Mục Lục
Lời Nói Đầu
Phần 01 đến Phần 06
Phần 07 đến Phần 16
Phần 17 đến Phần 26
Phần 27 đến Phần 36
Phần 37 đến Phần 44
Phần 45 đến Phần 50
Phần 51 đến Phần 57
51- Dẫn kỳ sở dĩ, bất khả phương tỷ
52- Chỉ động vô động, động chỉ vô chỉ
53- Lưỡng ký bất thành, nhất hà hữu nhĩ
54- Cứu cánh cùng cực, bất tồn quỷ tắc
55- Khế tâm bình đẳng, sở tác câu tức
56- Hồ nghi tịnh tận, chánh tín điều trực
57- Nhất thiết bất lưu, vô khả ký ức
Phần 58 đến Phần 62
Phần 63 đến Phần 69
Phần 70 đến Phần 73
.
GIẢNG GIẢI
TÍN TÂM MINH TỊCH NGHĨA GIẢI
Hòa Thượng Thích Duy Lực
Thích Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
51. DẪN KỲ SỞ DĨ, BẤT KHẢ PHƯƠNG TỶ

Dịch

Bặt hết lý giải, chẳng thể thí dụ.

Lời khai thị:

 Có người hỏi Triệu Châu: Thế nào là Phật?

Triệu Châu trả lời: Ở trong điện ở ngoài vách tường.

Ở trong điện là phải, vì tượng Phật ở trong điện. Tại sao nói ở ngoài vách tường? Cái đó mâu thuẫn là công án.

“Đánh xe đánh bò” là công án của Mã Tổ. Lúc Mã Tổ chưa kiến tánh, thích tọa thiền. Thầy của Mã Tổ là Thiền sư Hoài Nhượng. Biết Mã Tổ là nhân tài xuất sắc, người nào lại Mã Tổ không màn tới. Vạây làm sao độ được? 

 Hoài Nhượng mới lấy cục gạch trước mặt Mã Tổ mà mài từ sáng đến chiều, qua thời gian lâu Mã Tổ hỏi Hoài Nhượng: Sư phụ mài gạch để làm chi?

Hoài Nhượng nói: Mài gạch để làm gương.

Mã Tổ nói: Mài gạch làm sao thành gương được?

Hoài Nhượng hỏi: Ông tọa thiền để làm gì?

Mã Tổ trả lời: Để thành Phật.

Hoài Nhượng nói: Ông biết mài gạch không thành gương được! Tại sao tọa thiền thành Phật được?

Mã Tổ hỏi: Vậy làm sao mới được?

Hoài Nhượng hỏi: Giả sử chiếc xe bò không chạy, nên đánh bò hay đánh thùng xe? 

Lúc ấy Mã Tổ liền ngộ. Trong khi Tổ Hoài Nhượng mài gạch, Mã Tổ thấy nên trong tâm có nghi tình, nhưng không biết mình nghi tức là chân nghi. Gặp nhân duyên nghi căn chấm dứt, thì đưa đến ngộ đạo.

“Giơ nắm tay, giơ ngón tay” của Câu Chi (Thiền sư Cụ Để). Có một ngày, Sư cô đội nón lá vào trong chùa không lấy nón xuống.

Cụ Để nói với Sư cô: Sư cô lấy nón lá xuống.

Sư cô nói với Cụ Để: Nói đi! Thì tôi mới lấy nón xuống.

Cụ Để nói không ra tự thấy mắc cở. Trời gần tối Sư cô ở lại một đêm hỏi pháp.

Sư cô nói: Nói đi! Nói được thì tôi ở lại.

Cụ Để nói không được, Sư cô quay đầu đi ra. Tự mình thấy mắc cở quá, rồi tính bỏ chùa đi tham học, kiến tánh mới về. Còn không kiến tánh thì không về. Rồi sửa soạn hành lý để đi. Trong đêm ấy chiêm bao thấy Hộ pháp thần báo khỏi cần đi, vài bửa sẽ có Thiện tri thức đến chùa. Cụ Để chờ vài ngày sau, thấy Thiền sư Thiên Long đến. Cụ Để ân cần tiếp đãi, rồi trình lại chuyện Sư cô đến và nhờ Thiền sư Thiên Long khai thị.

Thiền sư Thiên Long không nói, chỉ giơ ngón tay lên. Cụ Để liền ngộ.

Rồi từ đó về sau, ai đến hỏi đạo với Cụ Để, Cụ Để chỉ giơ ngón tay lên.

Có chú tiểu Sa di bắt chước, có ai hỏi gì Sa di thì cũng giơ ngón tay. Có người báo lại chú tiểu Sa di  giơ tay cho Cụ Để nghe. Cụ Để nghe rồi không nói, mài con dao thật bén để trong mình.

Một hôm chú tiểu Sa di rót trà cho Cụ Để, Cụ Để hỏi: Thế nào là Phật? Chú tiểu quen giơ tay, rồi giơ tay lên, sẵn đó Cụ Để lấy dao chặt đứt ngón tay. Chú tiểu hoảng sợ bỏ chạy. Cụ Để rượt theo nói: “Đứng lại, đứng lại!”.

Chú tiểu đứng lại, Cụ Để lại hỏi: Thế nào là Phật?

Chú tiểu cũng giơ ngón tay lên, thấy ngón tay không còn nữa, liền ngay đó chú tiểu Sa di liền ngộ. Đây là công án của Cụ Để. 

“Ném ba trái banh gỗ” của Tuyết Phong. Có ai đến hỏi thì ngài Tuyết Phong dùng ba trái cầu bằng gỗ, có dây buộc nhau, rồi quăng ra. Đây là công án của Tuyết Phong.

“Gởi ba tờ giấy trắng” của Huyền Sa. Thủ đoạn của Huyền Sa hay hơn thủ đoạn của Tuyết Phong. 

Có một hôm, Huyền Sa tặng cho một Tổ sư ba lu tương, kèm theo ba tờ giấy trắng ở trong mỗi phong thư. Tổ sư ấy nhận và hỏi đại chúng rằng: Có ai biết ba cái thư này nói gì không? Chẳng ai nói được thì ta đập bể ba lu tương, còn nói được thì không đập. Rồi không có ai nói được. Huyền Sa liền đập bể ba cái lu tương. 

Nói tánh nói tâm ở Linh Sơn của Phật Thích Ca.

Nói da nói tủy nơi Thiếu Thất của Tổ Đạt Ma. Tổ Đạt Ma tụ họp các đệ tử, rồi hỏi từng người để xem trình độ của mỗi vị ra sao! Trong đó có 4 vị đệ tử xuất sắc ra trình:

Người kể ra đầu tiên, Tổ nói: Ông được da của tôi.

Người kể ra thứ nhì, Tổ nói: Ông được thịt của tôi. 

Người kể ra thứ ba, Tổ nói: Ông được xương của tôi.

Người thứ tư là Huệ Khả đi ra chẳng nói gì, Tổ nói: Ông được tủy của tôi.

