Phần
thứ Hai
Triết
Học Đại Quan
Các người, hãy tự mình
thắp đuốc lên mà đi!
Mahaparinibbanasutta
Chương I
Vũ
Trụ Quan
Quan niệm của tôn giáo
- Đạo Học
- Triết học
- Khoa học và của đạo Phật.
Từ khai thiên lập
địa cho đến ngày nay, khi trí thức con người đã triễn khai, nhân
đứng trước vũ trụ rộng lớn, nào trăng sáng, núi cao, biển rộng, sông
dài, mây bay, gió cuốn, hoa nở, chim ca… Tất cả hiện tượng ấy đã là
những thắc mắc của con người muôn thuở.
- Vũ trụ là gì?
- Con người do đâu mà có?
Những câu hỏi ấy luôn luôn ám ảnh tâm thức ta nó bắt ta phải suy
nghĩ, và đã có biết bao tư tưởng gia, đạo sĩ, triết nhân, đông cũng
như tây, đã để ra rất nhiều thì giờ, tâm lực, viết nên những bộ sách
vĩ đại, nhằm giải đáp những thắc mắc của con người. Nhưng... tất cả
chỉ là những mớ lý thuyết còn đọng lại trên trang giấy. Vì, triết lý
tức là đặt vấn đề để rồi truy vấn những dự kiện của vấn đề; hơn là
giải quyết vấn đề, nếu không muốn nói là không tưởng (!)
Vậy, muốn nghiên cứu khái quát về vấn đề quan trọng -
vấn đề tìm hiểu vũ trụ và
con người - rước hết ta nên du hành
qua các địa hạt
tôn giáo, đạo học, triết học, khoa học,
và nhất là đạo Phật, để khách quan tìm hiểu, nhận định và so sánh
những điểm dị đồng… rồi nhờ đó, ta có thể nắm vững vấn đề và giải
quyết vấn đề một cách chính xác hơn .
Trong các lãnh vực Tôn Giáo, đạo học, triết học, khoa học… lẽ tất
nhiên, mỗi bên có những lối đáp khác nhau. Điều cần là ta
nhìn, hiểu
nó với tâm trạng của kẻ lữ hành đang trên đường kiếm tìm chân lý sự
thật cuộc đời này.
Tôn Giáo
Trên thế giới có rất nhiều tôn giáo. Nhưng, ở đây chỉ bàn sơ luợc
mấy đạo giáo, đại diện cho mỗi khuynh hướng khác nhau . Trước hết,
ta tìm hiểu về Đa thần giáo, bởi vì tôn giáo này cũng có tính cách
liên hệ mật thiết trong việc suy tìm một vũ trụ quan sinh động.
Đa Thần Giáo (Polythéisme)
Từ sơ sử thời đại, khi con người đã biết sống quây quần với nhau
trong một khung cảnh bình thản, chất phác và hồn nhiên, nghĩa là con
người còn sống trong trạng thái man rợ “ăn lông ở lổ”; nhân đứng
trước cảnh hùng vĩ của trời đất, nào trăng sáng, gió reo, sấm chớp,
mưa táp bảo bùng… thì sinh ra khiếp sợ, vì tự cảm thấy mình bé nhỏ,
so với vũ trụ bao la!… Tư tưởng tín ngưỡng thần linh bắt nguồn có từ
đấy. Con người trong thời phôi thay ấy, đầu óc họ hãy còn trống rỗng
sự nhận thức rất thô sơ; chưa biết phải tìm phương thức nào để chống
lại với thiên nhiên, với thú dữ… Do đó, họ đành chịu khuất phục. Bất
cứ cái gì thuộc về nhiên giới cũng mang một ý nghĩa thần linh sáng
tạo và chi phối cả.
Núi, Sông, Cây, Cỏ, Đất,
Nước đều có thần linh cai quản. Họ đã
thờ thần Sông, thần Núi, thần Thổ địa. Sự thờ cúng không ngoài việc
cầu phúc tiêu tai; nếu chẳng may có sự rủi ro xảy đến, họ tín đã có
thần linh che chở, độ trì. Tục lệ này hiện nay vẫn còn thịnh hành ở
khắp dân gian. Ngoài ra, những ngày
Tết Trung Thu
(15 - 8 Âl) tết
Đoan Ngũ (hay Đoan Ngọ), 5 - 5 Âl và
các ngày Sóc,
Vọng, Hối, Huyền, cũng được người ta
duy trì một cách thản nhiên. Các tệ đoan khác, như xin quẻ, xem bói,
đốt vàng mã vv... cũng đều chịu ảnh hưởng của
tín ngưỡng Đa thần giáo
cả. Đấy phải chăng là do thành kiến xưa còn rớt lại, hay tại tim óc
người ta hãy còn đúc đặc bởi một tệ đoan ám ảnh. Những người theo
lối tín ngưỡng này, phần đông là dân tộc thiểu số, miền rừng núi.
Thấy sao tin vậy. Đây là trạng thái tâm lý của lớp người hãy còn
mang nặng đầu óc tín ngưỡng thần thoại dị đoan. Nhưng, khi trí óc
con người đã nẩy nở, thì quan niệm về thần linh cũng được xét lại,
theo một chiều hướng mới. Dưới đây ta hãy sơ lược xét về quan niệm
ấy.
Nhất thần giáo (monothéisme)
Trình độ trí thức con người lúc này đã cách biệt
hẳn trước nên sự tín ngưỡng cũng xoay chiều. Họ giảm lòng tin đối
với các vị thần, để đặt niềm tin vào một vị Thượng Đế xa vời, do óc
tưởng tượng của con người sáng tạo ra.
A. Bà La Môn Giáo
(Brahmanisme)
Tôn giáo này thoát thai từ một tôn giáo tối cổ của Ấn Độ là
Rig Véda,
có cách đây khoảng bốn nghìn năm, do người
Aryen
chủ lập.
Căn cứ trong thánh thư
Védas
thì sự tín ngưỡng duy nhất của tôn giáo này là thờ thần BRAHMA =
Phạm Thiên (linh hồn của vũ trụ), vị thần hằng có đời đời. Brahma
là căn thể của vũ trụ, hết thảy vạn tật đều do Brahma sáng tạo. Vì
Brahma là vô thủy vô chung. Đấy là quan niệm lúc ban sơ, nhưng qua
nhiều cải cách, và hiện nay, thánh thư mỗi ngày một tạo dựng thêm,
do đó ý niệm của con người (ngày nay) về một “đấng
tối cao” không còn giống như trước
nữa. Trong bộ Tế
Nghi Thư (Brahma na) cho rằng, đấng
Chủ Tể sáng tạo vũ trụ thế giới này là thần
PRAJPATI.
Và xét trên nguyên lý thì Prajapati với Brahma là một thể, đồng nhất
tính.
Triết lý hình nhi thượng của thuyết “Prajapati”
trong Thánh thư Brahmana, cho ta thấy: Prajapati từ chỗ vô hình biến
thành hữu hình. Hay nói khác, từ trừu tượng trở thành hiện thực,
nghĩa là từ cái
Không, đi đến cái
Có
(trong cái không nó có một
động tính;
rồi từ cái động
tính ấy nảy sinh
hiện thực
là thời gian và vạn vật) Nhưng trong bộ Áo Nghĩa Thư (Upanishad) lại
thường đề cập đến thần
ATMAN,
vì Atman là hiện
thể của thần tối cao Brahma. Atman là
hơi thở
là sinh khí có bàng bạc trong không gian và
cả trong vật thể nữa. Con người là một tiểu linh tính nằm trong cái
đại linh tính của Brahma. Thuyết lý này đã đưa Brahma lại gần với
con người, đưa ngay vào trong con người, tức là đặt con người bình
đẳng đấng Brahma.
Những tín đồ tôn giáo này đều tin rằng: Vũ trụ
lúc ban
sơ
- xin nhấn mạnh:
lúc ban sơ - là do một vị (tức đã nhân
cách hóa: Personnification) sáng tạo ra. Về phương diện tu dưỡng thì
thánh thư dạy con người phải xả
Ác
hành Thiện,
để sau khi chết (sẽ) được thần đón về thiên cung, hưởng cuộc đời
hạnh phúc, sống trong cảnh huy hoàng lộng lẩy; bằng ngược lại, nếu
bình sinh không chịu tu phúc, không tin theo lời dạy của vị giáo chủ
thì vẫn phải đày xuống hỏa ngục, chịu muôn nghìn thống khổ, và vĩnh
kiếp khó mà thoát ra!…
B. Cơ Đốc Giáo
(Christianisme)
Đạo này được thành
lập đến nay đã gần XX thế kỷ, sau khi Jésus ra đời, và do sự cải
cách một tôn giáo cổ Do Thái.
Chiếu theo “Cựu
Ước và Tân Ước”, người ta tìm thấy ở
giáo lý của giáo hội Cơ Đốc: “Thuở sơ khai, khi vũ trụ còn là một
khoảng không mênh mông mờ mịt!… nhờ có trí tuệ, tài năng và quyền
phép (sẵn có ) của Chúa Trời; trong bảy ngày đêm Ngài đã tạo thành
bầu trời, các vì tinh tú, trái đất, núi, sông, cây cỏ, người và vật;
mà lần đầu tiên con người có mặt trên trái đất là ông Adam và bà
Eva, kết cục hai người lấy nhau. Sau vì phạm trái cấm, nên bị chúa
phạt, từ đấy về sau con cháu đời đời bị buộc vào “Tội
Tổ Tông”.
