Lời
Nói Đầu
Kẻ học
này chẳng tự lường sức, thời tuổi trẻ từng phát tâm
đọc hết Bộ Kinh Đại Tạng và Tục Tạng. Bắt đầu từ
Kinh Tục Tạng chữ, bình quân mỗi ngày đọc 10 tiếng đồng
hồ, như thế trải qua một năm mới đọc đến tập 7 (Kinh
Tục Tạng gồm 150 tập), phải tốn 20 năm mới có thể đọc
hết nguyên bộ, trong đó chưa kể đến Kinh Đại Tạng!
Từ đó mới
biết sai lầm và dẹp bỏ cuồng tâm, chuyên đọc Ngữ Lục
của Thiền Tông, tìm thầy học Tổ Sư Thiền, tham thoại đầu
và khán thoại đầu đồng thời tiến hành, đến nay đã trải
qua 30 năm vậy.
Nhiều năm
nay nhân gặp nhiều người học Phật đồng tu, đều nói biển
Phật mênh mông, thường khiến họ chẳng biết hạ thủ từ
chỗ nào, chỉ có thể dừng bước nhìn biển mà ta thán, thậm
chí có người vì thấy khó quá mà thối lui. Vì thế nên kẻ
học này đã chẳng ngại học kém, mạo muội trích lục yếu
chỉ của kinh Đại Thừa liễu nghĩa, ngữ lục của Chư Tổ
và hiền triết, soạn thành tập yếu chỉ này, mong góp phần
trợ lực cho người học Phật tiết kiệm được thời gian
và tâm sức. Kẻ học này cả gan phô trình sự kém cỏi, khó
bề tránh khỏi sai sót, kính mong độc giả từ bi chỉ giáo.
Thích Duy
Lực
Thế
Lưu Bố Tưởngvà Trước Tưởng
(Trích
từ Kinh Đại Bát Niết Bàn)
Hỏi: Ở
nơi thế gian, thánh phàm khác biệt; phàm phu ngoài tâm chấp
pháp, vọng lập kiến văn, bậc Thánh đã ngộ nhất tâm, tại
sao còn có tri kiến như phàm phu?
Đáp: Bậc
Thánh dù có tri kiến nhưng thấu rõ vật hư như huyễn, chẳng
sanh chấp trước. Như Kinh Đại Bát Niết Bàn nói:
"Bồ Tát
Ca Diếp bạch Phật: Thế Tôn, nếu như phiền não sanh bởi
điên đảo tưởng thì tại sao tất cả bậc thánh đều thật
có điên đảo tưởng mà chẳng có phiền não?
Phật bảo:
Sao nói bậc thánh có điên đảo tưởng?
Bồ Tát Ca
Diếp rằng: Bạch Thế Tôn, tất cả bậc thánh cũng gọi con
trâu là trâu, gọi con ngựa là ngựa, và gọi nam nữ, lớn
nhỏ, nhà cửa, xe cộ v.v... ấy tức là điên đảo tưởng.
Phật bảo:
Thiện nam tử, tất cả phàm phu có 2 thứ tưởng; Thế lưu
bố tưởng (thế lưu bố nghĩa là thế gian đã phổ biến
lưu hành) và trước tưởng, bậc thánh chỉ có thế lưu bố
tưởng mà chẳng có trước tưởng. Phàm phu chấp trước nên
ở nơi thế lưu bố tưởng sanh khởi trước tưởng; bậc
thánh khéo giác quán nên ở nơi thế lưu bố tưởng chẳng
sanh trước tưởng. Cho nên phàm phu gọi là điên đảo tưởng;
bậc thánh dù tri mà chẳng gọi là điên đảo tưởng. Lại,
do cảnh vốn tự không, đâu cần hoại tướng! Do linh tâm
tự chiếu, đâu nhờ cảnh sanh! Nên chẳng như phàm phu chấp
trước năng sở tri kiến vậy.
Triệu Luận
nói: "Hễ có sở tri thì có sở bất tri. Do thánh tâm vô tri
nên vô sở bất tri". Cái tri của bất tri gọi là Nhất Thiết
Tri, nên Kinh nói "Thánh tâm vô tri mà vô sở bất tri" thật
đáng tin vậy. Cho nên bậc thánh trống rỗng nơi tâm mà thật
tế chiếu soi, suốt ngày tri mà chưa từng (cho là) tri, như
nước lắng soi bóng, há có lập tâm năng sở; cảnh trí đều
không, đâu có cái tư tưởng giác tri ư!