Qui Ngưỡng lập cửa thiền cha con. Qui Sơn làm cha, Ngưỡng Sơn làm con. Hai vị đó hợp thành Qui Ngưỡng tông, thường hỏi và đối đáp nhau. Những người khác nghe chẳng hiểu gì. Người có công phu nghe thì được ngộ, nếu không ngộ cũng phải nghi.

“Đầy mắt núi xanh” của Đức Thiều Quốc Sư. Ngài là pháp tử của tông Pháp Nhãn. Thầy của ông là Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích. Ở  trong pháp hội của Pháp Nhãn, Đức Thiều Quốc Sư không có hỏi gì, đứng một bên thầy. Người ta đến hỏi pháp, ông đều có mặt ở đó.

Có Tăng hỏi Pháp Nhãn: Thế nào là một giọt nước của Tào Khê? (Tào Khê là chỗ chùa Nam Hoa, tỉnh Quảng Đông. Hiện giờ 3 tượng nhục thân: Lục Tổ, Tổ Đơn Điền, Tổ Hám Sơn ở nơi đó. Trước đây Lục Tổ thuyết pháp nơi này). 

Pháp Nhãn trả lời: Là một giọt nước của Tào Khê. 

Người hỏi không biết cái gì, nhưng Đức Thiều Quốc Sư đứng một bên nghe liền kiến tánh. Vậy Pháp Nhãn trả lời cũng như không trả lời; nếu nói không trả lời làm sao Đức Thiều Quốc Sư nghe liền kiến tánh? 

“Nước hồ trước cửa” của Vĩnh Minh. Có người hỏi: Thế nào là Phật? Ngài trả lời: Nước hồ trước cửa. 

Thủ đoạn của các Tổ đều khác nhau, người có công phu thành khối (như trái cây chín mùi còn ở trên cây), nghe được liền ngộ. Người công phu chưa tới thành khối, thì không thể ngộ được, phải khởi lên nghi tình. Nghi tình là làm nhân cho ngộ, rồi sau này sẽ ngộ. Tất cả đều do thủ đoạn của Tổ sư.

Cho nên thủ đoạn của Tổ sư hình dung rất mạnh, như nói: “Thả đi thì sáng khắp bầu trời, chặn lại thì gió bay muôn dặm”. Tức là sức mạnh của Tổ sư dùng thủ đoạn làm cho người tham thiền lúc đó phát nghi, sau này sẽ ngộ.

Lời của Tổ chưa dứt, mình phải ngộ liền. Nếu lời của Tổ vừa dứt mà mình  ngưng lại một chút thì không được ngộ.

Như chuyện của vua Ung Chính và Thiền sư Thiên Tuệ.

Thiền sư Thiên Tuệ có công phu rất sâu, vua Ung Chính gặp hỏi: Khi cha mẹ chưa sanh, thế nào là mặt mũi bổn lai của ông?

Thiền sư Thiên Tuệ ngưng một chút, rồi mới giơ nắm tay.

Vua Ung Chính lắc đầu tức là biểu thị Thiền sư chưa ngộ. Vua từ bi nói với Thiền sư Thiên Tuệ: Ông hỏi lại tôi đi! 

Thiền sư Thiên Tuệ hỏi: Khi cha mẹ chưa sanh, thế nào là mặt mũi bổn lai của ông?

Câu hỏi vừa dứt, thì vua Ung Chính đưa nắm tay lên, Thiên Tuệ liền ngộ.

Vậy biết, ngưng lại (đình cơ) một chút thì không được. Đây là tiếng nói không cho mở miệng. Vậy không có tiếng nói được không? Cũng không được, vì thủ đoạn của Tổ sư không cho mình suy nghĩ để nói. Nếu ngộ được thì ngộ, còn không ngộ thì phải nghi, mở miệng nói là sai lầm.

Cứ bắt chước hành động thủ đoạn của Tổ; Tổ gọi là mở mắt mà đái trên giường. Như Phật tử đốt hương lạy Phật, đối với những người này thì đốt hương dẫn quỷ vào nhà để phá. Tại sao? Vì những người này không chịu tham thiền khởi nghi tình chỉ thích làm theo hành động của chư Tổ để khoe tài, nên không thể ngộ được.

Lời nghĩa giải:

Tổ sư nói: “Bặt hết lý giải, chẳng thể thí dụ”. Người nghĩa giải cho rằng: Kinh Bát Nhã dùng 100 thí dụ để dụ Bát Nhã, có kinh khác cũng dùng 100 thí dụ để dụ giải thoát, còn có người dùng 100 thí dụ dụ tâm Bồ Đề, ghi đủ trong kinh sách, đâu có cái lý “chẳng thể thí dụ”? Phải biết, Bát Nhã, Giải Thoát, Bồ Đề thì có thể thí dụ. Giả sử bỏ hết tất cả danh tướng, thì nhất tâm đều bặt. Ngay khi ấy còn lập được thí dụ gì chăng? Hoặc theo người xưa nói: “Cò trắng với tuyết chẳng đồng sắc, ánh trăng và hoa lâu chẳng giống nhau”. Lời này há chẳng thí dụ ư!

Tịch nghĩa giải:

Ông muốn ở nơi tuyết trắng, hoa lâu tìm đạo lý, chẳng khác gì nhận màu đỏ của vỏ quít cho là lửa! 

Kệ kết thúc:

Diễn tả sừng thỏ dài ba thước,
So với lông rùa ngắn một phân.
Lại cho hạng người tánh hàm hồ,
Tai mắt dường như chẳng thấy nghe.

(Thỏ không có sừng mà lấy để thí dụ, thật vô lý! Rùa không có lông mà nói ngắn hơn một phân, cũng vô lý! Tức là mình không tham thiền không ngộ, cứ đuổi theo lời Phật, Tổ, tự xưng ngộ rồi. Sự thật chưa ngộ.

Như lúc trước có một Ni sư nói với tôi đã chứng ngộ triệt để rồi.
Tôi hỏi: Tham câu nào mà ngộ?
Ni sư nói: Tham câu “muôn pháp về một, một quy về đâu”?
Tôi hỏi: Một quy về đâu?
Ni sư nói: Không trả lời được, rồi sau đó nói: Thiền không trả lời được, nếu nói ra thì lọt vào tứ cú.
Tôi nói: Người chưa ngộ nói thì lọt vào tứ cú, còn người ngộ rồi  nói thế nào cũng không lọt vào tứ cú. 
Ni sư nói: Như công án vô môn quan, làm sao nói được?
Tôi nói: Thôi để thiền qua một bên đi! Lấy vô môn quan của Giáo môn để nói.
Ni sư cũng không nói được, vậy làm sao gọi là chứng ngộ? Theo giới luật của Phật nói: Người chưa chứng quả mà nói đã chứng quả là đại vọng ngữ, bị tội ba la di, đọa vào địa ngục thời gian 921 ức năm.

Tự tánh thì con mắt đâu thể thấy được, lỗ tai không nghe được. Con mắt thấy, tai nghe đều là hư vọng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tại vì con mắt bệnh từ vô thỉ, nên thấy vũ trụ, vạn vật”, đều không thật. Tự Tánh phải ngộ, chứ không phải dùng tai nghe, mắt thấy.