Những người theo Cơ Đốc giáo đều tin tưởng ở ba ngôi:
+ Đức Chúa Cha: Thượng đế
(Diêu);
+ Chúa Con (Jésus);
+ Chúa Thánh Thần (Saint
Esprit)
Và, theo họ nhận
định thì, “Thiên Chúa là đấng Tự hữu”. Nghĩa là, không có ai sanh ra
Chúa cả. Vì, Chúa là đấng thiêng liêng vô hình vô ảnh, phép tắc vô
cùng! Nếu ai biết thờ phục Chúa vâng lời Chúa, làm những điều nhân
đức… đương nhiên được Chúa nhìn nhận ban phúc lành cho, và được Chúa
đưa lên thiên đường; vĩnh viễn không bao giờ phải sa đọa địa ngục.
Như trên, cho ta thấy, lập luận của Cơ Đốc giáo về
nguyên lai vũ trụ
này là do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà có…
C. Hồi Giáo (Islamisme)
Giáo chủ đạo Hồi
làMohammet (570 - 632), lúc thiếu thời ông sống cuộc đời bình thường
như mọi người khác, chưa có dấu hiệu nào tỏ ra là người xuất chúng,
hơn đời; sau trở nên một đại điền chủ nhờ cuộc kết hôn với một người
góa phụ…
Ông đã bỏ ra mười
lăm năm để tìm một con đường cải cách tôn giáo và xã hội cho dân
Arabe. Năm 630 TL kể như đánh dấu năm đầu của kỷ nguyên Hồi giáo.
Kinh Coran
coi như một thánh kinh Thiên Chúa thu nhỏ, trong đó gần như y nguyên
những tên Thánh, tên Đất. Kèm theo phần phụ lục lời dạy của đấng
tiên tri Mohammet (cũng gọi là Muhamad) được dùng ở các quốc gia Hồi
giáo như bộ luật hành chính, giảng luân lý vv… gồm 114 chương
(surate).
Hồi giáo là một
tổng hợp Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo. Chính Mohammet cũng không
giấu điều này, và tự xưng mình là đấng tiên tri và gọi các giáo chủ
khác (như Jésus) cũng chỉ là đấng tiên tri như mình thôi.
“Hồi giáo thịnh
hành ở Trung Á, Tây Á, Bắc Phi, Thỗ Nhĩ Kỳ và miền Tây bắc Trung Hoa
(Mahométisme Islamisme)”, HVTĐ.
Hơn 300 năm sau, Sa
hoàng Piotr muốn thành lập cho nước Nga một tôn giáo, liền tổng hợp
một lần nữa Hồi giáo và Thiên Chúa giáo, tự xưng là Chính thống giáo
- Orthodoxie - để tránh phải mang cái tên có tính cách kỳ thị như
Protestant: kẻ
chối bỏ (Tin Lành) Evanggéliques hay
Judaime Phản thệ giáo (Do Thái giáo). Ông cho rằng mình đã chọn giữa
hai thái cực: một đằng được lấy nhiều vợ mà kiêng có rượu (Hồi giáo)
và đằng kia có nhiều rượu mà không có đàn bà (Thiên Chúa giáo).
Trong 5 điều răn
của đạo Islam (tên mới tự xưng của tín đồ đạo Hồi ở VN) thì có hai
điều giống như đạo Phật: 1.
Cấm uống rượu,
triệt để hơn PG. 2.
Bố thí,
không cần phải hô hào, huy động mà đó là một “luật”. Đối với tất cả
tín đồ, có phương tiện sinh sống dư giả, thì đến mỗi cuối năm phải
trích ít nhất một phần năm (1/5) số lợi tức trong năm đem ra phân
phát cho người nghèo khó nhất của cộng đồng mình cư trú. Trong một
trăm năm, Islam đã truyền bá đạo bằng bạo lực. Mohammet thua trận và
chết năm 632.
Người Thiên Chúa
giáo và Hồi giáo đã nuôi một mối hận thù khôn nguôi, khi mà tám đội
viễn chinh Thập tự quân: Croisade liên tiếp đánh chiếm các nước
Arabe từ thế kỷ XI tới thế kỷ XIII, rồi các nước Âu Châu đi xâm lược
thuộc địa Arabe ở thế kỷ XIX.
Nói tóm lại, từ
ngành ngôn ngữ học người ta biết rằng tiếng
Sanskrit
là nguồn gốc của các ngôn ngữ Âu Châu để rút ra kết luận người
Aryen, một bộ tộc thời cổ mà địa bàn sinh sống là phần lớn nước Ấn
Độ, dưới chân rặng Caucase và rặng Hymalaya, là tổ của giống dân da
trắng ngày nay.
Tiếng Do Thái,
tiếng Arabe thuộc họ (Ấn Âu - Indoeuropéenne cùng phả hệ Inđo
européenne Sanskrit) Sémetic, gồm có tiếng Accadian, Ai Cập cổ,
Aramaic v.v…
Đạo Bà La Môn: Ăn chay, thường cúng tế.
Đạo Do Thái: năng
cúng tế, ăn chay, kiêng sát sinh, không được làm nghề bán thịt, nghề
đồ tể.
Do Thái giáo Thái
là tổ phụ Moise, Abraham, tổ của Jésus. Theo thứ tự niên đại, Bà La
Môn giáo, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Chính Thống giáo,
Anh Quốc giáo, (Anlicean), Tin Lành đều thờ chung một Thượng Đế (hay
chúa Trời) nhưng danh xưng có khác: Bà La Môn: Brahma; Do Thái giáo:
Jehovah; Thiên Chúa giáo: Dieu; Hồi giáo: Allah; Anh Quốc giáo; God.
Nhận xét chung của
một số nhà Thần Học Arabe và Tây phương: giáo lý gần như giống nhau,
chứng tỏ Đấng Cứu Thế chỉ có
Một
(đạo nào cũng thế) Và cũng của các nhà thần học ở cuối thế Kỷ XX:
Tất cả các Tôn giáo lớn rồi ra sẽ như những mạch suối cùng chảy vào
một biển lớn; chỉ một tôn giáo nào đó có đạo đức làm chuẩn mực,
nghĩa là bao hàm những điểm chính của tất cả các “đạo” và giáo lý
mang nội dung tư tưởng triết học hợp với con người thời đại hơn
(Phật giáo)
Đứng về phương diện
luân lý, tâm lý để nhận xét, thì các tôn giáo trên đây vẫn có sự lợi
ích trong việc khuyên người, dạy người làm lành tránh dữ, những ảnh
hưởng tốt cho xã hội hiện tại và mai sau. Tuy nhiên, đối với Bản Thể
Luận, thuyết thần tạo - thần sinh ra vũ trụ, vạn vật
đương còn mơ hồ và huyền bí lắm!
Đạo Học
Đạo Khổng (Confucianisme)
Những đạo học có danh tiếng ở Á Đông, truyền bá đi các nước lân cận,
trước hết, ta phải kể đến đạo Khổng. Đức Khổng phu tử, vị hiền triết
Trung Hoa, sinh năm 551 - 47 9 TTL, thời xuân thu. Chiến Quốc,
dưới triều đại nhà Chu. Ngài đã từng nhiều tháng năm luân lạc… mà
không một nơi nào trọng dụng, sau đành quay về nước Lỗ dạy học và
soạn sách, học trò theo học có đến 3000 người. Trong việc soạn thảo
sách, Ngài lấy “Quan Thư cổ xưa để chỉnh đốn lại làm bộ
kinh Thư,
lấy thi ca các đời trước đặt lại thành
kinh Thi,
san định kinh Lễ,
kinh Nhạc
và làm kinh Xuân
Thu
là lịch sử nước Lỗ”. Người ta bảo Khổng tử chỉ là người “thuật nhi
bất tác” Chính Ngài cũng thừa nhận điều đó.
Đạo Khổng thành lập không phải do Ngài - mà phần lớn. Ngài chỉ là
người thu nhập những gì tinh tuy nhất của Tiên Nho; rồi cải cách
những tư tưởng ấy làm thành một triết lý, luân lý thực dụng cho xã
hội nhân sinh. Khởi điểm của đạo Khổng là vấn đề quyết định sự tương
quan giữa thực tại
với tư tưởng
để hòa đồng cái tiểu ngã người đời vào cái đại ngã của vũ trụ -
lý tưởng thái hóa.
Trước hết, Khổng Tử nhìn vũ trụ là một “Thể vô cùng” tức là trong
mỗi vật hữu hạn đều có nằm sẳn cái thái cực vô hạn (lý thái cực), nó
bàng bạc chu lưu khắp cả…
“Dịch hửu thái cực, thị sinh
lưỡng nghi; lưỡng nghi sinh tứ tượng; tứ tượng sinh bát quái, biến
hóa vô cùng.”
