát
Quán Thế Âm, khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, soi
thấy năm ấm là Không, vượt qua tất cả khổ ách.
Xá-lợi-phất,
sắc là Không cho nên không có tướng não hoại;[62] thọ là
Không nên không có tướng cảm thọ;[63] tưởng là Không nên
không có tướng tri nhận;[64] hành là Không nên không có tướng
tạo tác;[65] thức là không nên không có tướng giác tri.[66]
Vì sao vậy? Xá-lợi-phất, không phải rằng sắc khác Không;
không phải rằng Không khác sắc; Không tức thị sắc, sắc
tức thị Không; thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.
Xá-lợi-phất,
tướng Không của các pháp ấy không sinh,[67] không diệt, không
cấu, không tịnh, không tăng, không giảm, không phải quá khứ,
không phải vị lai, không phải hiện tại. Cho nên, trong Không
không có sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đến không có giới
của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự diệt tận
của vô minh, cho đến, không có già và chết, không có sự
diệt tận của già và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo;
không có trí, cũng không có đắc. Vì vô sở đắc.
Bồ-tát
do y chỉ Bát-nhã ba-la-mât mà tâm không bị bưng kín; do không
bị bưng kín nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả sự
điên đảo, mộng tưởng, khổ não, đạt đến cứu cánh Niết-bàn.
Chư Phật trong ba đời do y chỉ Bát-nhã ba-la-mật mà chứng
đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Do
đó nên biết, Bát-nhã ba-la-mật là minh chú vĩ đại, là minh
chú tối thượng, là minh chú không gì có thể sánh, diệt
trừ tất cả khổ, chân thật, vì không hư dối; được gọi
là chú Bát-nhã ba-la-mật. Tức thuyết chú rằng: yết-đế,
yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề tăng
sa-ha.
III.
PHÂN TÍCH TÂM KINH
Như
nhan đề chứng tỏ, Tâm kinh Bát-nhã được cho là làm tâm
điểm hay tâm tủy (hṛdaya) của bộ kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Vậy, vấn đề là: Có thực nó mang tinh yếu của bộ kinh
vĩ đại đó? Hay nó chứa đựng một yếu tố ngoại lai nào?
Nếu nó chứa đựng yếu tố ngoại lai hay một yếu tố nào
khác hơn tự thân của Bát-nhã ba-la-mật-đa, chúng ta phải
cố gắng minh giải điều đó, nghĩa là, chúng ta phải thấy
rằng yếu tố ngoại lai này cũng thực sự nằm trong bộ loại
Bát-nhã, đồng thời xác minh yêu cầu của nó là cung cấp
chúng ta hạch tâm của khối văn học đồ sộ này. Vậy, ta
thử khảo sát Tâm kinh như chúng ta đang có ở đây.
Điểm
trước hết, trong giới hạn mà chúng ta có thể quả quyết,
Bồ-tát Quán Tự tại (Bodhisattva Avalokiteśvara) không xuất
hiện trong bất cứ kinh nào thuộc văn hệ Bát-nhã (prajñāpāramitāsūtra),
với nhiều tác phẩm như Śatasāhasrakā,[68]Pañcaviṁśatisāhasrikā,[69]
Aṣṭasāhasrikā,[70] Saptaśatikā,[71] v.v… trong tiếng Sanskrit
và bộ Đại Bát-nhã (Mahāprajñāpāramitā) [72] gồm sáu trăm
quyển trong Hán văn và các tác phẩm tương đương trong Tạng
văn. Theo đó, chúng ta có thể nói Tâm kinh là một sản phẩm
hậu kỳ, và trong đó có pha trộn các yếu tố ngoại lai.
Tuy nhiên, đây không phải là điểm chính mà tôi muốn thảo
luận trong thiên luận này. Trong Tâm kinh, còn có một điểm
khác, ngoài điểm đề cập đến Quán Tự tại; điểm ấy
mới làm chúng ta ngờ là một sản phẩm hậu kỳ. Tôi muốn
nói tới việc Bát-nhã ba-la-mật được đồng nhất với câu
thần chú (mantra) kết thúc cho bài pháp của Quán Tự Tại
về tính Không. Văn học Bát-nhã đặc biệt không bị chi phối
bởi sự xâm nhập của các công thức ma thuật như Minh chú
(vidyā), Mật chú (mantra), hay Tổng trì (dharāṇī). Sự thực
rằng tự thân Bát-nhã được coi như là Đại minh chú trong
kinh văn, nhưng không đề ra những Mật chú (mantra) riêng biệt
nào, và đó mới đích xác là trường hợp của Tâm kinh. Vì
rằng, trong Tâm kinh, có một câu thần chú (mantra) đặc biệt
được mệnh danh là “Bát-nhã ba-la-mật-đa,” gồm những
cụm từ này: “Gate, gate, Paragate, Parasaṁgate, Bodhi, svāha.”