Phải dụng công tham thiền, khởi nghi tình miên mật, mới đưa đến chỗ ngộ.

52. CHỈ ĐỘNG VÔ ĐỘNG, ĐỘNG CHỈ VÔ CHỈ

Dịch

Ngưng động chẳng phải tịnh, động ngưng chẳng phải ngưng.

Lời khai thị:

Muôn toa đồng một đường (đường rầy), muôn sự việc đồng một lý, muôn dụng cụ đồng kim loại, như: Bông tai, vòng, dây chuyền, nhẩn,… cùng làm bằng vàng. Muôn làn sóng đồng chất nước. Vạn tượng sum la thảy đều là ông. Ông nếu không tin, hãy vào bụng Thích Ca, Đạt Ma đi hành cước trăm ngàn vòng, thì bắt đầu tham thiền mới hy vọng kiến tánh.

 (Nếu không như vậy, mà lấy tai nghe, mắt thấy để đọc kinh điển, ngữ lục của Phật, Tổ thì đối với việc sanh tử không có liên quan. Bởi vì ở ngoài bụng của Phật, Tổ, nên không biết ý của Phật, Tổ. Vậy không được tìm kiếm ở bên ngoài).

Lời nghĩa giải:

Tổ sư nói: “Ngưng động chẳng phải tịnh, động ngưng chẳng phải ngưng”. Người nghĩa giải cho rằng: Lòng từ bi thống thiết của Tổ sư, đem hai bên động tịnh vò thành một khối, nói trắng cho nghe, đại khái đồng ý chỉ của Pháp sư Tăng Triệu nói: “Tức tịnh mà động, tức động mà tịnh” cũng là ý chỉ “vạn pháp tề quán”. Chẳng những động tịnh như thế, mà tất cả cảnh duyên cũng đều như thế. Tức tịnh là động. Hoa rụng là gió xuân đưa; tức động là tịnh, băng tan cũng do mặt trời soi.

Người trí quán pháp chẳng sai biệt,
Kẻ mê do đây khởi điên đảo.

Tịch nghĩa giải:

Lời này tạm gác một bên! Nếu như chẳng động, ngay khi ấy còn có lý lẽ gì để thảo luận hay không? Nói mau! Nói mau!

(Trả lời không được, vì biết là do sự học, chứ không phải tự ngộ. Nếu học bao nhiêu lý lẽ cao siêu, đều là vô dụng. Phải do mình tự ngộ, muốn ngộ thì phải tham thiền, phát khởi nghi tình miên mật ngày đêm không gián đoạn thì có thể ngộ được. Nếu không ngộ mà lấy ý thức phân biệt cho đúng cũng là sai, đối với việc giải thoát sanh tử chẳng có liên quan gì).

Kệ kết thúc:

Động tịnh mống khởi bệnh liền sanh,
Nắm tay kéo nhau vào lửa hồng.
Con voi xưa nay vẫn y cũ,
Bọn mù mò mẫm thảy đều sai.

(Nếu động khởi lên thì trần cũng khởi lên, trần là bụi sanh diệt. Tịnh khởi lên mới có băng (nước đá) sanh. Tất cả đều do bệnh chấp thật. Nếu vậy chấp thật mãi, thấy động chấp động, thấy tịnh chấp tịnh, như nắm tay nhau vào hố lửa, thì phải bị chết thiêu. Những người ấy đáng thương xót! Đi sai lầm đường, vào trong hố lửa mà cho là tốt.

Bản thể Tự tánh từ xưa nay, đâu có bị che lấp, vì bệnh chấp thật của mình che lấp, làm cho mình không được kiến tánh. Không được kiến tánh thì không biết mình là cái gì? Nên không làm chủ được mình, thì không được tự do tự tại, phải chịu khổ. Cho nên, phải tham thiền phát nghi tình miên mật đưa đến giác ngộ, thì không còn khổ nữa.

Nếu không ngộ thấy cái gì, chấp thật gọi là điên đảo tưởng, như người mù bẩm sinh, chỉ rờ một bộ phận con voi cho là con voi. Trong Thiền Thất Khai Thị Lục, ngài Lai Quả nói: Người chưa kiến tánh giống như những người mù, đạp cứt chó tưởng cho là tốt, không biết là cứt chó. Nếu mắt sáng thì biết nó là cứt chó thì không có đạp nó).

53. LƯỠNG KÝ BẤT THÀNH, NHẤT HÀ HỮU NHĨ

Dịch

Hai đã chẳng thành, một làm sao có.

Lời khai thị:

Biển Phật không bờ, sông thiền không đáy (Giáo môn có thể giải thích. Thiền môn thì siêu việt số lượng, nên nói sông không có đáy). Nước một thước, sóng một trượng chảy mãi không thôi (Bàng Uẩn lúc chưa kiến tánh hỏi Mã Tổ: Không cùng với vạn pháp làm bạn, người ấy là gì?

Mã Tổ đáp: Đợi khi ông một hớp hết nước Tây giang, ta sẽ nói cho ông nghe.

Bàng Uẩn nghe liền ngộ triệt để.

Một miệng mà hớp hết nước Tây giang làm sao được? Vì nói đến thiền thì không có nghĩa lý được, mà hiểu theo nghĩa lý là sai lầm. Tổ sư gọi là con chó đuổi theo cục xương mà cắn.

Cũng vậy, có Tăng hỏi Pháp Nhãn: Thế nào một giọt nước của Tào Nguyên?

Pháp Nhãn trả lời: Là một giọt nước của Tào Nguyên.

Người hỏi không ngộ, mà người đứng một bên là Thiều Quốc Sư nghe liền ngộ. Pháp nhãn có trả lời hay không? Có trả lời cũng là trả lời lại câu hỏi, nếu không có trả lời làm sao người ta ngộ? Tuy nói nghĩa lý mà chẳng có nghĩa lý gì.

Thiều Quốc Sư ngộ rồi, ở trên núi phong quyền làm kệ:
 
Phong quyền phong đỉnh,
Bất thị nhân gian.
Tâm ngại vô pháp,
Mãn mục thanh sơn.

Pháp Nhãn nghe được bài kệ này, nói: “Chỉ bốn câu này, có đủ tư cách nối truyền tông phái của Pháp Nhãn”. Thiều Quốc Sư là Tổ thứ nhì của tông phái Pháp Nhãn.

Thuyền Tử tánh tình thích dùng ghe đi đây đó, trôi nổi ở dưới sông. Ngài có sư đệ là Đạo Ngô, cùng chung một thầy, 2 người đã kiến tánh. Thuyền Tử có dặn Đạo Ngô: Khi nào gặp Pháp sư lanh lợi, hãy giới thiệu cho tôi, để tôi có người nối pháp.

Đạo Ngô đi ngang Giáp Sơn đang thuyết pháp, rồi ghé lại nghe.

 Tăng hỏi Giáp Sơn: Thế nào là Pháp thân?