- Lý thái cực
(Impersonnel) mà cổ nhân đã bàn trong kinh Dịch, gồm 64 quẻ, 384
hào, do trí quan sát, kinh nghiệm tìm ra từ đời
Phục Hy. Thần Nông để thuyết
mình sự tương quan giữa vũ trụ và vạn vật trong trường thiên diễn vô
cùng phức tạp… song qui định lại, gồm có ngũ hành
tương sinh, tương khắc, tuần tự sinh thành ra “Bốn tượng”,
Tám quẻ:
- Càn :trời.
- Khảm :nước, mặt trăng.
- Cấn :núi đá.
- Chấn :sấm.
- Tốn :gió, mưa.
- Ly :lửa, mặt trời.
- Khôn :đất.
- Đoài: kim khí
và do sự phối hợp của
Âm, Dương,
(lưỡng nguyên) làm thành tượng hình bằng những nét gạch
liền
và đứt
(tổng hợp). Mỗi quẻ tượng hình cho một trạng thái tương quan nối
liền giữa Trời,
Đất, Người.
“Dịch”, nghĩa là
động, biến dịch, vì khởi thủy có sự vật là có động.
Động,
là lẽ Sống của vũ trụ. Với luận lý này, đạo Nho không có ý mong
chiến thắng tạo hóa mà chỉ cốt
dịch hóa nó,
theo luật tiến hóa chung =
“Ngô đạo nhất quan chi”
(luận ngữ)
Trong những kinh
sách Nho gia tuy có nói đến chữ “thiên”, song không hẳn có nghĩa chỉ
Ông Trời
= “Thiên đạo chi
vị tính, xuất tinh chi vị đạo” Nghĩa
là, “cái khuynh
hướng tiềm tàng trong trời đất gọi là Tính, noi theo cái tính ấy mà
hành động thì gọi là Đạo”, Nhân tính
với thiên tính là một. Thiên đạo là luật điều khiển sự tiến hóa của
xã hội và con người…
Đạo Khổng xây nền móng trên một nhân sinh quan bắt đầu bằng chử
“Thành”.
Sống trong một xã hội loạn ly, bất công, muốn cải tạo nó tất phải có
một đường lối (chính trị) hợp thời, nên Khổng Tử đã đặt ra “Tam
Cương, Ngũ Thường”
để ổn định tình thế.
Ở sách Lễ Ký có ghi
lời đức Khổng Tử so sánh trạng thái xã hội Trung Hoa gồm: - “một
xã hội đại đồng” (Tam hoàng:
Phục Hy, Thần Nông
Hoàng Đế)
và – “một xã hội tiểu khang” (ngũ đế
Vũ, Thang, Văn Vũ, Thánh
Vương, Chu Công). Ngài ra đời mang
hoài bão cải hóa những đảo điên của thời đại “Xuân Thu” loạn lạc.
Đứng về phương diện luân lý, đạo Khổng khuyên con người:
Tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ, vì thân có tu, gia mới
tề, quốc mới trị, thiên hạ mới thái bình. Đó là những yếu lý nhằm ổn
định cuộc sống xã hội con người muôn thuở.
Đạo Lão (Taoisme)
Người sáng lập Đạo
là đức Lão Tử
(Lao Tzu), tên Đam, sinh năm 604 TTL. Trong thời niên thiếu, Lão Tử
chưa viết sách để truyền bá tư tưởng của mình; mãi về sau, Ngài mới
viết cuốn Đạo Đức
Kinh (gồm 81 chương có hơn ngàn lời),
Học thuyết Lão Tử rõ ràng pha mầu sắc yếm thế -
lý tưởng Đạo Lão là lý tưởng
siêu nhiên -nhìn cuộc đời như một cuộc
bất đắc dĩ (…) Đối với uyên nguyên của sự vật chỉ (được) coi như một
khối “tinh vân” mà Lão Tủ mệnh danh là “Đạo”(Bản
thể), nó vô hình, vô hạn, ở ngoài
không - thời gian, muôn nghìn hiện tượng cũng do “Đạo” biến hóa ra.
Bất kỳ vật gì trong trời đất điều có cái Đạo ấy ở trong và cùng với
Đạo là một thể = “Hửu vật hỗn thành, tiên thiên địa sanh” (25).
Nếu có phải gọi
vật tiên thiên
ấy là “Đạo”, đó chỉ sự miễn cưỡng mà thôi. Theo Lão Tử thì, “vật
tiên thiên” sinh ra vũ trụ vạn vật chỉ là một vật không tên =
Ngô bất tri kỳ danh, tự
chi viết “Đạo” (25).
Đạo Lão nhìn sự vật
trong cõi đời chỉ như là tuồng ảo hóa, không khác giòng nước chảy từ
nội giới ra ngoại giới, hết lớp này đến lớp kia “liên miên bất
tuyệt!”. Có đấy rồi không đấy. Về phương diện tu dưỡng, đạo Lão khởi
lập một thuyết gọi là “Vô Vi”, tức là
hành vi của vô ngã, của thân
thể, căn bản tính. Cái hành vi ấy gọi
là Đức; có ý khuyên người ta trở về với đạo đức, với trạng thái thuở
ban sơ cho tâm hồn được vắng lặng trong sạch, nghĩa là tách biệt
giữa ngã và vô ngã,
để sống cuộc sống thanh cao, có ý nghĩa hơn. Trên con đường tìm
sự thật,
đạo Lão đã hướng dẩn ta đến cái
Đẹp
và cái Thực,
đó là đạo đức và chân lý.
Triết Học
Ở thời kỳ sơ khai,
những tư tưởng lạ đã sớm lởn vởn trong đầu óc người ta, với bao cảnh
tượng kỳ bí của thiên nhiên, muôn vật đổi dời; tất cả hiện tượng
phôi bày ra ấy, chẳng biết có tự bao giờ.
- “Tâm” ư! “Vật” ư! hay
“Thiên nhiên” ư!
- Nguồn gốc của vũ trụ là gì?
Đấy là những vấn đề
đã làm chảy rất nhiều mực của các bậc hiền triết xưa cũng như nay!
Ngay từ thượng cổ
thời đại, các triết gia đã lần lượt xuất hiện và đã lập ra những hệ
thống tư tưởng
triết học không giống nhau; đã một
thời làm mưa làm gió tại các lục địa Trung Hoa - Ấn Độ, Cận Đông và
Địa Trung Hải. Khoảng bốn nghìn năm về trước, ở Đông phương, nhất là
Ấn Độ, quan niệm về triết học đã có. Lịch sử triết học Ấn Độ, trước
thời đức Phật, nguồn tư tưởng triết lý đã có hàm chứa trong các
thánh thư Védas.
Về sau càng được khai triển thêm qua các bộ thánh thư
Brahmana,
Aranyaka,
Upanishad…
Bộ Brahmana
(Tế Nghi Thư) gồm những bài thánh ca tán dương công đức và sự nghiệp
vĩ đại của thần chúa tể Brahma
(nguyên lý sáng tạo vũ trụ), và ghi những truyện về thần thoại cùng
chú giải các điển tích cao đẹp các bài thánh ca. Bộ
Aranyaka
(Sấm Lâm Thư) là ghi chép những triết lý huyền nhiệm và các phép bí
truyền của đạo… Bộ
Upanishad
(Áo Nghĩa Thư), nhằm giải thích những thánh ngữ và yếu chỉ của đạo.
Upanishad
còn có tên là thánh thư Vedanta,
tức thâu tóm những đoạn văn chính yếu trong hai bộ Tế Nghi Thư và
Sấm Lâm Thư. Bộ
Vedanta được liệt vào loại “thánh thư
mặc khải”.
Những thuyết lý về
vũ trụ vạn vật của các hệ phái sau này mỗi ngày càng đi xa với bản
chất nguyên thủy của nó. Chẳng hạn, trước kia người ta thừa nhận
Brahma là nguồn gốc của vũ trụ, thì nay lại cho vũ trụ hình thành là
do các yếu tố Đất,
Nước, Gió, Lửa, Không khí… Phái khác
nói: do các Tính Có – “Đại Linh Tính” phát sanh ra vật chất, ra tính
cách, ra nghiệp lực,… rồi các tính ấy kết hợp tạo thành muôn vật,
lần lần vượt lên chỗ trừu tượng; có những phái xướng ra
Không Gian Luận, Thời Gian
Luận, Phương Hướng Luận… bao nhiêu tư
tưởng trào ra, làm hổn loạn một thời!
Kế đó là đạo Phật
ra đời, đã tổng hợp các luồng tư tưởng Ấn Độ, tạo thành một
triết lý sống
(philosophie de la vie), lấy
Con Người
(Nhân Bản) làm mực thước để giải quyết mọi cấn đề về cả nội giới lẫn
sự kiện khách quan thế giới bên ngoài. Con người là tất cả. Vì, có
con người cho nên mọi vấn đề -
tức khuôn mẫu sống ở đời
- mới cần phải đặt ra. Con người là một tiểu vũ trụ nằm trong cái
đại vũ trụ. Thế giới này càng mở rộng chừng nào là do tầm hiểu biết
của con người, mà có. Và do vậy rõ ràng đạo Phật là một triết học
siêu triết học. Vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây Lịch, nền triết học
Đông phương, bắt
nguồn từ tư tưởng đạo Phật, đã thẩm
nhập vào đại lục địa Trung Hoa, để cùng với các trào tư tưởng Khổng
- Lão… tạo thành một nền triết học đại đồng phồn thịnh, không chỉ
dành riêng cho Ấn Độ -Trung Hoa
mà còn cho cả Á Đông và toàn thể thế giới nửa.