Theo sự trình
bày trên đây (Kinh Đại Bát Niết Bàn) thì biết: Ở nơi pháp
thế gian chẳng sanh khởi trước tưởng tức là pháp xuất
thế gian, cũng là Phật pháp. Chứ không phải ngoài pháp thế
gian mà có pháp xuất thế gian đặc biệt gọi là Phật pháp
vậy.
Nói tóm lại,
đối với cuộc sống hằng ngày, đói thì ăn, khát thì uống,
lạnh thì mặc thêm áo, nóng thì cởi bớt ra, cho đến nói
năng tiếp xúc, làm việc v.v... đủ thứ pháp thế gian đều
chẳng sanh khởi trước tưởng, tức là Phật pháp vậy. (Chẳng
đem chủ quan của mình xen vào sự vật của thế gian tức
là chẳng sanh trước tưởng, cũng là chẳng có "cho là" để
lọt vào nhị biên đối đãi vậy.)
Hai
Thứ Chiêm Bao
Do Duy
Thức Biến Hiện
1/ Độc Đầu
Ý Thức biến hiện Nhắm Mắt Chiêm Bao
Ban đêm,
thân thể của chúng ta nằm trên giường, nhắm mắt ngủ say,
tiền ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) đều ngưng nghỉ,
duy chỉ có một mình thức thứ sáu hoạt động, biến hiện
thân thể và thế giới trong chiêm bao.
Người trong
chiêm bao tiếp xúc mọi vật trong chiêm bao đều có cảm giác
là thật; tiếp xúc nóng biết là nóng, lạnh biết là lạnh,
đủ thứ cảm giác buồn vui, cũng cảm thấy đau khi bị người
đánh v.v... Giả sử lúc ấy có một vị thiện tri thức bảo
người trong chiêm bao rằng "Tất cả những gì mà ông tiếp
xúc đều chẳng có thật, kể cả thân thể của ông cũng
chẳng phải thật" thì đương nhiên người trong chiêm bao chẳng
chịu tin mà còn nói: Ông nói chẳng thật, nhưng tại sao khi
tôi tiếp xúc lại có cảm giác là có thực chất? Nếu ông
nói cơ thể của tôi cũng chẳng thật thì tại sao khi bị
đánh lại cảm thấy đau? Giải thuyết của ông dù có lý
nhưng tôi chẳng thể tin nổi."
Khi người
trong chiêm bao ngủ đã rồi tự mình thức giấc (Duy Thức
Học gọi là "Tự chứng phần"), lúc ấy lập tức tự mình
chứng tỏ thế giới và người trong chiêm bao hóa ra đều
không phải thật, vì thế giới và người trong chiêm bao đều
biến mất, chỉ còn thân thể nằm trên giường mà thôi. Ấy
là nhắm mắt chiêm bao.
2/ Đồng
Thời Ý Thức biến hiện Mở Mắt Chiêm Bao
Bây giờ,
tiền ngũ thức và ý thức (thức thứ sáu) đều đang hoạt
động, ví như nhĩ thức nghe thấy tiếng nhưng không biết
là tiếng gì, là tiếng người hay tiếng chim kêu chó sủa.
Không biết được, phải nhờ thức thứ sáu đồng thời khởi
lên mới có thể phân biệt là tiếng người và đó là tiếng
của người già, trẻ, nam nữ v.v... Nếu riêng chỉ có nhĩ
thức thì chỉ nghe được âm thanh nhưng không thể phân biệt?
Nếu chỉ có thức thứ sáu thì lại chẳng thể nghe được
âm thanh, cho
nên hai thức
phải đồng thời khởi lên mới biến hiện mở mắt chiêm
bao.