Lối xen kẽ đó hoàn toàn mới mẻ, cần phải đặc biệt
lưu ý.
Nhớ
kỹ hai điểm này: sự xuất hiện của ngài Quán Tự Tại
và sự xâm nhập của Mật chú, chúng ta thử phân tích nội
dung của chính bản kinh.
Thoạt
tiên, cái gây chú ý nhất trong khi theo dõi bản văn là, hầu
như không có gì hết ngoài một tràng phủ định, và điều
được mệnh danh là tính Không thì là phủ định luận thuần
túy, nó giản lược kỳ cùng tất cả vào cái Không. Thế
thì, kết luận sẽ là, Bát-nhã ba-la-mật, hay sự tu tập Bát-nhã,
cốt yếu là phủ định tất cả. Phủ định năm uẩn (skandha);
phủ định 18 giới (dhātu); phủ định 12 xứ (āyatana); phủ
định 12 chi duyên khởi; phủ định 4 Thánh đế. Và cuối
điểm của hết thảy những phủ định này, không có trí
hay đắc gì cả. Đắc (prāpti hay labdhi) có nghĩa là chú tâm
vào và giữ chặt lấy sở tri vốn là kết quả từ suy luận
đối đãi. Vì không có thứ đắc nào có bản chất như vậy
cả, nên tâm hoàn toàn vượt qua mọi chướng ngại tức những
sai lầm và mê vọng khởi lên từ tác dụng trí năng, và vượt
luôn những chướng ngại bắt rễ trong thức truy nhận và
cảm quan của chúng ta, như sợ hãi và bàng hoàng, vui vẻ và
buồn phiền, phóng đãng và đam mê. Khi chứng được như thế,
là đã đạt tới Niết-bàn. Niết-bàn và giác ngộ (sambodhi)
là một. Vậy ra, do từ Bát-nhã ba-la-mật mà hiện khởi hết
thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Bát-nhã
ba-la-mật-đa là mẹ của Phật đạo và Bồ-tát đạo, điều
đó thường xuyên được nhắc nhở trong văn học Bát-nhã.
Đến
đây, chúng ta có thể nói, Tâm kinh hoàn toàn phù hợp với
tinh thần của các kinh điển Bát-nhã ba-la-mật. Khởi đầu
với các phủ định, rồi chấm dứt với một khẳng định,
mà trong thuật ngữ Phật giáo gọi là “Giác ngộ.” Ý niệm
về tính Không có thể làm khiếp đảm kẻ sơ cơ, bởi người
ta thường có thói quen coi nó như một thứ hư vô hóa toàn
triệt, nhất là khi Tâm kinh có vẻ chỉ là chuỗi phủ định.
Nhưng, vì chuỗi phủ định này cuối cùng đưa chúng ta tới
cái quyết định, mặc dù cái đó không hẳn là xác quyết
theo nghĩa thông thường. Tâm kinh rồi ra không phải là một
Thánh kinh của hư vô chủ nghĩa. Bát-nhã ba-la-mật, làm được
sự kỳ diệu đó, tức diễn dịch hay dẫn khởi một xác
quyết từ những phủ định vô địch, cho nên đáng được
coi như một đại thần chú vô song, vô đẳng đẳng chú. Nói
một cách thông thường, Tâm kinh phải đúc kết bằng câu
đó; bài pháp của ngài Quán Tự Tại giảng cho Xá-lợi-phất
tiến tới kết luận đương nhiên của nó; khỏi cần phải
đi xa hơn nữa, và khỏi phải tuyên bố cứ như hát kịch
rằng thần chú đó là “Gate, gate, v.v….”