Nhìn về phía trời
Tây, triết học được bắt rể từ Hy Lạp, chuyển dịch qua Đại Tây Dương
và cho ta thấy, hai nguyên tắc chính để cắt nghĩa hiện tượng vũ trụ,
tức vấn đề nhận
thức và hành động. Sự hiểu biết của
con người là do trí tuệ; rồi từ trí tuệ dẫn đến hành động (thực
nghiệm). Nhưng, hàng động như thế nào đấy lại là một việc khác (xin
sẽ bàn ở phần khoa học).
Những triết gia Tây phương đầu tiên, ta phải kể đến
PYTHAGORE,
một nhà toán học kiêm triết học ở thế kỷ VI TTL, là người đã sáng
tạo ra danh từ
Triết học “Philosophie” Từ thế kỷ thứ
VII đến thế kỷ thứ IV TTL là thời kỳ phôi thai của nền triết học Tây
phương, những triết gia sau đây đã cùng nhau đi tìm nguyên nhân tối
sơ của vũ trụ; với
THALÈS
(640 - 547) bảo là “Nước”, nhưng
HÉRACLITE
(576 - 480) lại nói là “Lửa” còn
ANAXIMÈNE
(480 TTL) thì cho là “Không khí”, phái triết học Tự Nhiên Luận thiên
về việc quan sát, giải thích vũ trụ hiện tượng như
PYTHAGORE
(580 - 500), lấy những con số để hình dung vũ trụ.
ZÉNON
(IV TTL) nhìn nhận khởi thủy vũ trụ là do
Những Gì Im Lìm
“Tĩnh”
nghĩa là không chuyển động, không biến đổi; những con số, những sự
hoạt động đều chỉ là những bề ngoài không có trong thực tại.
EMPÉDOCLE
(IV TTL) thì thì công nhận trong vũ trụ cả thảy có 6 yếu tố: trong
đó có chất: nước,
lửa, đất, khí trời và 2 lý trừu tượng
là tình yêu
và ghen ghét.
LEUCIPPE
và DÉMOCRITE
(hai triết nhân này sinh đồng thời TTL V thế kỷ) với thuyết
Nguyên Tử Luận,
cho rằng vũ trụ là do những hạt nhỏ (nguyên tử) kết cấu thành…
Như trên, cho ta thấy, mỗi phái luận giải khác nhau, tựu trung chân
lý chưa có một “thuyết” tương quan! Cái không khí hoài nghi đến cực
độ đã bao trùm khắp cả… Lúc ấy nhà hiền triết
SOCRATE
(470 - 339 TTL) đứng ra cách mạng tư tưởng đương thời, đưa triết học
Hy Lạp trở về con đường “nội tỉnh = connais toi toi meme”. Nghĩa là,
“đưa triết học
con đường thuần trí thức trở về con đường hành động, con đường
chân lý, đạo đức, lấy Người làm đối tượng nghiên cứu…”
Tiếp nối sự nghiệp vĩ đại của
SOCRATE,
có PLATON
(428 – 347 TTL) và
ARISTOTE
(384 -322 TTL), tuy mỗi người mỗi khuynh hướng, nhưng vẫn dung hợp
với nhau trên cùng mụch đích chung, đó là: đi tìm cái Chân và Thiện,
tạo cho triết học Hy Lạp một thời long thịnh.
Vào thời trung cỗ,
triết học Tây phương như bị chìm ngập trong những kinh điển học qui,
lấy tư tưởng Sáng
Thế làm tâm điểm, thời kỳ của “đức
tin” và tình cảm ru ngủ!… Nhưng qua thời cận đại
DESCARTES
(1596 -1656) đã nêu cao lý trí để phản động lại tình cảm ru ngủ thời
xưa. Ông đã dùng “phương pháp luận” để chứng minh cho “sự vật nào”
mà quan niệm rõ ràng, đều là chân lý, Ông coi vũ trụ là một dây nhân
quả vô cùng tận. Qua
DESCARTES,
người ta đều nhận thấy “Tâm, Vật song hành”, là khởi điểm cho hai
phái thuần lý do
HÉGEL (1770 - 1831) và
HAMELIN
(1856 - 1907) dẫn đạo, và phái thực nghiệm do
Auguste COMTE
(1798 - 1857) và SPENER (1820 - 1903)…
Tới đây thì triết
học đã đánh dấu một lối rẽ rõ rệt: Vấn đề
Duy Tâm và Duy Vật; Chủ Quan
với Khách Quan v.v..
Phái Duy Tâm cực đoan, có
BERKELY
(1685 - 1753),
Emmauel
KANT
(1724 - 1804),
HÉGEL (1770 - 1831)… Nhà triết học Đức
(Kant) là một trong những người thuộc phái quyết đoán tin tưởng vũ
trụ cần phải có sự hiện diện của Trời, mọi vật mới an bài. Rồi suy
diễn: tin có Trời, ta có thể hy vọng hưởng một cuộc đời bất diệt đầy
hạnh phúc - Vì, Trời là chủ động chứ không thể là thụ động. Còn,
HÉGEL
lại cho rằng “Tất
cả những gì thực tại đều Duy Lý = Tout ce qui réel est rationnel”.
Những phái Duy Vật cực tả, như
DÉMOCRITE
(V TTL), FEUERBACH
(1775 -1833),
MOLESCHOTT (1820 - 1897),
Karl MARX
(1818 – 1883) và
ENGELS (1820 - 1897)… với một phong
trào tích cực phản siêu hình, theo phái này thì, sự hiện hữu của
Trời
trong vũ trụ là điều không bao giờ có được.
Những yếu điểm của chủ nghĩa Duy Vật là đưa vật chất lên hàng vạn
năng. Đấy là nguyên nhân khởi thủy của mọi vận động vũ trụ và xã
hội. Về phương diện nhận thức khách quan, phái này dùng Biện Chứng
pháp (gọi là biện chứng pháp duy vật) làm công cụ khám phá của loài
người; đồng thời khích động phong trào giai cấp đấu tranh làm luật
tắc vận hành của lịch sử. Do đó, thuyết duy Vật chủ nghĩa thường lấy
sự tranh đấu làm mụch đích cho mọi lẽ sống.
Trên đây mới chỉ
trình bày những nét đại cương của nền triết học Tây phương cũng đã
hé mở cho ta thấy sự phân định thành những hệ thống
Duy Tâm, Duy Vật…
Nhưng từ thế kỷ XIX - XX.thì triết học thực nghiệm ,chỉ còn lại siêu
hình biện chứng pháp,luận lý.v.v..
Vấn đề tìm hiểu
vũ trụ
và con người,
qua các Tôn giáo, đạo học, triết học - như đã trình bày - đấy chỉ
mới là những tia sáng. Rút lại, vấn đề đạt ra vẫn y nguyên là một
vấn đề nan giải.
*Tìm ở Tôn giáo - Tôn giáo
bị thần thánh hóa.
*Tìm ở Đạo học - Đạo học
giải thích với những lý tưởng siêu hình, khó hiểu!
*Tìm ở Triết học - Triết học
có những hệ phái, và mỗi hệ phái giải thích một khác; hơn nữa, triết
học đang trong vòng tìm kiếm, suy luật nên dễ bị ràng buộc trong
những phạm trù học qui, càng khó hiểu hơn.
Là những kẻ đi tìm đường, càng đi sâu vào khu rừng Tôn giáo, triết
học ta càng lạc lối thêm! Vẫn biết, không phải hễ đi tìm đường là
tới đích, phải lượng sức mình, và phải có sự tuyển trạch của lý trí,
nếu không… (thưa bạn) - hãy coi chừng! Trí xét đoán là mực thước cho
tất cả. “Phải làm như con ong hút mật, đừng làm theo con bướm giỡn hoa”,
Ta không thể ỷ lại hay nhắm mắt tin theo bất cứ cái gì, ngoài sự
nhận thức khách quan, phù hợp với
lẽ phải,
tạo thành hạnh phúc cho mình và cho mọi người chung quanh.
Giờ đây, chúng ta
hãy du hành qua địa hạt
Khoa học
và đạo Phật
để thử tìm ở đấy lối thoát, một sự trả lời cho những nghi vấn kia.