Mọi người
chỉ cho nhắm mắt chiêm bao mới là chiêm bao, còn mở mắt
chiêm bao thì chẳng phải chiêm bao. Bởi do nhắm mắt chiêm
bao có thể tự thức tỉnh và tự chứng minh được, còn mở
mắt chiêm bao thì chẳng thể tự thức tỉnh, phải trải qua
tu hành đến giác ngộ rồi mới thức tỉnh được. Ví như
tham thiền kiến tánh thành Phật tức là từ mở mắt chiêm
bao thức tỉnh; nếu chưa giác ngộ thì vẫn còn nằm trong
chiêm bao. Mặc dù Phật Thích Ca đã giải thích rất kỹ càng
trong kinh điển như Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Già v.v... nói
hai thứ chiêm bao đều là tâm tạo, tức là "nhất thiết duy
tâm tạo". Nhưng đối với người chưa thức tỉnh thì họ
vẫn không tin vì còn nằm trong chiêm bao, cũng như người ở
trong nhắm mắt chiêm bao vậy, phải đợi khi tỉnh giấc rồi
mới có thể tự chứng minh được. Duy Thức Học gọi là
"được tự chứng phần", cũng gọi là kiến tánh.
Một cái
thức biến hiện là do tâm tạo, hai cái thức đồng thời
biến hiện cũng là do tâm tạo. Do tâm tạo thì chẳng phải
thật, chẳng thật nên mới gọi là chiêm bao, ấy là "hai thứ
chiêm bao do Duy Thức biến hiện" vậy.
****
Bởi do tâm
thức của chúng ta ngày đêm hoạt động chẳng ngừng, dĩ
nhiên phải biến hiện hai thứ chiêm bao kể trên, cũng như
cơ thể của chúng ta chẳng ngừng xoay chuyển ắt sẽ thấy
những cảnh vật xung quanh cũng xoay chuyển theo. Cảnh vật
xoay chuyển ví như sanh tử luân hồi, cơ thể xoay chuyển ví
như tâm thức hoạt động, hễ tâm thức ngưng hoạt động
thì sanh tử luân hồi cũng ngưng hoạt động, ấy gọi là
Niết bàn, cũng là từ mở mắt chiêm bao thức tỉnh, Phật
pháp gọi là Giác ngộ (chứng ngộ), cũng gọi là kiến tánh
thành Phật.
Nếu chúng
ta hiểu được hai thứ chiêm bao đều duy thức biến hiện
thì đối với câu "Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, Nãi chí
vô lão tử, diệc vô lão tử tận" của Bát Nhã Tâm Kinh tự
nhiên tin chắc chẳng còn nghi ngờ vậy.
Biểu
Đồ Của Bốn Thừa
Phương tiện
của Phật pháp có thể chia thành bốn giai đoạn như sau:
1/
Tiểu Thừa |
2/
Trung Thừa |
3/
Đại Thừa |
4/
Tối Thượng Thừa |
-
Giai đoạn chấp ngã
-
Chủ quan: Duy Vật Luận
-
Phạm vi: tương đối
-
Tu Tứ Thánh Đế
-
Ở trong nhất niệm vô minh
-
Thừa Thanh Văn.
-
Mục đích:
Đoạn
dứt lục căn |
-
Giai đoạn pháp chấp
-
Chủ quan: Duy Tâm Luận.
-
Phạm vi: tương đối
-
Tu 12 nhân duyên
-
Ở trong nhất niệm vô minh
-
Thừa Duyên Giác
-
Mục đích: Đoạn
nhất
niệm vô minh |
-
Giai đoạn không chấp
(chấp
không)
-
Tâm vật hiệp nhất
-
Phạm vi: tương đối
-
Tu sáu Ba La Mật
-
Ở trong vô thủy vô minh
-
Tu Bồ Tát Thừa
-
Mục đích: Phá
vô
thủy vô minh |
-
Giai đoạn Thật Tướng
-
Phi tâm phi vật
-
Phạm vi: tuyệt đối
-
Tham thoại đầu
công
án.
-
Chơn như Phật tánh
-
Nhất Phật Thừa
-
Vạn đức viên mãn, vô tu vô chứng |
So
Sánh Sự Sai Biệt Giữa Đại Thừa Và Tiểu Thừa
(Đại thừa
gồm Tối Thượng Thừa, Tiểu Thừa gồm Trung Thừa)
1/ Điểm
xuất phát chẳng đồng:
a/ Tiểu thừa:
Bắt nguồn từ nhân sinh quan đắm khổ, nghiệp cảm duyên
khởi, nhàm chán phiền não mà cầu nơi thanh tịnh.
b/ Đại thừa:
Từ nhân sinh quan từ bi, chân như tỏa ra, lấy hóa tha tự
tại làm chí nghiệp.