Giáp sơn trả lời: Pháp thân vô tướng.

Tăng hỏi: Thế nào là Pháp Nhãn?

Giáp Sơn trả lời: Pháp Nhãn vô hà (vô hà là không có tì vết).

Đạo Ngô nghe vậy, rồi cười.

Khi giảng xong, Giáp Sơn đến hỏi Đạo Ngô: Vừa rồi tôi giảng có chỗ nào không đúng, sao Thượng tọa cười, xin Thượng tọa chỉ bảo?

Đạo Ngô nói: Không phải là không đúng, nhưng Hòa thượng giảng chưa có thầy.

Giáp Sơn nói: Tôi xin đảnh lễ Thượng tọa làm thầy.

Đạo Ngô nói tôi không phải thầy của Hòa thượng. Thầy của Hòa thượng là Thuyền Tử ở Hoa Đình.

Giáp Sơn hỏi: Vậy Thuyền Tử thế nào?
Đạo Ngô nói: Thuyền Tử trên không có một miếng ngói, dưới không có chỗ cắm dùi. (tức tả cảnh giới vô trụ là cảnh giới cao nhất).
Giáp Sơn không thuyết pháp nữa, tìm đến Hoa Đình gặp Thuyền Tử; vừa muốn hỏi thì bị Thuyền Tử đánh lọt xuống sông. 
Khi ngóc đầu lên, thì Thuyền Tử nói: Nói đi, nói đi!
Giáp Sơn định mở miệng muốn nói, thì bị Giáp Sơn nhận chìm. 
Khi ngóc đầu lên, thì Thuyền Tử nói: Nói đi, nói đi! 

Lúc ấy, Giáp Sơn ngộ đạo, không hỏi nữa. Thuyền Tử biết ngộ đạo rồi, kéo Giáp Sơn lên bờ. 
Sau khi Giáp Sơn ngộ đạo liền từ giả đi; đi được vài bước ngoảnh đầu ngó lại.

Thuyền Tử nói: Ông còn muốn thấy có cái gì nữa sao? Rồi tự mình nhận chìm chiếc ghe, chết trước mặt Giáp Sơn, chứng tỏ là không còn cái gì nữa.
Giáp Sơn về chùa vẫn thuyết pháp y như cũ. Đạo Ngô sai một vị Tăng hỏi: Thế nào là Pháp thân?
Giáp sơn trả lời: Pháp thân vô tướng.
Tăng hỏi: Thế nào là Pháp Nhãn?
Giáp Sơn trả lời: Pháp Nhãn vô hà.

Vị Tăng trở về nói cho Đạo Ngô biết. Đạo Ngô nói: Được rồi, ông ấy đã ngộ. Lúc trước nói như vậy lắc đầu cười, nói là không được vì chưa có thầy. Bây giờ hỏi như vậy và trả lời cũng như vậy. Nhưng Đạo Ngô lại tán thán ngộ rồi. Nếu mình theo nghĩa lý để hiểu là sai lầm, vì không có nghĩa lý cho mình hiểu.

Cho nên, tham thiền dùng chánh nghi, không cho tâm tìm hiểu. Còn hồ nghi là lấy tâm đi tìm hiểu, giải thích. Tổ gọi là con chó không phải con sư tử.

Hứa Do là vị ẩn sĩ nghe người ta tán thán, còn đi rửa lỗ tai, vì nghe làm cho dơ lỗ tai. Thị phi như nước lớn ngập đầy trời muôn dặm. Nếu lọt vào đó thì bị chết chìm, vì có nghĩa lý mới có thị phi. Thị phi là tương đối nằm trong tứ cú. Phật, Tổ muốn mình lìa tứ cú. Nhưng mọi người trên quả đất đều có thị phi hết, nên chẳng biết, lại lấp bít nguồn tâm, khiến đất bằng phải nổi sóng to.

Lời nghĩa giải:

Tổ sư nói: “Hai đã chẳng thành, một làm sao có”. Người nghĩa giải cho rằng: Thị chẳng phi thì không thị, phi chẳng thị thì không phi. Vừa đã có thị trước đã có phi, vừa thấy có phi trước đã có thị. Cho nên, thị chẳng tự lập, phi chẳng độc tồn. Phi là cội của thị, thị là gốc của phi. Cho đến ngộ mê chơn vọng… tất cả đều như vậy. Thế thì cái hai của thị phi đã trừ, thì cái nhất của trung đạo đâu còn! Tổ sư đến đây thật là mổ bụng thấy tâm, từ bi quá lắm rồi!

Tịch nghĩa giải:

Nếu hai đã chẳng thành, một cũng không có. Vậy còn có kẻ biết “chẳng thành”, “không có” chăng? Nếu nói không, thì ai biết sự chẳng thành, không có? Nếu nói có, lại gọi là không có được không? Tổ sư đến chỗ này chỉ có phần đớ lưỡi.

Vậy có nghĩa lý cao siêu là vô dụng, vì có đối đãi thì lọt vào tứ cú. Cho nên bị hỏi thì trả lời không được.

Kệ kết thúc:
 
Chẳng thả xuân về xuân tự về,
Vườn cây mỗi mỗi hiện xanh tươi.
Bông tím bông hồng biết đâu kể,
Bươm bướm từng đôi bay khắp nơi.

(Miền nam Việt Nam không có bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông), miền bắc Việt Nam và Trung Quốc có bốn mùa. Mùa đông cây cối lá rụng hết, tuyết phủ trắng. Mùa đông qua thì mùa xuân trở về. Xuân về không có ai thả nó về. Mặc dù không thả nó về, nhưng nó tự về, không có ai ngăn cản được.

Khi xuân về thì vườn nào, cây cối ra lá xanh tươi, bông tím bông hồng ở đâu lại? Lúc nó hết thì đi về đâu? Lúc nó có thì ở đâu lại? Có bông ra thì bươm bướm đến, chỉ thấy từng đôi bươm bướm bay trên cành hoa.

Tất cả hiện tượng trên biết từ đâu đến? Nếu mình lấy ý thức để giải thích được chỗ đến chỗ đi, thì chẳng có nghĩa lý gì! Vì nó chẳng có chỗ đi và cũng chẳng có chỗ đến. Cho nên, Phật pháp nói: “Tất cả đều do tâm tạo”, nghĩa là do vọng tâm mình biến hiện mà thôi.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thấy tất cả vũ trụ vạn vật là do kiến bệnh từ vô thỉ”. Nếu muốn biết cứu kính của vạn vật là chỉ có tham thiền, khởi nghi tình; khi nghi tình bùng nổ, mới biết nguồn gốc của mình là tâm, biết tâm rồi thì tất cả đều biết hết.

Không biết nguồn gốc của tâm lại nghiên cứu nhánh lá, thì không thể tìm ra được! Bởi vậy, cách tham thiền chỉ cho tâm nghi, chứ không cho tâm đi tìm hiểu. Tâm tìm hiểu là hồ nghi chứ không phải chánh nghi. Chánh nghi sẽ trở về bản tâm, hồ nghi là hướng ngoài đi tìm, tìm chừng nào xa chừng nấy.