Có
thể hiểu tại sao nói Bát-nhã ba-la-mật-đa là một đại
thần chú, nhưng nói rằng Đại Bát-nhã thần chú đó là “Gate,
gate…”, thì hình như không có nghĩa gì hết. Những gì đã
sáng tỏ và hợp lý, đến đây bỗng trở thành một sự biến
hóa thần kỳ. Tâm kinh chuyển thành một bản văn chú thuật
thần bí. Cái này có vẻ là một sự thoái hóa hay một sự
suy sụp. Đâu là ý nghĩa của biến thái đột ngột? Hoặc,
tại sao có sự vô nghĩa này?
Cái
gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa thần chú, nếu dịch ra, có nghĩa:
“Hỡi Trí tuệ, đi qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, đi qua đến
bờ bên kia svāhā!” Svāhā là lời chúc lành, lúc nào cũng
nằm ở đoạn cuối của một mantra hay dhāraṇi. Sự xướng
xuất đó có can dự gì tới việc tu tập Bát-nhã ba-la-mật
sâu thẳm? Đại khái người ta cho là, mỗi khi được đọc
lên, mantra hay dhāraṇī tạo nên những phép lạ. Trong trường
hợp này, hiệu quả linh nghiệm do đọc “gate!” phải là
sự chứng đắc Giác ngộ. Vậy, chúng ta có thể nói, cùng
đích của môn Phật học khả dĩ đạt được chỉ cần do
cái câu thần bí đó? Đối với Tâm kinh, đương nhiên đấy
là lời kết, vì ở đây không thể có suy luận nào khác.
Làm thế nào người ta có thể đồng nhất Bát-nhã với câu
chú “Gate!” ?
Chúng
ta có thể thấy, các tín đồ Chân tông nhận Tâm kinh làm
một trong các kinh chính của họ quá dễ dàng và tự nhiên.
Nhưng làm sao Thiền cũng đã từng đọc nó trong khoá tụng
hằng ngày? Ý niệm về Chân ngôn (mantra) khá xa lạ đối với
Thiền đồ. Từ triết học về tính Không và Chính giác (sambodhi),
chuyển hướng đến một tôn giáo của chú thuật, không dễ
gì chấp nhận nổi.
Sự
kiện khác, làm cho hiện diện của Mantra trong Tâm kinh càng
huyễn hoặc hơn, là bài chú (mantra) kết thúc luôn luôn được
đọc theo lối không dịch nghĩa, làm như âm hưởng đích thực
của lối dịch âm Phạn Hán là một nhân tố tạo nên phép
lạ. Các thần chú không bao giờ được dịch nghĩa sang Hán
văn. Đây là một cách rất tự nhiên. Nếu các câu đó không
sao hiểu nổi, và chúng cố để cho không thể hiểu, chúng
càng khó hiểu, vì cứ để y nguyên văn, thì uy lực mầu nhiệm
ẩn náu đằng sau lại càng có hiệu nghiệm. Nhưng, tại sao
trong Thiền lại cần có cái thứ không hiểu nổi? Không hiểu
nổi không phải là không đạt tới nổi (bất khả đắc)
vốn là điều mà Kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa nói đến nhiều.
Chắc
chắn, trong dòng phát triển của nó tại Trung hoa, Thiền đã
thâu nhận khá nhiều thông lệ của Chân ngôn tông, và trong
nghi lễ của nó có nhiều Thần chú và nhiều Đà la ni thực
sự của Chân ngôn tông. Vì lý do đó, tôi nghĩ rằng, sự
phát sinh của Tâm kinh thuộc vào một thời kỳ trễ hơn toàn
thể bộ phận của chính văn học Bát-nhã. Dù vậy, đâu là
ý nghĩa của câu thần chú “Gate!” trong Tâm kinh, một trong
số các kinh văn quan trọng nhất trong giáo pháp của Thiền?
Nếu câu thần chú giữ một địa vị lưng chừng trong kinh,
mặc dù trong một tác phẩm ngắn loại này khó mà tìm thấy
ngay tại chỗ có cái quan trọng nào thứ yếu hơn, thì câu
hỏi về ý nghĩa của thần chú có lẽ không là vấn đề
trọng đại. Nhưng, một độc giả dù khinh suất cũng nhận
thấy ngay địa vị rất nổi bật mà thần chú đã chiếm
cứ trong sự tiến triển của học thuyết Bát-nhã. Sự thực,
hình như toàn thể bản kinh được viết ra vì câu thần chú
đó, và không có gì khác hơn. Nếu vậy, rồi ra đâu là ý
nghĩa của thần chú, ngoài nghĩa đen của nó? Tại sao nó là
cao điểm của toàn bộ phủ định trong Tâm kinh?