KHOA HỌC
Lịch sử tiến hóa
nhân loại, từ thế kỷ XVII, khoa học coi như toàn thắng về mọi phương
diện; ngoài những phát minh kỷ thuật, khoa học cũng đã len lỏi sang
hệ tư tưởng để giải thích vũ trụ, bằng những phương pháp mầu nhiệm
chắc chắn hơn, hoàn hảo hơn. Khởi nguyên tinh thần khoa học tiến bộ
không phải trong giây lát hay một ngày tự giác ngộ nên. Một vài đặc
tính của tư tưởng khoa học đã nẩy mẩm từ những thời kỳ xa xôi. Nói
đến khoa học, người tiên phong tiêu biểu cho khoa học thực nghiệm là
Francis BACON
(1561 - 1626), ông đưa ra những nhận thức mới về sự vật là
nhận thức bằng cách xác
định lý do, qua “Tam Biểu Luận”: 1.
biểu
có mặt
(table de présence), trong biểu có mặt, ta ghi những hiện tượng nào
luôn luôn có mặt với nhau; 2.
biểu vắng mặt
(table d’absence), trong biểu vắng mặt, ta ghi những hiện tượng nào
bao giờ cũng vắng mặt một lúc; 3.
biểu thứ tự
(table de degré), trong biểu thứ tự, ta ghi những hiện tượng nào
cũng biến đổi một lúc. Đồng thời với Bacon, bên phía trời Tây, còn
có DESCARTES (1596 - 1650) là người đã khai sáng cho một trào lưu tư
tưởng mới - Tư
tưởng Khoa học -; sau nhiều năm suy
tưởng, ông đã lập được bốn qui tắc căn bản cho phương pháp khoa học
ngày nay. Bốn qui tắc đó là:
1. Trước hết phải chứng minh
một sự vật nào đó, sau mới nhận nó là sự thật. 2. Hãy chia sự vật ra
từng phần đơn giản, càng nhiều càng hay, để dễ dàng cho sự quan sát,
giải quyết. 3. Sau khi đã xem xét, nghiên cứu từng vật đơn giản,
phải thu thập lại cho thứ tự để tìm hiểu những sự vật khó hiểu hơn
vốn tự nó không biểu thị (Qui tắc này
cũng gọi là qui tắc tổng hợp).
4. Cuối cùng, kiểm điểm lại
và tổng hợp những sự việc mà mình đã nhận định, để khỏi bỏ sót một
vật gì. Qua 4 qui tắc trên, vai trò
của Descartes
nổi bật hẳn lên như một vần sao sáng của bầu trời khoa học cận đại
mà ngày nay người ta phải nhìn nhận ông như một cái mốc, đánh dấu
bước rẽ của nhân loại, không chỉ về phương diện
nhận thức
mà cả về phương diện
hành động
nữa. Sau, Auguste
COMTE (1793 - 1857), đã dựa vào thực
tại, để xướng thuyết “Thực Nghiệm Chủ Nghĩa”.
Và qua những biến
đổi, kinh nghiệm từng giai đoạn, trí óc con người mỗi ngày thêm mở
mang, đã giúp rất nhiều cho sự khám phá những kỳ bí của thiên nhiên,
NEWTON
(1642 - 1727) chỉ nhìn quả táo rơi mà khám phá ra luật
Vũ Trụ Hấp Dẫn Lực,
biết được: sự vận hành của hành tinh và sao chổi chung quanh mặt
trời, xoay tròn của địa trục, sự lên xuống của nước thủy triều… Còn
MALUS
(1775 - 1812) đã tìm ra “sự
phân cực ánh sáng”, và
De VERRIER
(1811 - 1877) thì tìm ra sao
Neptune
tức Hải Vương Tinh . Và trước đó nhiều thế kỷ,
ARCHMÈDE
(287 - 212 TTL) đã phát minh ra nguyên lý tỷ
trọng của các vật thể.
Christophe COLOMB
(1451 -1506) và
Fernand de MAGELLAN (1480 - 1521)
là những người đã cương quyết đi vòng quanh thế giới để tìm hình thể
trái đất. VOLTA
(1775 - 1827) và
GALVANI (1737 - 1798) nghiên cứu các
hiện tượng thuộc về điện tử, tìm ra hai luồng điện dương cực và âm
cực. FRANKLIN
(1706 – 1790) giải thích về sấm sét.
LAMARCK
(1744 - 1829),
DARWIN (1809 -1882) chủ trương sinh
Vật Biến Hóa, nghĩa là mọi vật chuyển biến đổi dời.
LAVOISIER
(1743 - 179), nhà hóa học đầu tiên đã tuyên bố: “Trong
vũ trụ không có gì tự tạo, không có gì tự tiêu diệt”,
Phù hợp với định lý này,
Albert EINSTEIN
(1879 - 1955) đưa ra thuyết “Tương
Đối” đã chứng minh: “Vật chất là khí
lực tụ lại cực điểm, mà khí lực là vật chất tan loãng ra cực điểm”,
Vật chất và khí lực theo
Einstein,
chỉ là hai trạng thái cũa một thực tại (deux aspects d’une réalité)…
Những nhà bác học
trên đều đã xây dựng cho lầu đài khoa học mỗi ngày thêm vững chắc.
Với vũ trụ, dưới con mắt nhận xét của khoa học, đã thừa nhận: Trong
vũ trụ không phải chỉ riêng thế giới chúng ta ở, mà rất nhiều thế
giới, mỗi thế giới là một bộ phận tinh hệ của vũ trụ. Mỗi tinh hệ
gồm có nhiều hành tinh, vệ tinh quay chung quanh; mà mặt trời là
trung tâm, gọi là
Thái Dương Hệ (système solaire). Quay
chung quanh mặt trời có 9 hành tinh:
Thủy Tinh
(Mercure) Kim Tinh
(Vénus).
Địa Cầu
(Terre), Hỏa Tinh
(Mars), Mộc Tinh
(Jupiter), ThổTinh
(Saturne), Thiên
Vương Tinh (Uranus),
Hải Vương Tinh
(Neptune) và hành tinh thứ 9, ở cách xa mặt trời
nhất đó là hành tinh
Pluton.
Trong khoảng không trung có hằng hà sa số hành tinh hệ lớn nhỏ, gồm
cả thế giới gọi chung là vũ trụ.
Tới đây, ta đã có
một khái niệm trong sự quan sát, tìm hiểu thiên nhiên. Nhưng, điều
thắc mắc vẫn là cái
nguyên nhân tối sơ của vũ
trụ vạn hữu? -Theo khoa học giới giải
thích: “Ở thời kỳ hỗn mang, trong vũ trụ chỉ có toàn thuần tinh
(Ether). Sau với những nguyên nhân không rõ, thuần tinh ấy kết thành
những phần nhỏ rải rác, nhờ sức vận động và sức hấp dẫn, các phần tử
nhỏ kết lại thành cồi
và cồi “nguyên tử” trước còn rời rạc, sau kết thành vân tinh và căn
nguyên của mọi Thái Dương Hệ. Đó là thời kỳ cấu tạo mặt trời và các
hành tinh, nhiệt độ của các vì sao ở thời kỳ này rất lớn - Với sự
phóng tản không ngừng, nhiệt độ của các vì sao giảm bớt tạo nên thế
quân bình khiến cho sự sống có thể phát khởi, ấy là thời kỳ đầu tiên
có những sinh vật
Ðịa cầu có thể ở được. Nhưng trong thời kỳ các nguyên tử vẫn không
ngừng phóng tản ấy cùng với sự giảm tốc độ, các nguyên tử mất dần
thế vững; bắt đầu một thời kỳ ly tán. Thế vững chắc của các nguyên
tố nội nguyên tử càng giãm đi thì sự ly tán càng nhanh. Rồi đến một
thời kỳ quá suy, các nguyên tử lại trở về thế thuần tinh như trước.
Như vậy, ta có thể biết: địa cầu cấu tạo bởi nguyên tử thuần tinh
rải rác. Nguyên tử ấy tự súc tích lấy năng lực. Mà vật chất là một
hình thái phát tán thành nhiều thế khác nhau, như hơi nóng, ánh
sáng, điện khí .v.v..
“Lịch sử vũ trụ có thể chia
ra hai thời kỳ: Thời kỳ Ngưng Kết Năng Lực Thành Vật Chất, và thời
kỳ Phát Tán Năng Lực ấy”.
Tiền bán thế kỷ
XVII, một câu chuyện lịch sử, thuộc phạm vi khoa học và Tôn giáo, đã
xảy ra như sau:
*
Trời
- GALILÉE
(1564 - 1642), noi gương
COPERNIC
(1473 - 1543), ông đã đưa ra nhận xét: “Trời
chỉ là khoảng không gian bao la vô cùng tận, trùm cả mặt trời, trái
đất và nhiều hành tinh”. Thế là chỗ
nào cũng có trời… Mà nói thế tức đã phản lại tinh thần tôn giáo; ông
còn khẳng định: “Không
có thần nào sáng tạo ra vũ trụ vạn vật cả”.
Trước kia tôn giáo thần quyền thường bảo “Trời
tròn, đất vuông và đứng yên một chổ; ở dưới là địa ngục, ở trên là
trời”. Ngày nay khoa học nhìn nhận;
mặt trời là trung điểm của vũ trụ.
Ai đúng, ai sai?
Đến nay ta mới rõ sự thật, thì ra oan cho
Galilée
vì muốn (Tự Do Tín Ngưỡng) vì muốn giác ngộ chổ mê lầm của tôn giáo
thần quyền mà suýt bị ghép tội tử hình - Việc này xãy ra dưới thời
giáo hoàng Urbain VIII (1633) do tòa án La Mã xử, vì ông đã dám viết
cuốn “Dialogues sur les grands systèmes du monde” mang một nội dung
trái với Thánh kinh - Sau đó, buộc lòng ông phải tuyên bố trước công
chúng: “Trái đất
không quay”.