54.CỨU KÍNH CÙNG CỰC, BẤT TỒN QUỶ TẮC.

Dịch

Cùng tột cứu cánh, chẳng còn quy tắc.

Lời khai thị:

Mười tấc là một thước, mười thước là một trượng. Bên đông mặt trời mọc, bên tây là mặt trời lặn, hỏi khắp mọi người trong vô số quốc độ, có ai chẳng biết? Tại sao nói đến Tổ Sư Thiền, mỗi người ngơ ngác như vách sắt? Còn có câu “mạc hậu lao quan” rất khó hiểu, chẳng ai che dấu cùng đưa một lượt. Aáy là cái gì? Thật oan uổng!

(Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Sanh tử không phải thật”. Ai cũng biết sanh tử không phải thật, nhưng không tránh khỏi cái khổ sanh tử. Vậy cái biết của mình không phải thật. Ai không biết mười tấc là một thước, mười thước là một trượng, bên đông mặt trời mọc, bên tây là mặt trời lặn. 

Sự biết đó đâu có giải thoát sanh tử! Bây giờ là cái gì? Muốn hiểu thì phải tham thiền, câu thoại đầu tối ngày sáng đêm, mình phải tự hỏi, có thắc mắc không biết, có ngày sẽ ngộ. Ngộ rồi thì sanh tử tự mình giải quyết, được thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi.

Nếu không ngộ, mặc dù cái khổ sanh tử không phải thật, cũng bị cái khổ sanh tử làm oan uổng! Vì tự tâm mình buộc tâm mình phải chịu cái khổ đó. Tự tâm buộc tự tâm, thì tự tâm giải thoát, chứ không phải người khác giải thoát cho mình được.

Lời nghĩa giải:

Tổ sư nói: “Cùng tột cứu cánh, chẳng còn quy tắc”. Người nghĩa giải cho rằng: Hư không, sắc tướng, lớn nhỏ, dài ngắn trong mười phương pháp giới, tất cả đều là tự kỷ (tại sao? Vì tất cả do tâm tạo, tức là do vọng tâm của mình biến hiện ra, không phải người khác).

Tùy chân bước, chẳng rời Điền Địa Tổ Tông (bốn chữ: Điền Địa Tổ Tông là biệt danh của Tự tánh). Tùy miệng nói ra là Chơn Thiền Cổ Phật (Chơn Thiền Cổ Phật cũng là biệt danh của Tự tánh, tất cả không ngoài tự kỷ).

Cho đến ôm vợ mắng Phật Thích Ca, uống rượu say đánh Phật Di Lặc, đều là nhất hạnh tam muội, còn nói chi khai giá trì phạm… (tại sao vậy? Vì tất cả do tâm tạo không ngoài Tự tánh. Nói đến Tự tánh làm sao có khai giá trì phạm! Ở trong giới luật có 3 cấp trì giới:

1. Bình thường nửa tháng bố tát có tụng giới để biết rồi giữ giới.

2. Thiền giới, muốn đạt thiền giới, nghi tình  phải thành khối, 24 giờ ngày đêm không giây phút nào gián đoạn. Lúc đó vọng tưởng khởi lên không được, thì không có khai giá trì phạm. Nếu chưa đến cảnh giới đó, chỉ có giây phút gián đoạn, thì giây phút đó mình có thể phạm giới, không được gọi là thiền giới, thì cần phải khai giá trì phạm.

3. Lậu tận giới là người đã chứng quả, không trì giới  mà nó tự trì giới).

Nên ngài Vĩnh Gia nói: “Đại ngộ bất câu ư tiểu tiết”, nghĩa là đại ngộ chẳng kẹt nơi tiểu tiết. Nếu được đại ngộ rồi thì tất cả đều là Tự tánh, thì lúc đó làm gì cũng được. Nếu mình chưa tới đó thì không được, nói bậy phải đọa địa ngục. Như tội ba la di phải bị đọa địa ngục 921 ức năm, cấp thấp phải đọa mấy chục hoặc mấy trăm vạn năm.

Tịch nghĩa giải:

Thôi, thôi! Nói cũng nói được rõ ràng, nhưng Diêm La Vương cũng muốn bắt bọn nói những lời này cho đến ăn gậy sắt. Việc này lợi hại ở chỗ nào? Mọi người về nhà tự mình kiểm điểm xem!

(Tham thiền cho đến ngộ là đã về nhà, lúc đó mới biết rõ ràng. Nếu chưa ngộ mà bắt chước lời Phật, Tổ, thì Diêm La Vương dùng gậy sắt đánh, lúc đó kêu trời kêu đất cũng không ai nghe).

Kệ kết thúc:
 
Tùy tâm đem ra tùy miệng bàng,
Phóng túng tung hoành kim chỉ nam.
“Chẳng còn quy tắc” lại giữ niệm,
Tự tánh bất nhị thành hai ba.

(Tùy tay làm động tác để biểu thị, tùy miệng luận bàng để cho người ta hiểu. 

Tàu thủy hay máy bay đều có kim chỉ nam để làm tiêu chuẩn. Nếu có chỉ nam thì lọt vào hai, vì có nam thì phải có bắc. Như vậy nói “chẳng còn qui tắc” sao được?

Chẳng còn qui tắc là còn nghĩa lý, không còn nghĩa lý thì không có nam bắc. Nếu “chẳng còn qui tắc” mà còn lưu lại trong tâm, lấy tay ra dấu, dùng miệng nói ra, thì cũng lọt vào hai, ba tức là lọt vào tứ cú, chứ không phải bản tâm tự tánh của mình.

Chỉ có một cách tham thiền khởi nghi tình, mới không lọt vào tứ cú, không lọt vào hai, ba. Tổ sư khuyến khích mình cần tâm ngộ, muốn tâm ngộ phải tham thiền. Nếu dùng miệng để biện tài nói khéo, thì càng thêm hư vọng. 

Bắt chước Tổ sư đưa ngón tay, đưa nắm tay; nói đưa ngón tay là nhất chỉ thiền, thì hư vọng, nên Tổ sư nói: “Con chó ăn cứt người ta, không phải là con chó tốt”. Ngộ là do tâm mình, để người khác thay không thể được. Nếu không ngộ, mà bắt chước động tác, lời nói  của Tổ, chỉ làm thêm tội địa ngục, chứ không có ích cho mình).

55. KHẾ TÂM BÌNH ĐẲNG,  SỞ TÁC CÂU TỨC

Dịch

Khế hợp Bản Tâm thì tất cả bình đẳng, năng tác sở tác đều dứt.

Lời khai thị:

Người tham thiền phải học tượng vương và sư tử, đừng có hướng ngoại, phải hướng trong Tự tánh của mình. Lời của Tổ sư có thí dụ: Một người liệng ra cục xương, con chó đuổi theo cục xương mà cắn; còn con sư tử không ngó cục xương, hướng vào người quăng cục xương mà cắn. Người quăng cục xương là gì? Là dụ cho Tự tánh. Cục xương là gì? Cục xương là lời nói của Phật, Tổ. Nếu hướng vào lời nói để tìm hiểu hay để ngộ, Tổ nói là con chó. Nếu hướng vào Tự tánh mà ngộ là tượng vương, sư tử. 