Theo
ý tôi, giải quyết lẽ thần bí này không những là chìa khóa
để thấu hiểu toàn bộ triết lý Bát-nhã, mà còn hiểu luôn
cả mối quan hệ chính yếu của nó đối với Thiền. Vì vậy
tôi đã nói nhiều về sự xen kẽ của thần chú trong Tâm
kinh.
Trước
khi thần chú “gate!” vén mở bí mật của nó trong liên hệ
với học thuyết về Không và Giác ngộ, cũng nên nghiệm xem
các giáo thuyết cốt yếu của kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa là
gì. Hiểu được cái đó, sẽ dễ định giá Tâm kinh hơn,
nhất là trong quan hệ tất yếu với kinh nghiệm của Thiền.[73]
Sau
khi nhận xét về kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa trong các trang tiếp
theo đây, chúng ta sẽ có thể thấy rằng, giáo nghĩa của
Tâm kinh có chỗ phù hợp và có chỗ không với các bản kinh
chính yếu của Bát-nhã. Phù hợp ở chỗ cả hai đều lấy
Trí Bát-nhã làm căn nguyên của giác ngộ Phật đạo, và không
phù hợp ở chỗ Tâm kinh hoàn toàn nhấn mạnh trên câu thần
chú “Gate!.” Sắc thái này vắng mặt hẳn trong các bản
kinh chính yếu của bộ Bát-nhã. Trong Tâm kinh, việc tụ tập
Bát-nhã ba-la-mật-đa được đồng hóa với việc tụng đọc
thần chú.
Theo
sự ghi chép của chính ngài Huyền Trang, không phải đọc thần
chú, mà là đọc trọn cả Tâm kinh theo chỉ dạy của đức
Quán Tự Tại; Ngài xuất hiện qua hóa thân vào lúc Huyền
Trang đang trên đường đi Ấn độ. Huyền Trang được dạy
đọc kinh này mỗi khi gặp những gian nan và tân khổ qua những
cảnh hoang dã bị bao phủ trong tuyết lạnh, bị cuốn bởi
những ngọn gió lốc ào ạt, và thú dữ thường xuyên qua
lại. Bồ-tát hiện thân làm một nhà sư ghẻ chóc, đọc bài
kinh để trấn an nhà sư chiêm bái vĩ đại này của Trung hoa.
Sư chí thành tuân theo lời khuyên, và cuối cùng nhờ đó đã
có thể bình an đi tới vùng đất tâm nguyện. Bấy giờ kinh
được coi như là chứa đựng tinh yếu của Phật tâm.[74]
Câu
chuyện khá hấp dẫn, nhưng tụng đọc ở đây cốt để tránh
xa những gian nan hiểm trở chứ không phải để khai ngộ tâm
trí. Đây không đề cập tới sự đồng nhất của Bát-nhã
ba-la-mật với Mật chú coi như để dọn sạch những trở
ngại và những dao động của tâm. Ý nghĩa này có thể tìm
thấy nơi khác.
Khi
thần chú được trì tụng mà không cần nghĩ đến kết quả
của nó sẽ như thế nào, và tụng theo cách mà Kinh Bát-nhã
khuyến cáo những ai muốn học Bát-nhã, thì bằng phép lạ
nào mà đạo nhãn được mở ra và soi thấy những bí mật
của Bát-nhã? Khi một Thiền sư được hỏi về con số của
các sư tăng trong thiền viện của mình, sư đáp: “Trước
ba ba, sau ba ba.” Đối với phàm tâm, trả lời kiểu đó chẳng
cho biết bấy giờ sư đang nghĩ gì trong lòng. Có lẽ thần
chú “Gate!” có cái ý gì ở bên trong, và chỉ những ai đã
vào đạo mới có thể hiểu nổi; khi hiểu được cái bí
nhiệm trong câu trả lời, vấn đề tự nó trở thành sáng
tỏ và tất cả những gì được ẩn tàng trong Bát-nhã lồ
lộ trước mắt. Có thể lắm; nhưng rồi, tại sao lại là
câu thần chú Gate đặc biệt này, chứ không là cái gì khác?