2/ Hành vi
chẳng đồng:
a/ Tiểu thừa:
Tự lợi tự độ, chỉ được giải thoát theo tiêu cực, tức
là lấy đoạn dứt phiền não làm Niết Bàn và mục tiêu cuối
cùng.
b/ Đại thừa:
Tự độ độ tha, lấy hoạt động tích cực làm hành vi, đắc
đại tự tại làm tư tưởng chung cuộc.
3/ Cảnh giới
chẳng đồng:
a/ Tiểu thừa:
Ngừng nơi hiện tượng giới.
b/ Đại thừa:
Vào nơi thật tại giới.
4/ Phương
pháp chẳng đồng:
a/ Tiểu thừa:
Dứt lục căn, đoạn nhất niệm vô minh, vào nơi đoạn diệt,
chủ nghĩa cấm dục.
b/ Đại thừa:
Phá vô thủy vô minh, kiến Phật tánh, chủ nghĩa tự tại,
chủ nghĩa thật tại (tức Chơn Như), Sắc tâm và pháp thể
đều tồn tại vĩnh viễn.
5/ Lý luận
chẳng đồng:
a/ Tiểu thừa:
Tầm khảo sát ngưng nơi hiện tượng và cho rằng chủ khách
thực tế tồn tại, là nhị nguyên luận, ngoài ra dùng chủ
nghĩa cảm giác phủ định những thật tại ngoài cảm giác.
b/ Đại thừa:
Siêu việt phạm vi nhận thức của bộ não, sự cùng tột
của thật tại với hiện tượng giới chẳng khác, chủ khách
như một, chơn vọng hiệp nhất, là nhất nguyên luận, là
thật tại luận siêu việt Hình nhi Thượng.
Triết học
phương Tây chỉ có hai giai đoạn: Ngã chấp và pháp chấp
đều nằm trong phạm vi của nhất niệm vô minh, tức là tư
duy và lý niệm. Nhưng tư duy và lý niệm đều là hóa thân
của nhất niệm vô minh, cũng là tác dụng của bộ não. Mục
đích của Triết học phương Tây là nghiên cứu lý luận để
tìm hiểu nên chẳng chịu rời bỏ nhất niệm vô minh, bởi
vì nếu tiến vào phạm vi của vô thủy vô minh thì cảm giác
trống rỗng chẳng có lý luận để truy cứu, cũng chẳng có
gì để tìm hiểu, hoàn toàn trái ngược với mục đích của
họ. Cho nên xưa nay các nhà Triết học phương Tây chưa ai
từng đi vào cảnh giới của vô thủy vô minh, hễ chưa vào
cảnh giới vô thủy vô minh thì chẳng thể đột phá cái chấp
không, cũng chẳng vào được tuyệt đối. Phá được cái
chấp không tức là kiến tánh, đạt đến tự do tự tại
vĩnh viễn. Mục đích của nhà Triết học phương Tây là truy
lý cầu tri, còn mục đích của tu trì Phật pháp là liễu
thoát sanh tử; Triết học phương Tây chú trọng lý luận,
còn Phật pháp thì chú trọng thực tiễn, tức là từ nhất
niệm vô minh tiến thẳng vào tuyệt đối vậy.
Tứ
Tướng
Tứ Tướng
trong Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang và Kinh Lăng Già (Là bốn
thứ cảnh giới mà chúng ta lầm nhận nơi tự tâm) có hai
thứ:
1/ Mê thức
tứ tướng của phàm phu:
- Chấp thân
ngũ uẩn là ta, gọi là ngã tướng.
- Bỏ ngã
tướng chấp vào toàn nhân loại, gọi là nhân tướng.
- Bỏ nhân
loại chấp toàn chúng sanh, gọi là chúng sanh tướng.
- Chấp có
thời gian thật, gọi là thọ giả tướng.
2/ Mê trí
tứ tướng của bậc thánh:
- Bậc thánh
biết có sở chứng, dù chứng đến bậc cao nhưng đều thuộc
ngã tướng.
- Tiến thêm
một bước, ngộ biết chẳng do ta chứng, siêu việt tất cả
chứng nhưng có năng ngộ, gọi là nhân tướng.
- Tiến thêm
một bước, rõ biết năng chứng năng ngộ là ngã tướng nhân
tướng, nếu đến được chỗ ngã tướng nhân tướng chẳng
thể đến, chỉ có tâm liễu tri, gọi là chúng sanh tướng.