Chơn không che được ngụy, co không dấu được trực; cho nên chơn không sợ ngụy, trực không sợ co. Chỉ có tôn giả Kiều Trần Như suốt năm tỉnh tọa, tỉnh tỉnh tịch tịch trong khám làm bằng cây tùng. Người ta đến cúng, hay không cúng, làm thiện hay làm ác đều không biết tới. Ngày qua ngày, tháng thiếu là 29, tháng đủ là 30 cũng không màng đến.

Cũng vậy, người tham thiền, khởi nghi tình thì tất cả đều không biết đến. Như vọng tưởng nổi lên bao nhiêu mình cũng mặc kệ. Bởi vì cái nghi tình là tự động quét sạch tất cả, không những quét có vọng tưởng mà không có vọng tưởng cũng quét. Chân lý cao hơn Phật, mà biết tới là hư vọng sai lầm.

Chỉ cần đề câu thoại đầu, khởi lên nghi tình, cho đến khi đậu tâm không (kiến tánh). Kiến tánh rồi thấu qua sự chướng ngại đầy trời chấp thật của vọng tâm mình. Thiền sư Lai Quả nói: “Mình chưa kiến tánh là con mắt mù, không thấy đường đạp nhầm cứt chó cho là tốt. Người kiến tánh là con mắt sáng”. Muốn mắt sáng thì phải tham thiền. Khi mắt sáng rồi thấy rõ ràng tất cả, không bị nhầm lẫn. 

Cho nên Tổ sư nói: “Nếu mình không trải qua một phen thấm lạnh thấu xương tủy, làm sao được mùi thơm của hoa mai”. Người tham thiền cũng vậy, không trải qua một phen cực khổ quyết tử để tham, thì mới có ngày kiến tánh. Cũng như hoa mai, trời càng lạnh mùi thơm càng nồng.

Lời nghĩa giải:

Tổ sư nói: “Khế hợp Bản Tâm thì tất cả bình đẳng, năng tác sở tác đều dứt”. Người nghĩa giải dẫn chứng trong kinh nói: “Pháp ấy bình đẳng, chẳng có cao thấp, ví như thủy ngân rơi xuống đất, giọt nước viên tròn lớn, giọt nhỏ viên tròn nhỏ, cả đại địa không có pháp nào mà chẳng tương ưng với tự tâm. Lúc Như Lai thành đạo, quán lại hạnh nghiệp tu hành, nhiều kiếp đều như mộng huyễn, chẳng có kẻ làm cũng chẳng có kẻ không làm. Cho nên nói: “Tu tập phạm hạnh như hoa đốm trên không, tọa nơi đạo tràng như bóng trăng dưới nước, hàng phục ma quân trong gương, thành tựu Phật sự trong mộng”.

Tại sao như thế? Tâm mình chưa ngộ triệt để, thì vọng tâm hoạt động thì tạo ra vũ trụ, vạn vật đủ thứ sanh tử luân hồi. Tự tánh không có mấy cái đó. Vì không bình đẳng nên có tất cả pháp sai biệt, nên có pháp bình đẳng và không bình đẳng.

Nói như trên rất có lý, nhưng ngài Trung Phong còn phủ nhận.

Tịch nghĩa giải:

Kinh Viên Giác nói: “Tự tánh vốn bình đẳng”. Người đạt bình đẳng, nói là bình đẳng, đã đáng ăn 30 gậy.

 Vì trong tâm hoạt động nên có cảm giác sai lầm, thấy có vũ trụ vạn vật, thấy có sanh tử luân hồi. Như do thân mình xoay có cảm giác sai lầm mới thấy căn nhà xoay. Thân mình ngưng xoay thì căn nhà ngưng xoay. Căn nhà xoay là không bình đẳng, căn nhà ngưng xoay là bình đẳng. Nói căn nhà xoay và ngưng xoay đều là sai lầm. Căn nhà có xoay hồi nào đâu mà nói ngưng xoay. Vậy nói bình đẳng là sai lầm, cũng đáng ăn gậy.

Nói bình đẳng còn không được, mà lại dẫn chứng bao nhiêu tri giải, giải thích cho nhiều lại thêm không bình đẳng, thì ăn thêm gậy nữa mới được!

Kệ kết thúc:
 
Đã đến quê nhà còn về đâu?
Nằm dài trong am nắng giọi cao.
Trăm ngàn huyền diệu đều quên hết,
Suốt ngày cửa mở chẳng ai vào.

(Sau khi kiến tánh thì đường đi đã hết, khỏi cần hỏi nữa; lúc đó đã về nhà tự do tự tại. Tất cả chấp tâm đều sạch, huyền diệu hay không huyền diệu đều quên hết, vì Tự tánh bất nhị không có huyền diệu hay không huyền diệu thì không có bị huyền diệu hay không huyền diệu làm chướng ngại.

Bài kệ trên là hình dung người đã kiến tánh, được tự do tự tại trong mọi hoàng cảnh động hay tịnh, không bị cảnh ràng buộc).

56. HỒ NGHI TỊNH TẬN, CHÁNH TÍN ĐIỀU TRỰC

Dịch

Hồ nghi dứt sạch, chánh tín vững chắc.

Lời khai thị:

Theo tiếng phổ thông Trung Quốc, một con Trâu gọi là nhất đầu, một con chó gọi là nhất chiếc, một con mèo gọi là nhất cá, một con ngựa gọi là nhất thất. Tại thói quen từ xưa tới nay đều gọi như vậy, ai ai cũng biết.

Thấy lửa biết cháy, thấy nước biết ướt. Ai ai cũng biết, người lớn con nít, người trí, người ngu đều biết hết. Nhưng một chút xíu trong tâm tại mê muội, tối tâm chẳng biết gì cả. Cái ở ngoài đều biết, cái ở trong của mình một chút cũng không biết. Tại sao? Vì bệnh chấp thật của mình che lấp mất cái biết Bát Nhã làm cho tối tâm không biết một chút gì về tâm.

Như vậy, không hiểu tâm mình, làm cho mình nghi, không hiểu lại thêm không hiểu, chấp lại thêm chấp. Biết tham thiền rồi cứ tham, không hiểu và chấp không thèm biết tới các thứ sai biệt và vọng chấp của tâm mình ra. Tự tánh không có sai biệt. Vì có tâm chấp nên có chúng sanh, có chúng sanh nên có Phật. Nếu không có chúng sanh thì ai thành Phật? Nếu không có chấp thì không làm chúng sanh, không có chúng sanh thì không có Phật. 

Bởi vậy tất cả Hiền thánh từ ở trong cái chấp này mà nhập. Bây giờ mình đang chấp thì đã nhập rồi, sau này hết chấp cũng thành Phật thành Tổ, tất cả Hiền thánh đều qua con đường này, cũng phải từ đây mà nhập đạo để đạt đến giác ngộ thành Phật. 