Mà “Trời” là gì? -
câu hỏi ấy đã làm không biết bao nhiêu người phải băn khoăn, thắc
mắc…
*
Đất.
- Về trái đất, tôn giáo xưa thường nói: “Mặt
đất hình phẳng”. Khoa học hiện đại xác
tín: “Trái đất
tròn = la terre est ronde”.
Theo LAPLACE (1749 - 1827) thì, nguyên thuỷ của trái đất là một khối
lửa (une masse de feu) do mặt trời văng ra, rồi nguội dần… chỗ nào
lồi là núi, đồi, chỗ nào lõm là sông ngòi, hồ ao hay biển, cũng có
chổ bằng phẳng như sa mạc hay bình nguyên.
Và theo, LUCRÈCE
(509 TTL), ông đã có những giả tưởng rất hữu lý:
“Địa cầu hiện ta đang sinh
sống không phải duy nhất trong thiên nhiên, chúng ta phải tin rằng ở
những miền khác của không gian, cũng có nhựng địa cầu khác, những
sinh vật khác, những giống người khác…”
Dựa vào thực tại,
khoa học ngày nay đã phát minh những cái mới lạ, chế ra được cả phi
thuyền liên hành tinh thể thám hiểm nguyệt cầu, làm sụp đổ hẳn một
hệ thống tư tưởng thần quyền xưa cũ, đặt con người trước trách nhiệm
của chính mình.Tuy nhiên, trên đường tìm chân lý, khoa học chưa phải
là vạn năng, giải quyết được hết mọi khúc mắc của con người và cuộc
đời này. Vì, “Khoa
học chỉ bàn đến những điều tổng quát = I I n’y a que de science du
general”.
Qua ngững trang
trên, ta đã hiểu sự cắt nghĩa "”Vũ trụ vạn hữu” của các Tôn giáo,
Đại học, Triết học, Khoa học xưa và nay. Giờ đây, chúng ta thử dạo
bước vào địa hạt. ĐẠO
PHẬT -
Mà bản đồ đã sẵn có trên hai
nghìn năm trăm năm nay - để thử tìm ở
đấy một tia sáng, làm chỉ chuẩn cho sự tìm hiểu về
Vũ trụ
và về con người.
Và kìa -
Con Đường Sáng đã hiện ra…
Vấn Đề nhận thức
Đứng trên quan
niệm nhận thức, đạo Phật không hoàn toàn thuần túy là một triết
học. Vì, đạo Phật
là tất cả, hay nói khác, đạo Phật là
triết học siêu triết học. Đạo Phật cũng có những lối nhận thức sự
vật, bằng nhân giới trực quan, rất chính xác. Thật vậy, trước khi
nghiên cứu vấn đề gì ta cũng nên đặt thành câu hỏi:
Tại sao?
rồi sau đó quyết tìm câu trả lời những nghi vấn mà mình đã đặt ra.
Những vấn đề nào khi ta đã nhận xét được thấu đáo, nó biểu hiện ra
một cách phân minh; và những ý tưởng để diễn tả sự vật cũng “đến”
một cách dể dàng; thì đó là một
Sự Thật
mà ta phải thừa nhận.
Tất cả hiện tượng trong vũ trụ chỉ là
những con số cộng
cộng các yếu tố (nhân duyên) mà có. Đứng về phương diện không gian
mà luận thì, vạn hữu là “Vô
Ngã = anattà”, nó không có cái thật bề
ngang; do cộng các điều kiện nhân duyên lại mà thành. Còn đứng về
phương diện thời gian mà xét, vạn hữu là “Vô
thường = anicca”, nó không có cái thật
bề dọc; do cộng các trạng thái sinh - diệt lại mà có. Chứng minh cho
lập luận trên đây, ta lấy một vật thể làm đối tượng để nghiên cứu,
tìm hiểu sự vật. Cây viết hiện có trước mắt tôi là do hiệp thể của
nhiều chất liệu, như: gỗ + sơn + mực và ý niệm của người thợ tạo ra
cây viết tròn
hoặc lục lăng,
với, “thiết ý” là để dùng vào viết hay vẽ…, bởi có “hiện tượng” cây
viết mà chứng minh được chung quanh cây viết là không gian:
vô ngã.
Rồi từ khi có hiện tượng cây viết cho đến cây viết bị hủy hoại,
nghĩa là từ sinh -diệt này qua sinh - diệt khác, gọi là thời gian:
vô thường.
Tất cả sự vật hiện
hữu trong vũ trụ đều bao gồm trong một chữ “Pháp = Dharmas”,
Nói theo từ ngữ Phật Học,
Pháp
cũng gọi là “Nhất Thiết Pháp”, tức chỉ cho
Vạn Sự Vạn Vật
và là Lẽ Sống,
Cách Sống,
Khuôn Mẫu Sống
của muôn loài vạn vật trong cỏi đời này. Cái lẽ sống ấy cùng với
trời, đất, muôn vật nhịp nhàng chung sống trong một
Nguồn Sống Vô Tận
(tức Hiện Tượng - Bản Lai Diện Mục là như thế đó; pháp nhĩ như thị
là vathàbhùta). Với sự thật trên đây, đã giúp ta khám phá ra hiện
tượng vũ trụ vạn hữu gồm có hai mặt đối đãi: “Một
Là Tấ Cả”,
toàn thể vũ trụ tạo thành
một vật (nhất tức nhất thiết); “Tất Cả Là Một”,
một vật ảnh hưởng đến toàn thể (nhất thiết tức nhất).
Để nhận thức sự
việc không bị lệch lạc, sai lầm, đạo Phật đề ra ba phương pháp, cùng
gọi là: Tam Lượng (ba phương pháp tỷ giảo, nhận thức sự vật đúng như
thật). Hình thái nhận thức thứ nhất là
Hiện Lượng,
những sự vật hiện hành do ngũ giác và tri giác ta trực tiếp nhận
thức một cách thâu đáo, nếu ta có quan niệm rõ rệt về một vật ấy. Tỉ
dụ: phải nghe tiếng nó, phải ngửi mùi nó, v.v…Trước khi có cảm giác
rồi, mới có tri giác, không có tri giác thì không có quan niệm,
nghĩa là chưa thành hiện lượng. Hình thái nhận thức thứ hai là
Tỷ Lượng,
sự suy luận, đối chiếu bằng những phương pháp tỷ giảo,
lấy cá thể hiểu toàn thể
làm đối tượng so sánh, và chứng minh cho sự tìm hiểu sự thật, như
dựa vào pháp Tam Chi Luận trong Nhân Minh Học
để tỷ lượng trong việc xét đoán vũ trụ vạn hữu. Hình thái nhận thức
thứ ba là Thánh
giáo Lượng, căn cứ vào giáo lý Như
thật do đức Phật dạy để mở mang trí tuệ (Prajnã), suy xét sự vật,
phân định lẽ chính tà, thực hư. Ðó là những yếu lý căn bản cho mọi
phưương pháp nhận thức. Ta có thể y cứ vào đấy làm tiêu chuẩn để tỷ
giảo, phán đoán, tìm hiểu chân lý. Áp dụng phương pháp
Tam Lượng
trong công cuộc tìm hiểu sự thật, cho ta thấy: “Đạo
Lý Duyên Khởi = paticcamuppàda” của
đạo Phật là cắt nghĩa trọn vẹn cái lý do vũ trụ vạn hữu thường hằng,
luôn luôn sinh động (vô thường) nhưng không thực thể (vô ngã). Căn
cứ vào Nhân Minh học (tức phương pháp Luận Lý học), ta tập luận:
-
Tôn
- Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều biến chuyển, vô thường.
-
Nhân
- Vì các nhân duyên yếu tố giả hợp tạo thành.
-
Dụ
- Như cái nhà, do các vật liệu “giả hợp” tạo thành rồi phải mục nát,
hư hỏng.
Và, so với phép
Tam Đoạn Luận
(Syllogisme) trong triết học Tây phương:
- Đại Tiền Đề
- Những vật gì do yếu tố nhân duyên giả hợp tạo thành, đều bị hủy
diệt.
- Tiểu tiền Đề
- Như cái nhà, do các vật liệu “giả hợp” tạo thành, tất phải mục
nát, hư hỏng.
-
Kết Luận - Vậy các hiện tượng trong vũ trụ
phải biến chuyển, vô thường.
Tới đây, xin tạm
mượn câu chuyện “đàm thoại” giữa đức vua
MILINDA
và thánh giả
NAGASENA
được ghi lại trong cuốn “Di
Lan Đà Vấn Đạo = Milindapanha” để
chứng minh cho lý giải trên là sự thật.
- Thưa thánh giả, tên thực ngày là gì? - đức vua
hỏi.
-
Tâu hoàng thượng, bạn đồng đạo thường gọi tôi là
NÀGÀSENA,
nhưng đấy chỉ là một cách để phân biệt một tiếng gọi, một lối nói
cho tiện, hay nói khác, chỉ là một cái danh chứ thực ra, không có
người Nàgàsena.