- Lại tiến
thêm một bước, chiếu soi tâm liễu tri cũng bất khả đắc,
chỉ có một giác thể trong sạch, gọi là cứu cánh giác,
tất cả tịch diệt, cũng gọi là Niết bàn. Hễ còn trụ
nơi Niết bàn tức mạng căn chưa dứt, gọi là thọ giả tướng.
Nếu chưa
thấu suốt tứ tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả đều
là ảo tưởng, chẳng có mà hiện hữu, dù nói khiến được
tâm chẳng chấp trước, ấy là cố gắng ức chế, cũng là
đối với Có mà nói Không.
Nếu chưa
kiến tánh triệt để thì chẳng những phí sức dụng công,
mà gốc rễ (tánh chấp trước) vẫn còn; cho dù không ngừng
ức chế cũng là pháp chấp, Kinh Lăng Nghiêm nói: "Dù trong
tâm giữ u nhàn, vẫn là bóng phân biệt của pháp trần" vậy.
Bệnh tại một chữ "Thủ" (giữ), hễ có thủ thì có chấp.
Tại sao? Do sự thấy chưa triệt để vậy.
Nếu thấu
triệt bốn tướng ngã, nhân... đều là phi tướng thì rõ
biết tất cả tướng Có tức là phi hữu; có tức phi hữu
nên thấy như chưa thấy, dù vạn tượng sum la mà trong lòng
khoan thái, nên chẳng đợi ức chế mà tứ tướng ấy tự
nhiên trống rỗng, đâu cần giữ ư! Vô sở thủ thì vô sở
chấp, nên chẳng bị trệ ngại bởi danh tướng các pháp vậy.
36
Pháp Đối Trong Kinh Pháp Bảo Đàn
"Nay ta dạy
các ngươi thuyết pháp chẳng đánh mất bản tông: Trước
tiên phải y theo pháp môn Tam Khoa, dùng 36 pháp đối, ra vào
(khai thị bằng lời nói hay cử chỉ) thường lìa nhị biên,
tất cả pháp chẳng lìa tự tánh. Ví như có người hỏi pháp,
ý nghĩa lời nói song song, đến và đi làm nhân với nhau, đều
dùng pháp đối. Nếu không có đối đãi thì hai pháp "Nhị
biên và trung đạo" đều dứt, chẳng còn chỗ để nương
tựa.
Pháp môn
Tam Khoa là: Ấm, Giới, Nhập. Ấm là ngũ ấm, gồm sắc, thọ,
tưởng, hành, thức; Nhập có mười hai: Bên ngoài lục trần
gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, bên trong lục căn gồm
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Giới có
mười tám, gồm lục căn, lục trần, lục thức.
Tự tánh
bao gồm vạn pháp, gọi là Hàm tạng Thức. Nếu khởi niệm
suy lường tức là chuyển thức, khiến sanh lục thức, ra cửa
lục căn, tiếp xúc lục trần. Như vậy mười tám giới đều
từ tự tánh khởi dụng, tự tánh nếu tà thì khởi mười
tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh, niệm
ác dụng tức chúng sanh dụng, niệm thiện dụng tức Phật
dụng. Dụng bằng cách nào? Là do tự tánh lập ra pháp đối:
- Ngoại cảnh
vô tình có năm đối: Trời đối đất, nhựt đối nguyệt,
sáng đối tối, âm đối dương, thủy đối hỏa, ấy là năm
đối.
- Pháp tướng
ngôn ngữ có mười hai đối: Ngữ đối pháp, hữu đối vô,
hữu sắc đối vô sắc, hữu tướng đối vô tướng, hữu
lậu đối vô lậu, sắc đối không, động đối tịnh, thanh
đối trược, phàm đối thánh, tăng đối tục, già đối trẻ,
lớn đối nhỏ, ấy là mười hai đối.
- Tự tánh
khởi dụng mười chín đối: Dài đối ngắn, tà đối chánh,
si đối huệ, ngu đối trí, loạn đối định, từ đối độc,
giới đối quấy, trực đối khúc, thật đối hư, chông gai
đối bằng phẳng, phiền não đối bồ đề, thường đối
vô thường, bi đối hại, hỷ đối sân, bố thí đối bỏn
xẻn, tiến đối lui, sanh đối diệt, pháp thân đối sắc
thân, hóa thân đối báo thân, ấy là mười chín đối vậy.