Lời nghĩa giải:

Tổ sư nói: “Hồ nghi dứt sạch, chánh tín vững chắc”. Người nghĩa giải cho rằng: Tín có hai thứ: Chánh tín và tà tín. Tin tự tâm là Phật chẳng cầu bên ngoài là chánh tín. Chẳng tin tự tâm là Phật khởi tâm tìm cầu bên ngoài, dù có làm việc lớn, đều gọi là tà tín.

Phải biết, chánh tín cũng có chỗ không hiểu có nghi. Nhưng ở trong chánh tín chưa có chứng được, cho nên mình sinh ra cái không hiểu, có nghi. Cách thực hành tham thiền, đề câu thoại đầu, khởi nghi tình ngày đêm miên mật, có ngày khối nghi tan rã, thì được kiến tánh thành Phật, thấy biết rõ ràng mọi vật. 

Vậy đại nghi thì đại ngộ, nghi nhiều chừng nào ngộ triệt để chừng nấy. Phải biết cái ngộ là cái quả của tín. Nghi là nhân, ngộ là quả. Tại sao nói tín? Tổ sư nói: Lòng tin có mười phần, thì nghi cũng được mười phần; nghi được mười phần thì ngộ cũng được mười phần. Trước tiên mình phải ở trong tín mà nhập, nếu không tin làm sao đến đây nghe Pháp, học tham thiền, vậy trước phải tin, rồi đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình.

Pháp sư Tăng Triệu nói: “Quả chẳng có nhân, vì nhân thành quả” cũng như đã ngộ, thì không còn nghi. Nhưng bây giờ phải có cái nghi; tham thiền rất chú trọng cái nghi, gọi là nghi tình. Như vậy ở trong ngộ không có nghi (tức là không có nhân), nhưng vì có cái nhân (cái nghi) mới thành quả (ngộ), mình biết như vậy, lúc có tin là lúc ngộ, lúc ngộ không khác gì lúc tin. Không những đã tin mà đang thực hành tham thiền thì một ngày nào sẽ đạt đến ngộ.

Như có đi thì phải có đến, ví dụ: Đường đi đến đích là 100 bước, đi được một bước còn lại 99 bước, đi được hai bước còn lại 98 bước, cứ như thế mà đi có ngày sẽ đến đích. Đi mau thì mau đến, đi chậm thì chậm đến, có đi sẽ có đến. Tín Tâm Minh của Tam Tổ chính là ý như vậy, phải tin tự tâm. 

Cho nên, người tham thiền tin Pháp môn 100% thì chưa đầy phân nửa. Tại sao? Vì chỉ tin pháp môn, chưa tin tự tâm. Cần nhất là phải tin tự tâm mới là chánh tín. Nếu không tin tự tâm thì lọt vào tà tín, tà tín chỉ được tà ngộ, chứ không được chánh ngộ, tà ngộ không được giải thoát thành Phật, cho nên tin tự tâm rất cần, Tổ mới đặt tên Tín Tâm Minh. 

Phải biết, người có căn khí lớn vừa nghe liền biết mình đã sẵn có vật từ xưa, thì Tự tánh của mình từ vô thỉ đâu có mất; nhưng bị vọng tâm mình chấp thật, thành bụi bậm che lấp, mình không phát hiện cái dụng tự động Tự tánh của mình. Phải bị cái khổ sanh tử làm oan cho tới ngày nay. Đã biết tham thiền tin tự tâm là Phật rồi, là đồ vật của mình từ xưa có sẵn, cần phải quyết chí mới được, thì phải quyết tử tham thiền. 

Bây giờ chưa được giác ngộ, nhưng đã có tin tâm mình là Phật rõ ràng, lúc lạnh quên mặc thêm áo, tính mạng có thể bỏ cũng được, nhưng chánh tín một chút cũng không được bỏ. Nên Cổ Nhân nói: “Giả sử bánh xe lửa chuyển trên đỉnh đầu tôi, cũng chẳng vì khổ này, làm mất tâm Bồ Đề”. Cái niệm chánh tín nếu thật vững chắc như thế. Đâu có lẽ nào chẳng được thân chứng!

Ngoài ra, nếu do tà tín mà sanh nghi, nghi mãi không thôi thì phải sanh khởi kiến chấp điên đảo, đuổi theo cảnh duyên hy vọng ắc đọa địa ngục vô gián.

Tịch nghĩa giải:

Phải thì phải, nếu như tin tức là ngộ, thì ngộ lộn vào nguồn linh (Tự tánh). Nếu nguồn linh có xuất có nhập là hai, thì không phải linh nguyên. Thì chữ tín này còn đặt để ở chỗ nào? Bởi vì tự tánh đâu có bản thể mà an lập! Để đặt để chữ tin. Nếu nói có chỗ khác để đặt được, thì chỉ ra cho tôi xem! Nếu không có chỗ đặt, thì lời Tổ sư là lời thừa rồi. Cho nên, nói cái đạo lý cao là vô dụng, cần phải tự tâm tham cho đến tự ngộ mới được.

Kệ kết thúc:

Gốc tin chẳng chánh khởi hồ nghi,
Niệm nghi tan rã chánh tín khởi.
Lời nói rõ ràng được tương tự,
Cách xa tổ đình như chân trời.

(Niệm nghi như lửa tiêu băng, tiêu được rồi cái tin được duy trì. Nhưng nói thì giống như thật, mà giống không phải chân thật, có nói lý cao siêu đều vô dụng, đối với Tổ đình Thiền tông cách xa như nhìn thấy chân trời. 

Làm sao gần Tổ đình Thiền tông? Thì phải chân tham thật ngộ, phải quyết tử ôm chặt câu thoại đầu mà tham, tham đến chừng nào kiến tánh mới thôi, nếu không phải, cứ lấy ý thức kiến giải thì vô dụng, đối với việc sanh tử chẳng có liên quan gì. 

Như người đói, chỉ nói tên cơm, hay phân tích các chất trong cơm có đủ thứ… dù có phân tích kỷ lưỡng nói hay, nhưng không ăn cơm, rồi cũng bị chết đói. Bằng như người không biết gì, chỉ cần ăn cơm thì được no.

57. NHẤT THIẾT BẤT LƯU, VÔ KHẢ KÝ ỨC.

Dịch

Tất cả chẳng lưu giữ, thì không thể ghi nhớ.

Lời khai thị:

Đại tâm rộng như hư không. Lời của Phật, lời của Tổ nói chữ Đại (lớn) là siêu việt số lượng. Đại trí là trí huệ của tự tâm, cũng là siêu việt số lượng, cũng như ánh sáng mặt trời chiếu khắp tất cả nơi không có chỗ nào thiếu sót. 

Muốn đạt đến đại trí, ngộ được đại tâm, thì phải tham thiền, tham thiền cần đại nghi, đại nghi thì mới đại ngộ. Đại nghi như đóng lửa lớn; lớn này cũng siêu việt số lượng. Nghi tình là cái chổi tự động quét sạch tất cả, gặp cái gì cũng quét, gặp ma quét ma, gặp Phật quét Phật, cũng như lửa gặp cái gì cũng đốt cháy. 