Câu thần chú đó, một cách nào đó khá vô nghĩa, nếu xét
về nghĩa đen của nó thì không tài nào hiểu cho nổi. Chỉ
khi nào đặt trong toàn thể nội dung của Tâm kinh mà chúng
ta đã biết, mới thấy nó hết vô nghĩa. Vấn đề của chúng
ta ở đây sẽ là: Có liên hệ mật thiết nào giữa giáo nghĩa
chung của Tâm kinh và khẩu quyết, hay đúng hơn là lời tán:
“Đi qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, đi qua đến bờ bên kia,
chào Bodhi!” ?
IV.
TÂM KINH VÀ BIỂU HIỆN TÂM LÝ CỦA KINH NGHIỆM THIỀN
Theo
ý tôi, có thể giải quyết tất cả những khúc mắc để
thấu triệt Tâm kinh bằng cách sau đây.
Khi
giáo nghĩa Bát-nhã hoàn toàn đồng nhất với kinh nghiệm Phật
giáo, Tâm kinh được viết ra để nói lên những điểm cốt
yếu của Bát-nhã trong một hình thức rất giản ước, đồng
thời để chỉ định tiến trình tâm lý của hành giả tu
tập Bát-nhã ba-la-mật uyên áo này. Khi kinh bắt sang trào lưu
phát triển khác, nó mở rộng thành một nền văn học rất
phồn tạp, rườm rà, đồ sộ, mà tại Trung hoa được biết
dưới danh hiệu Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa (mahāprajñāpāramitā-sūtra)
600 quyển; trong số đó, 400 quyển đầu đại để tương đương
với bản Sanskrit Śatasāhasrikā prajñāpāramitā, Bát-nhã bách
thiên tụng, bản kinh gồm 100.000 bài tụng.[75] Bản kinh nào
sớm nhất, bản rút ngắn hay bản mở rộng , chúng ta chưa
thể biết được. Nhưng, bản rút ngắn không có nghĩa chỉ
là cô đọng; đồng thời với lúc cô đọng, nó chuyển hướng
bản kinh thành một tài liệu tâm lý học về kinh nghiệm Bát-nhã.
Đây là sự thay đổi đáng chú ý, vì rằng khi thêm vào câu
thần chú “Gate!” là đã thay đổi toàn diện sắc thái của
việc giản ước. Nếu không có câu thần chú, giản ước
vẫn là một sự kiện đơn giản, không có nghĩa gì hết,
và tầm quan trọng nặng ký của nền văn học đó đến đây
biến mất hẳn.
Trong
lúc tôi chưa thể tìm thấy một cách chính xác là Tâm kinh
trở thành một khóa bản của Thiền tại Trung hoa vào lúc
nào, các Thiền sư hẳn đã khá sáng suốt, trong lịch sử
của Thiền, thấy kinh còn có yếu tố khác chứ không chỉ
là một cố gắng cô đọng. Cho đến về sau, kinh Kim cương
(vajracchedikā) đã đáp ứng cho chủ đích đó, và ngay cả
trước thời Huệ Năng cũng vậy. Khi Huyền Trang kể những
chuyện linh ứng của mình do đọc Tâm kinh, các Thiền sư lưu
ý ngay, và đồng thời còn thấy bên trong có yếu tố khác
nữa. Cái “yếu tố khác” đó có thể không lọt vào tầm
mắt của các luận sư Duy thức học (vijñaptimātra), nhưng
không trốn khỏi các Thiền sư, họ xem trọng kinh nghiệm hơn
triết lý, và rất mẫn cảm với giá trị tâm lý của tất
cả nền văn học Phật giáo. Họ hiểu ý nghĩa của thần
chú khác hẳn các tín đồ Chân ngôn tông.
Một
sự kiện đáng lưu ý là thần chú “Gate!” cũng thấy có
ở cuối bộ Đại Bát-nhã bản Hán dịch của Huyền Trang.