Ðức vua thấy thánh
giả trả lời một cách bỏ lửng (không trả lời thẳng câu hỏi), lấy làm
thắc mắc, liền gạn hỏi:
-
Thưa thánh giả nếu không có
người Nãgãsena;
thảng hoặc có kẻ đem đồ dâng cúng tỳ khưu (Bhikkh: tức chỉ thánh giả
Nàgàsena) những thứ cần dùng, như thức ăn, áo mặc, đồ ngũ, thuốc
men… thì lấy ai để nhận lãnh? - Và ai ăn dùng những vật ấy? - Ai bảo
toàn luân thường đạo lý? - Ai ngồi tham thiền? - Ai hành đạo? Ai đắc
quả? - Ai nhập niết bàn? Ai là kẻ sát sinh? Ai trộm cắp? - Ai tà
dâm? - Ai phạm ngũ giới? Nếu thế thì không có thiện, không có ác,
không ai làm thiện cũng không ai làm ác; những việc làm dù tốt hay
xấu, cũng chẳng có quả báo? Thưa tháng giả, vậy thì không ai đánh
giết; tỳ khưu và tỳ khưu ni ơi! các người không có ai là thầy, không
ai là người giảng dạy, không ai là người truyền đạo pháp, nếu thánh
giả nói rằng: “Nầy
các huynh, hoàng thượng gọi ta là Nagasena thì Nagasena là ai?”
thưa Thánh giả, xin ngài giảng cho. Hay là tóc trên đầu ngài là
Nagasena?
-
Hay là lông, móng, da, thịt, gân, xương, tủy, cật, tim, gan,
lá lách, phổi, ruột, cuống ruột, đồ ăn chưa tiêu hóa, đồ ăn đã tiêu
thành phân, đờm, rũi, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước miếng, nước tiểu.
v.v…
-
Không.
-
Hình sắc kia có phải là Nagasena chăng?
-
Không…
-
Sự nhận biết vui buồn, sướng khổ, sự suy tưởng phải trái; sự
toan tính hành động, trong lòng, có phải là Nagasena?
-
Không.
-
Thế không có chi là Nagasena cả, vậy Nagasena là gì?
-
Không là gì hết, thưa hoàng thượng.
-
Có lẽ nào Nagasena chỉ là một tiếng
không
thôi sao, trẫm e thánh giả nói dối.
Bấy giờ, thánh giả (luôn thể) trông thấy cái xe, liền hỏi đức vua
MILINDA:
-
Tâu hoàng thượng, chứ ngài tới đây đi bộ hay đi xe?
-
Đi xe, thưa thánh giả.
-
Hoàng thượng bảo đi xe, vậy tôi xin hỏi: Xe là gì? Có phải
cây gọng là xe không?
-
Không.
-
Phải bánh xe là không?
-
Không.
-
Phải ổ máy của xe là xe không?
-
Không.
-
…?
-
….
Hỏi mãi như thế,
không có cái gì đức vua
Milinda
có thể chỉ được là xe. Thánh giả
Nagasena
liền kết luận: Cái xe của hòa thượng chỉ là một dấu hiệu, một tiếng
gọi; tôi e hoàng thượng nói dối khi nói đi xe đến đây…
Ở đời, hễ cái gì
có hình tướng, đều biến đổi, không thật. – “Phàm
cái gì có hình tướng đều là giả dối, có sinh phải có diệt”
-Kinh Kim Cương.
Cuộc đàm thoại trên
đây đãchứng minh cho sự thật của
Đạo Lý Duyên Khởi, Vô
Thường, Vô Ngã trong đạo Phật. Một sự
thật không ai có thể chối cải. Thật vậy, tất cả sự vật hiện hữu
trong thế gian này, hoặc đang băng hoại, hay sẽ thai sinh, là do sự
kết hợp “vô thường” của một số tinh thể đơn thuần qua nhiều giai
đoạn, và cứ thế tiếp tục mãi… “Đạo
Lý Duyên Khởi”cho ta thấy: Sự vật
không phải chỉ là những cá thể cố định, đơn điệu, độc lập; mà là
những “phần tử” hòa hợp trong một khối chung của “toàn thể”. Những
phần tử ấy có một xã hội tính, tức tính “Nhân
Duyên Sinh”. Với tính
Nhân Duyên Sinh,
đạo Phật đánh dấu sự tương quan mật thiết giữa hết thảy… Vì biết
rằng, hết thày sự vật trong vũ trụ, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp,
ảnh hưởng lẵn nhau mà tạo thành.
Vũ Trụ Luận.
Trong Vũ Trụ Luận
(Cosmogonie) gồm hai phần: Hình Nhi Thượng: Métaphysique, nghiên cứu
Bản Thế Chân Như (Tathatà hay paràmartha). Như Lai Tạng
(Tathatagarbha); Hình Nhi Hạ: Physique, phần triết lý thực tiễn;
những việc con người, vũ trụ.
1. Thế Giới Vô Biên, Chúng
Sinh Vô Hạn Lượng. Nhưng Tất Cả…, Đều Do “Nghiệp” Biến Hiện.
Trong vũ trụ có rất
nhiều thái dương hệ, mỗi thái dương hệ là một thế giới, hợp nghìn
thế giới thành một
Tiểu thiên thế giới,
hợp nghìn tiểu thiên thế giới thành một
Trung thiên thế giới,
và hợp nghìn trung thiên thế giới thành
Đại thiên thế giới.
Mỗi thế giới có
những Y Báo, Chính Báo khác nhau, nhưng không ngoài “Nhgiệp
Cảm Duyên Khởi”.
Nói đến “NGHIỆP”
(Karma) tức nói đến sự sinh động biến hóa của vạn hữu (tous les
êtres). Nhưng
Nghiệp là gì? Và Vũ Trụ do Nhân duyên
nào mà có? Nghiệp là
Vô Minh
(Avidyà) duyên khởi và tự nó tác động, chứ không bị chi phối bởi một
sức huyền nhiệm nào cả. Mà
Nghiệp
thì hoàn toàn động. Bởi có động mà vũ trụ vạn hữu mới tiến hóa, sinh
tồn - động, hay nói Nghiệp cũng thế - xin
hiểu theo nghĩa rộng
- khi khởi thủy có thế giới, có các loài sinh vật là có
động.
Động là biến hóa
cần phải có để duy trì trật tự trong
vũ trụ và là Lẽ
Sống của mỗi hành tinh hệ, gồm nhiều
thế giới gọi chung là vũ trụ.
“...Cứ tiến mãi qua 33 từng
trời: 56 cảnh giới Bồ Tát; vũ trụ tùy mỗi từng mà rộng lớn gấp bội.
Mỗi Phật sát là một cõi Phật, và mỗi cõi gồm có Tam thiên đại thiên
thế giới 3 000 000 000.
Từ cõi đức phật Cakyamuni vượt qua mười ức vạn cõi Phật khác, còn có
một cõi do đức Phật A Di Đà (Amitabha Buddha) làm giáo chủ. Mỗi cõi
Phật sát đối với không gian, chỉ là một hạt bụi nhỏ khác. Các Phật
sát đầy dẫy hư không. Thật là bao la!”.
Chỉ mới đứng về mặt
tương đối cuộc đời mà luận, ta cũng đã thấy: Vũ trụ rộng lớn, có
muôn hình, muôn vẽ, nào
trăng, sao, trời, đất, núi,
sông, cây cỏ, người và vật. v.v… Tuy
nhiên, sự nhận thức của con người (do ngũ quan và ý thức tạo thành)
khác với sự nhật thức của các loài động vật “nhìn”
và “hiểu”
những cảnh vật ấy (cộng nghiệp trong biệt nghiệp). Nghĩa là, tùy mỗi
Nghiệp lành hay dữ của chúng sinh mà sự
cảm ứng
khác nhau. Con người thuộc trong những loài động vật. Nhưng đời sống
con người khác đời sống của loài muôn thú. Mỗi loài có một “tính
sống” riêng biệt, như cá thì bơi lội dưới nước, chim bay bổng trên
không, hổ báo thì sống ở trên cạn (mặt đất) và trong những miền rừng
rú; hoàn cảnh khác nhau, nên sự sống cũng khác nhau. Theo quan niệm
đạo Phật thì, vũ trụ (tự nó = chose en soi) đã biến chuyển bao lần,
và còn biến chuyển mãi mãi. Đó chẳng qua là do “Nghiệp
thiện” hay “Nghiệp
ác” từ vô thủy kiếp đã tạo; mà “y báo”
(chỉ cho tất cả sự tướng hiện hữu, dù lớn hay nhỏ, lớn như
thái dương hệ, sơn, hà,
đại địa, thành quách lâu dài…, nhỏ, như hạt bụi, vi trần...)
“chính báọ” (bồm hết thảy sinh vật, trong đó có con người và vạn
hữu, gọi chung là chúng sinh) làm nhân -
nguyên nhân chủ yếu
-, làm duyên -
nguyên nhân phụ thuộc - để phát sinh
hiện tượng giới.
Tất cả y báo, chính báo cũng lại do Nghiệp cấu tạo mà thành. Nói
theo Đạo Lý Duyên
Khởi
thì sự vật luôn luôn biến hóa vô cùng
tận; đó không phải Vật Này sinh ra Vật Kia mà là Vật Này làm nhân,
làm duyên sinh khởi ra Vật Kia. Hay nói cách khác:
“Cái Này có thì Cái Kia
có;
Cái Này sinh thì Cái Kia
sinh,
Cái Này không thì Cái Kia
không.