Đại pháp như vách bằng sắt, không có cửa để vào. Pháp môn tham thiền cũng vậy, phải ở tự tâm mà ngộ, chứ không phải ở ngoài tâm mà được. Tự tâm của mình từ vô thỉ đến nay, nó vẫn như vậy. Sức hét của Lâm Tế cũng không thối lui. Cây phản của Đức Sơn danh tiếng trong Thiền tông, dù đánh nó nhưng không bể, nó vẫn còn nguyên vẹn. Dù có bị luân hồi sinh tử từ thai trâu bụng ngựa… nhưng nó vẫn y như vậy.

Vọng tâm mình nghĩ này nghĩ kia, như lo chuyện gia đình lo chuyện con cái… là tự tâm buộc tự tâm, giống như sợi dây leo quấn trên cây bó buộc chặt, không thôi dứt. Người còn vọng tâm nói rằng: Cát đằng đó (sợi dây leo) hôm qua tôi đã nhổ ra hết rồi, hiện giờ ở trong nắm tay của tôi. Vậy hỏi người ấy: Đã nắm trong tay thì đặt ở chỗ nào? 

Thoại đầu thì ở ngoài lời nói, không phải ở trong lời nói. Mà ngộ được mới là triệt để, thì hết cát đằng. Nếu nói có cát đằng để nhổ từ nắm tay, thì bệnh chấp thật vẫn còn; bệnh chấp thật còn thì chưa biết về nhà. Có cái nhà tự do tự tại mà chưa biết về thì ở nơi đất bằng sanh ra nhiều chướng ngại; có cái này cái kia làm chướng ngại đường đi của mình, càng thêm khó khăn nữa.

Vì có tri kiến nhiều chừng nào bị chướng ngại nhiều chừng nấy, gọi là sở tri chướng. Cái nghi tình là cây chổi tự động, nếu có khởi niệm muốn quét cũng là chướng ngại, khởi niệm không muốn quét cũng là chướng ngại. 

Tham thiền không được trừ vọng tưởng, không được buông bỏ vọng tưởng, không được đè nén vọng tưởng. Không biết đến có vọng tưởng, tức là có vọng tưởng cũng quét, không vọng tưởng cũng quét, mới hợp với Tổ Sư thiền. Nếu nói “có cái vọng tâm tôi nắm ra rồi” gọi là hư vọng, làm chướng ngại đường đi của mình không được kiến tánh.

Lời nghĩa giải:

Tổ sư nói: “Tất cả chẳng lưu giữ, thì không thể ghi nhớ”. Người nghĩa giải cho rằng: “Chỗ tâm hành diệt là tất cả chẳng lưu”. Đường ngôn ngữ dứt là “không thể ghi nhớ”. Ngoài không có pháp để bỏ là tất cả chẳng lưu, trong không có tâm để giữ là không thể ghi nhớ. Ngài Vĩnh Gia nói: “Kiến tánh thấy không một vật, chẳng phải người, chẳng phải Phật, hằng sa thế giới như bọt biển, tất cả Thánh hiền như điện chớp”. Tức là sau khi kiến tánh, tất cả đều biết rõ ràng, không còn có người, không còn có Phật, tam thiên đại thiên thế giới như bọt nước ở trong biển. Tất cả Phật, tất cả Tổ sư như điện chớp gọi là tất cả chẳng ghi nhớ. Tổ sư khi ngộ làm bốn câu kệ:

Đốt hương tỉnh tọa ở Nam Đài,
Suốt ngày tỉnh lặng muôn niệm quên.
Chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng,
Chỉ vì chẳng việc để suy lường.

Lúc đã kiến tánh rồi không có việc để suy nghĩ, tất cả đều là cái dụng của Tự tánh, khỏi cần suy nghĩ mà nó hiện ra cái dùng. Định của Thiền tông là na già định, tức là định ở trong động, không phải ngồi yên một chỗ cho là định. Định ở trong động thì lúc ăn cơm, mặc áo, đi tắm, làm việc, đi cầu,… đều là định, ấy là cái dụng tự động của Tự tánh, cũng là không thể ghi nhớ.
Lời giải trên rất có lý, nhưng chẳng phải nên ngài Trung Phong còn phải phủ nhận.

Tịch nghĩa giải:

Vậy, dẫn chứng cũng được tương tợ, dẫu cho ông đem hết ngữ ngôn của Phật, Tổ dẫn chứng như cái thúng đựng nước không chảy, chỉ là càng ghi nhớ thêm nhiều mà thôi. Muốn tất cả chẳng giữ, há có thể được ư!

Cho nên nói thì đúng, dẫn chứng giống hệt chỉ thêm tri kiến, đối với việc sanh tử chẳng có liên quan gì; mình phải tự tham tự ngộ mới được.

Kệ kết thúc:

Tất cả chẳng giữ càng sanh kiến (giải), 
Trọn không ghi nhớ vẫn còn tri.
Nếu chẳng đích thân về quê nhà,
Bệnh đói, bánh vẽ làm sao trị.

(Tất cả chẳng ghi nhớ thì ai biết có chẳng ghi nhớ? Nếu có tất cả chẳng ghi nhớ thì còn tri kiến. Tri kiến còn làm sao nói chẳng ghi nhớ, nói như thế nào dẫn chứng lời của Phật, lời của Tổ đều là ghi nhớ. Nếu không đích thân về quê nhà Tự tánh, có dẫn chứng nhiều chừng nào là chướng ngại nhiều chừng nấy, cũng như bánh vẽ để trị bệnh đói, làm sao được! Sự ngộ thì phải đích thân mình tự ngộ mới được).
 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

tin túm niem Gio ngu nghi ve dieu giac ngo thu nhat trong kinh bat dai 教师节的对联 สโตร ส รา Uống trà giúp giảm cân Danh hiệu Avalokiteśvara trong Tịnh Độ Thầy 礼佛大忏悔文 华藏宗门 เพรงดนต ฟ tÃÆ 激安仏壇店 ý nghĩa lễ hằng thuận chí ï¾ ï¼ 一念心性 是 僧人心態 tho cung cha me hay ong ba qua vang nhieu noi co Buffet Cỏ Nội mùa chay quốc hoa ماتش مصر والراس الاخضر يلا ÍÛ Chí cça cam nhan ve dieu giac ngo thu nhat trong kinh bat å æžœå žå¾ 盂蘭盆会応慶寺 4 tot Ã Æ pháp khí tu tập trong phật giáo Tổ 描写家乡的桥的句子 Thực phẩm ngừa tiểu đà nẵng Thơm ngon các món ăn từ cốm 村上市お墓 护法 bản năng và lý trí theo quan niệm 倓虚法师 長谷寺僧堂安居者募集 อาจารอเกว bàn về vấn đề ăn chay 05 đưa tâm về nhà phần 2 giÕ บทความบรรยายธรรม cần phải tu trong mua bán kinh doanh ï¾