Hình như nó được thêm vào đời Nguyên, vì ấn bản đời
Nguyên mới có nó. Phải chăng ý tưởng phụ thêm thần chú
nên coi là xuất phát từ Tâm kinh khi nó bắt đầu lưu hành
rộng rãi trong giới Phật tử? Kinh Bát thiên tụng (aṣṭasāharikā)
nói rằng Bát-nhã ba-la-mật là một minh chú (vidyā) lớn, không
lường được, không dò được, không sánh được, và tối
thượng; nếu vậy, nên coi “Gate!” như là lối tán dương
của Tâm kinh bằng những từ ngữ chói sáng của Thần chú.
Trở
lại chủ đề chính, việc tu tập Bát-nhã uyên áo cũng là
việc thực tập công án, mà tôi đã đề cập trong Thiền
luận bộ trung. Quán Tự Tại (Avalokiteśvara, hoặc Quán Thế
Âm) là người học Thiền, và đức Phật trong Tâm kinh cho
biết ngài Quán Tự Tại đã học Bát-nhã như thế nào. Vì
Bát-nhã là công án được đề ra cho Ngài giải quyết, làm
phương tiện chứng quả giác ngộ tối thượng. Quá trình
chứng ngộ của Ngài xuôi theo dòng phủ định. Phủ định
bất cứ thứ gì có thể đem trí óc mà hiểu như là một
đối tượng của tư tưởng. Thiền tông cũng làm như thế.
Nó bắt đầu bằng trí óc. Phải trừ diệt vô minh cố hữu
trong tâm từ vô thủy quá khứ. Đó là bước thứ nhất hướng
tới giác ngộ. Vô minh tức không thấy sự thực (dharma, pháp)
như thế là như thế, yathābhūta (như thật). Vậy rồi, Tâm
kinh đề ra một tràng phủ định, chối bỏ luôn cả nhận
thức, hay trí. Bởi vì, chừng nào thức còn có chỗ bám, đó
thực là một trở ngại trên đường đi về giác ngộ tối
thượng. Tự chủ và tự tại có nghĩa là có đường đi hoàn
toàn dẹp sạch tất cả các chướng ngại vật chúng có thể
chận ngang dòng suối tự do và tự tác chủ của Bát-nhã.
Phủ định là dọn sạch, là thanh lọc như thế. Trong thực
tập công án, dọn sạch như thế cũng là phương sách tiên
quyết.
Chúng
ta biết rằng, phủ định chỉ là phương tiện nhờ đó để
thành tựu cái khác. Trong Bát-nhã ba-la-mật, nó cũng là cái
dẫn chúng ta đi tới mục đích của pháp môn này. Thiền,
ngay từ khởi thủy, đề ra cho chúng ta một công án coi thường
sự giải thích của trí óc, và do đó chỉ con đường phủ
định cho chúng ta đi mà không cần nói một cách công khai.
Tâm kinh, trực thuộc văn học Bát-nhã, diễn theo cái đà diễn
tiến chung này, và chứa đầy tiếng không! Nhưng chúng ta cắm
dùi vào đâu sau khi vứt bỏ hết mọi kho tàng trí năng, khái
niệm? Là cái Không trơ trọi, là khoảng trời trống trơn,
là cái trống rỗng hoàn toàn, đó là ý nghĩa của Śūnyatā
ư? Nếu đúng vậy, chúng ta vẫn ở nguyên trong cảnh vực
của những khái niệm. “Cái không chi” (ngoan không) vẫn
còn là một trong những đối tượng tư tưởng của chúng
ta. Phải vứt bỏ cái đó, vì đó là “điên đảo và mộng
tưởng.”
Trong
Phật giáo Chân tông, bỏ “tự lực“ cốt để vãng sinh
về quốc độ của Phật A-di-đà (Amitābha). Phủ định cũng
là khẳng định ngay đó. Chân tông tránh dùng trí năng. Chủ
trương phủ định của nó không gây kinh hãi và thất vọng
cho bằng Bát-nhã ba-la-mật. Tuy nhiên, ngay đây, một tâm trạng
gọi là “không bố úy,” “không quái ngại” được trỗi
lên làm mục tiêu. Mục tiêu đó là gì? Giác ngộ tối thượng
này là gì? Nó ở đâu? Khi nào đạt đến?