Sư bảo:
"Ba mươi sáu pháp đối này nếu biết vận dụng thì thấu
đạo và tất cả kinh pháp, ra vào thường lìa nhị biên. Dụng
của tự tánh chẳng cần tác ý, nói năng với người, ngoài
thì ở nơi tướng lìa tướng, trong thì nơi không lìa không.
Nếu trọn chấp tướng thì sanh trưởng tà kiến, nếu trọn
chấp không thì sanh trưởng vô minh.
Nếu chấp
tướng bên ngoài mà vọng lập phương pháp để cầu chơn,
hoặc rộng lập đạo tràng, nói các lỗi lầm của Có và
Không, những người như vậy nhiều kiếp chẳng thể kiến
tánh. Các ngươi phải dạy người theo pháp tu hành, lại chớ
nên trăm điều chẳng nghĩ, làm cho đạo tánh bị ngăn ngại.
Nếu thuyết pháp dạy người, chớ nên nói "Tự tánh vốn
chẳng cần tu chứng", nói như vậy e rằng kẻ mê chẳng hiểu,
lại sanh tà kiến. Chỉ nên dạy người theo pháp tu hành, hành
pháp thí mà chẳng trụ nơi pháp tướng. Các ngươi nếu ngộ
thì thuyết như vậy, dụng như vậy, hành như vậy, tác như
vậy tức không đánh mất bản tông.
Nếu có người
hỏi nghĩa Có thì đáp Không, hỏi "không" thì đáp "có" hỏi
thánh thì đáp phàm, hỏi phàm thì đáp thánh, nhị biên làm
nhân với nhau, sanh nghĩa trung đạo. Hỏi nào đáp nấy, tất
cả các câu hỏi khác đều đáp như thế thì chẳng mất cái
chánh lý vậy. Như có người hỏi "thế nào là tối?" thì
đáp "sáng", hỏi "thế nào là sáng?" thì đáp "tối". Vì sáng
mất thì tối, tối mất thì sáng, dùng sáng để tỏ sự tối,
dùng tối để tỏ sự sáng, trở đi trở lại làm nhân với
nhau thành nghĩa trung đạo, tất cả câu hỏi đều phải như
thế. Về sau các ngươi truyền pháp, phải y đây mà dạy bảo,
chớ đánh mất tông chỉ."
Lược Giải
Nếu có người
hỏi pháp, ý nghĩa lời nói song song, đều dùng pháp đối;
dùng Vô phá Hữu, dùng hữu phá vô, dùng sáng phá tối, dùng
tối phá sáng, đến và đi làm nhân với nhau, nếu không có
đối đãi thì hai pháp "Nhị biên và trung đạo" đều dứt,
chẳng còn chỗ để nương tựa (vô sơ trụ). Dù nói đến
và đi làm nhân với nhau, thành nghĩa trung đạo, cũng chẳng
trụ nơi trung đạo, do hai đầu đã dứt thì không còn chính
giữa vậy. Nên ngài Lục Tổ nói "Lấy Vô Trụ làm gốc" (Thể);
Duy Ma Cật nói "Từ gốc vô trụ lập tất cả pháp" (dụng),
thể dụng bất nhị vậy.
Vô Trụ là
thể dụng của tự tánh, thuyết pháp chẳng lìa tự tánh cũng
như nghĩa ba câu của Kinh Kim Cang, nghĩa sắc không của Tâm
Kinh cũng là chẳng lìa vô trụ của tự tánh vậy.
Lại, như
Thiền sư Tần Bạt Đà nghe nói ngài Đạo Sanh thuyết pháp
khiến tảng đá còn phải gật đầu, bèn đến thăm hỏi rằng:
- Chẳng biết
Pháp sư thuyết nghĩa sắc không như thế nào?
Sanh nói:
"Chúng vi (nhiều hạt bụi) tụ lại gọi là sắc, chúng vi
chẳng tự tánh gọi là không"
Tần hỏi:
"Lúc chúng vi chưa tụ gọi là cái gì?"
Sanh không
trả lời được. Tần cầm cây quạt hỏi: "Thấy chăng?"
Sanh đáp:
"Thấy."
Hỏi: Thấy
cái gì?
Đáp: Thấy
Thiền sư tay cầm cây quạt.
Tần buông
tay, cây quạt rơi xuống đất, hỏi: Thấy chăng?
Đáp: Thấy.
Hỏi: Thấy
cái gì?