Đạt
đến, lúc ngài Quán Tự Tại xướng tụng, “Gate, gate, pāragate,
pārasaṅgate!” Vì đó là sự phóng xuất vọt ra từ nội
tâm của Ngài khi Ngài sang ngang dòng phủ định. Ngài là hành
giả của Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể vĩnh viễn quanh
quẩn trong một vòng tròn phủ định. Một khi Ngài đi đến
đích, kiệt sức và vô vọng, chẳng còn ước mong nào trước
mặt, và Ngài biết những gì đã bị bỏ lại đằng sau. Nhưng
vẫn có cái thúc đẩy bước tới. Trí năng và xúc cảm hoàn
toàn cùng tận, Ngài thực hiện bước nhảy tối hậu. Bứt
lìa đoạn dây cuối cùng trói buộc Ngài vào thế giới của
đối đãi và “tự lực.” Ngài thấy mình đứng trên bờ
bên kia. Bị áp đảo bởi các tình cảm của mình, Ngài chỉ
có thể đọc lên “Gate!”. Rồi thì, Gate trở thành câu thần
chú của Ngài, Gate trở thành thần chú của Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Với sự phóng xuất đó, mọi vật bừng sáng, và Quán Tự
Tại đã tu tập Bát-nhã đến chỗ cuối cùng.
Tôi
kết luận rằng, đây là ý nghĩa của Tâm kinh. Do giải thích
bản kinh như thế, chúng ta có thể hiểu tại sao Gate là kết
luận, và tại sao kết luận này diễn tả nội dung của Tâm
kinh một cách triệt để. Để riêng thần chú ra, nó chẳng
có nghĩa gì hết, và khó mà hiểu tương quan sinh tử của
nó với kinh Bát-nhã ba-la-mật. Đừng có bước tới Tâm kinh
bằng con đường tắt của trí năng, dù thoạt trông nó như
chỉ ra lối đi đó. Phải tiến tới theo đường dây của
kinh nghiệm tôn giáo, tức là, bằng đường dây mà chúng ta
giữ chặt trong lối tham cứu công án. Ý nghĩa của thần chú
như thế vén mở những bí mật của nó, và kết quả Tâm
kinh trở thành một tài liệu hoàn toàn dễ hiểu có giá trị
tôn giáo rất lớn.
Nếu
Tâm kinh là một sản phẩm của thiên tài Trung hoa, câu thần
chú có thể không mang hình thái Gate! Như chúng ta đã thấy
qua nhiều trường hợp khác nhau rồi, thần chú của các Thiền
sư đã khoác những màu sắc khác hẳn. Nhưng, trên phương
diện tâm lý mà nói, quá trình tâm linh được chứng nghiệm
bởi người Trung hoa và Ấn độ rõ ràng cũng thế và hiển
nhiên phải thế. Khi một người Trung hoa được hỏi Phật
là ai, y trả lời: “Đó là một cái thùng đầy nước bị
thủng đáy.” Phê phán theo tiêu chuẩn thường của luận
lý, nói thế nghe như là một Đà-la-ni. So sánh Phật với thùng
nước coi có vẻ phạm thượng, nhưng trong con mắt của Thiền
thì phải là cái thùng thủng đáy, nước tuôn ra ngoài hết
và không có trăng rọi bóng vào trong đó. Rồi Phật mới hiện
thân với 32 tướng tốt. Tâm kinh không cụ thể mức này,
nhưng nó mô tả kinh nghiệm Thiền khá sáng sủa.
Trong
“Gate!” những phủ định của Tâm kinh đã vươn tới khẳng
định lớn, mà trong tất cả các kinh điển Đại thừa gọi
là Chân như (tathatā). Những phủ định ấy cốt dẫn các
hành giả của Bát-nhã đi tới kết cuộc này. Lối tụng đọc
của Huyền Trang, đọc trong hình thức chú thuật, bây giờ
trở nên chứa đựng những giá trị tôn giáo có tầm vóc
lớn. Do sức mạnh của câu thần chú kết thúc, giác ngộ
tối thượng, mà các học giả quen hiểu bằng trí năng, trở
thành một biến cố vĩ đại của kinh nghiệm tâm linh.
Địa
vị của Tâm kinh trong giáo nghĩa của Thiền được định
đúng mức ở đây.
Vẫn
còn phải cắt nghĩa trường hợp nào thần chú đặc biệt
đó được đọc lên. Điều này đòi hỏi dài dòng hơn, mà
ở đây thì không đủ; tôi chỉ có thể nói vắn tắt là,
ý niệm “bờ bên kia“ có chất Ấn riêng biệt, và nó xuất
hiện sớm trong văn học tôn giáo của Ấn độ. Lấy thí dụ
từ văn học Phật giáo khởi thủy, trong kinh Pháp cú chúng
ta có câu này:
Appakā
te manussesu ye janā pāragāmino,
Athāyam
itarā pajā tīram evānudhāvati.[76]
Có
thể nói, Tathāgata là Pārāgata, Như Lai là Người Qua bên kia.
Nhưng, ý niệm tathā đã trở nên có ưu thế trong triết học
Phật giáo hơn pāram, và Pārāgata được thay thế bằng Tathāgata.
Dấu vết ý niệm pāram còn lưu lại trong chữ pāramitā, chỉ
cho những đức tính dẫn hành giả sang bờ bên kia của giác
ngộ. Pāramitā thường được dịch là “đáo bỉ ngạn,”
sang đến bờ bên kia, mà thực tế chỉ cùng sự kiện như
pārāgata; hai thành ngữ khác nhau là về hướng đi. Tùy theo
chỗ đứng, nhìn từ đích điểm này thì nó là “đi;” nhìn
từ đích điểm kia, thì là “đến.” Trong Bát-nhã ba-la-mật-đa,
dòng tiến của Quán Tự Tại mà diễn tả như đã “cập
bờ bên kia“ (pārasaṁgate), thì rất là chính xác.
Động
Sơn Lương Giới[77] thuở còn là chú tiểu, một Luật sư dạy
học Tâm kinh, và Sư cố cắt nghĩa câu này: “Không mắt,
không mũi…” Nhưng Lương Giới đưa mắt nhìn chăm chú Sư,
rồi sờ vào thân thể mình, và sau hết nói: “Thầy có hai
mắt, hai tai, và các căn khác, và con cũng có như thế. Tại
sao Phật dạy là không có?” Luật sư nghe hỏi, ngạc nhiên
bảo: “Ta làm thầy con không nổi. Con phải được một Thiền
tăng độ cho, vì sau này sẽ là một đại sư của Đại thừa.”
Khi
một tâm hồn trẻ trung hay thắc mắc như Lương Giới mà vấp
phải phủ định luận của Bát-nhã, đó là dấu hiệu tốt.
Nếu cứ tiếp tục thắc mắc, nhất định sẽ có ngày bùng
vỡ. Nhưng sau khi bùng vỡ nên bước trở lui lại con đường
phủ định để thử xem trong con đường dẫn vào chứng nghiệm
có thứ gì. Cái gì mà khởi thủy không nắm bắt được,
bây giờ sẽ được thấy chất chứa đầy ý nghĩa. Giáo nghĩa
tính Không chẳng còn là phủ định luận thuần túy nữa.
Rồi tôi sẽ giảng giải trong các trang sau; đó là cách giản
dị nhìn các pháp một cách như thật (yathābhūta), nhìn chúng
dưới sắc thái Tathatā, Như tính, của chúng. Nó không chối
bỏ thế giới vạn thù; núi non vẫn đó, hoa anh đào đang
nở rộ, ánh trăng tỏa rạng trong đêm thu; nhưng đồng thời
chúng không chỉ y nguyên là những cái đặc thù, chúng gợi
cho ta một ý nghĩa sâu thẳm, chúng được thấu hiểu trong
cái không là chúng. Tâm kinh nằm trên nền tảng này.
Nhân
lúc bước qua dòng nước, thấy bóng mình trong đó, Động
Sơn làm một bài thơ, có thể cho ta điểm tựa dò vào kinh
nghiệm nội tại của sư về Bát-nhã:
Thiết
kị tùng tha mịch 切忌從他覓
Thiều
thiều dữ ngã sơ 迢迢與我疏
Ngã
kim độc tự vãng
我今獨自往
Xứ
xứ đắc phùng cừ
處處得逢渠
Cừ
kim chánh thị ngã 渠今正是我
Ngã
kim bất thị cừ
我今不是渠
Ưng
tu chẩm ma hội
應須恁麼會
Phương
đắc khế như như. 方得契如如
Đừng
nhờ ai tìm kiếm [Chân lý][78]
Lần
hồi lơ với ta
Giờ
một mình ta bước