Cái này diệt thì Cái Kia
diệt.
Majjhimani Nikaya II –
63 -
Cũng như nói; Quá sinh ra cây, cây nở hoa, hoa
kết thành quả.
Sự “Có, Không”
“Còn, Mất” chỉ là sự
thay đổi
hình dạng mà thôi. Thực ra “ Nó” không mất đi đâu cả.
Ta hãy lấy một dự kiện để chứng minh cho Sự Thật kia:
Nước H2O,
khi nước sôi bốc thành hơi, hơi động lại
vẫn là
nước. Đó là một hình thức, chỉ là sự đối thể của một chất liệu.
Chúng ta nói: cái chết làm tiêu diệt một sinh vật mà không nói sản
sinh ra một xác chết; có khác gì ta coi trọng cái hình thức (giả
tướng) hơn chính sự sống, là phần tâm tưởng tinh anh.
Thực ra, đối với
Bản Thể (Essence)của sự vật, nó không bị tiêu diệt, mà chỉ thay đổi
qua nhiều trạng thái khác nhau, giữa… sự sống và sự chết, và cứ như
thế tuần hoàn biến diễn mãi không thôi. Cho nên, ta không thể nói
Cái nào có trước Cái Nào có sau. Vũ trụ là một cuộc đại hoạt động vô
thủy vô chung (sans commencement ni fin). Từ nguyên tử nhỏ nhiệm đến
các tinh tú xa xôi, đều nằm trong cái vòng luân lưu không bao giờ
đứt quãng…, khác nào như những làn sống ngoài biển cả. Ngược về
trứớc ta ta không tìm thấy có thủy, ngó lại sau chẳng thấy có chung,
thì làm sao có thể gọi được là
Nguyên Nhân Tối Sơ
(?). Mỗi thời đại hiện ra cùng vạn vật, rồi lại tan đi mà biến ra
thể vô hình, vô sắc. Khi hiện ra gọi là
SẮC
khi biến đi gọi là
KHÔNG...
Do đó, đạo Phật cắt nghĩa sự biến chuyển của vũ trụ vạn pháp (nghĩa
như chữ vạn vật) bằng hai chữ “Sắc”
“Không”.
2. Sắc - Không
a) Sắc (Rupam hay Lak
sana).
Chỉ cho tất cả vật
thể trong vũ trụ có hình tướng mà ngũ quan ta cảm giác thấy, những ý
tưởng, tâm tình đều thuộc phạm vi "sắc"cả. Cái gì thường còn mãi,
mới gọi là “có”, như
Bản Thể
(Essence), Chân
Tâm (L’Être infini),
Chân Như
(Réalitéultime) v.v.., những trạng thái luôn luôn sinh diệt, có rồi
lại không, như những bọt nước trên mặt sống biển… Đấy không phải là
có mà chỉ là “giả
có”.
b) Không (Sunyatà):
Không,
là trạng thái không hình sắc, âm thanh, không thể dùng giác quan mà
tiếp xúc hay suy tưởng. Nhưng nó lại có sức
linh hoạt
như những luồng quang tuyến, tuy vô hình song có một năng lực biến
chuyển một giây có thể chạy chu vi địa cầu tám lần. Nhgĩa là, “Chân Không Diệu Hữu”,
Cái “Không” này là
hoàn toàn không, vĩnh viễn
không (Chân Không) chứ không phải
không trống rỗng,
không có gì (ngoan không -Vide). Để
hiểu Chân Không một cách giản dị, ta hãy lấy một ống chứa đầy không
khí bằng thủy tinh rồi cho hút hết không khí -
có chứa đựng trong ống thủy
tinh ấy - ra ngoài, thì trong đó ta
tạm thấy “Chân Không”, như những luồng quang tuyến, dù có hiện ra
hay biến đi, nhưng nó
vẫn là nó.
Nó chỉ đổi thể mà thôi (changement d’état). Trong kinh Bát Nhã
(Prajnà paramita) chép: “Sắc
tức thị không, không tức thị sắc, sắc bất dị không, không bất dị
sắc… thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh,
bất tăng bất giảm...”
Các bậc tu hành,
khi đã chứng được “bát nhã trí” (prajnà), nhìn thấy các pháp đều là
không. Một trong những vị thiền sư đắc đạo của nước ta, ngài
Từ Đạo Hạnh,
triều đại nhà Lý, đã cảm thông được lẽ “có” “không” hiện ra trong vũ
trụ vô biên, biểu thị qua những vần thư tuyệt diệu dưới đây:
"Có thì có tự mảy may
"Không thì cả thế gian này
cũng không.
"Thử xem bóng nguyệt giòng
sông.
"Ai hay không có, có không là
gì?"
Tùy Theo nhân duyên
mà hiện ra như là
có sinh. Cho nên gọi là tạm
CÓ.
Bởi không có tự tinh, nên gọi là
KHÔNG
= Tòng duyên sinh cố, danh chi vi hữu. Vô tự tính cố, danh chi vi vô
- Kinh Đại Bát Niết Bàn-
Sự đổi thể giống
như nước
đổi ra hơi,
hơi
lại về nước;
như những luồng quang tuyến tuy bị tắt là do tại vì bóng hỏng và máy
hư (tùy duyên bất biến). Nhưng
điện tính
thì không bao giờ mất hẳn (bất biến tùy duyên), nó vẫn có đầy dẫy
trong khắp cả hư không giới (nghĩa chữ “sắc
bất dị không”) nhưng khi đủ yếu tố
nhân duyên, như dây, bóng… ta bật đèn là thấy có ánh sáng ngay
(trước không, bây giờ có ánh sáng) (nghĩa chữ “Không
bất dị sắc”. Do đó, cho ta thấy, vật
chất chỉ như là những làn sóng nhấp nhô ngoài biển cả. Mà tinh thần
cũng chỉ là những luồng ý niệm được tiếp nối từ quá khứ đến hiện tại
và vị lai. Dưới con mắt Phật học, ta nhìn vũ trụ vạn hữu không ngoài
hai định đề “Sắc”,
“Không”, và nó còn phải liên quan mật
thiết tiếp nối nhau theo luật nhân duyên nhân quả, và luôn luôn biến
chuyển mà muôn vật được sinh sôi nảy nở, nhịp sống mới đều hòa; nếu
vũ trụ bất động, vạn vật sẽ tự diệt.
Ở đây, ta có thể
tượng trưng vũ trụ như một hình tròn, theo sự biến chuyển như sau:
Không Sắc
Vẫn biết vạn hữu
(tous les êtres) do nhân duyên cấu tạo nên; nhưng cái gì là tượng
trưng cho vũ trụ vô biên ấy? - Đạo Phật với thuyết “Bản Thể Thật Tại
Luận”.
3. Bản Thể Thật Tại Luận Hay
Câu “Nhất Thiết Duy Tâm Đạo”
Trong kinh Hoa
Nghiêm (Avatamsakasutra) chép: “Vạn hữu trong vũ trụ đều do
TÂM
(Bản Thể) biểu hiện = “Nhất Thiết Duy Tâm Tạo”. Chữ
TÂM
ở đây không có nghĩa chỉ cõi lòng vui buồn, ganh ghét hay cái trí
hiểu biết của con người. Cũng không phải như chữ
Tâm
theo định nghĩa hạn hẹp của triết học là:
Tinh thần chủ quan sinh ra
vũ trụ khách quan. Lại càng không nên
hiểu theo triết lý của Hégel; Tâm là
ý niệm
hoặc ý tưởng
tuyệt đối. Phần nhiều ta không chịu
tìm hiểu, chỉ mãi loay hoay trong rừng rậm danh từ, không tìm ra
được lối thoát, nên rất dễ bị lầm lạc. thật đáng tiếc! Chẳng hạn
người ta thấy trong kinh Phật thường hay nói đến chữ “Tâm”, những
người nông nổi vội kết luận cho đạo Phật là “Duy Tâm”.
Để hiểu chữ
TÂM,
theo đúng quan niệm đạo Phật, chữ
TÂM
(ở đây) có chia ra “Chân
Tâm (Pêtreinfini), và
Vọng Tâm
(conscience inconnaissable). Ta nên nhớ: Căn bản
của phiền não sinh tử là Vọng Tâm. Mà căn bản của Bồ Đề, Niết Bàn là
Chân Tâm. Nhưng chữ Tâm -
chữ Tâm viết hoa
- xin hiểu nghĩa là
Bản Thể Của Vũ Tru Vạn Hữu,
tức Tâm Chân Như hay Thể Tính chân Tâm
(les éléments essentiels de l’être infinị).
Cũng xin nói thêm
về chữ “Tâm”
(Citta), hiểu theo danh từ Phật học, có nhiều tên khác nhau; tùy
trường hợp, cũng gọi là
Chân Tâm, Bồ Đề, Niết Bàn,
Như Lai Tạng, Alaya Thức hay Pháp Thân, Chân Lý v.v…
Thật ra những danh
từ trên đức Phật tạm đặt ra để chỉ cái “Bản Thể Tuyệt Đối” của vũ
trụ, đó cũng chỉ là
phương tiện
để hướng dẩn con người đạt được Chân Lý. Trong kinh có câu: “Nhân
chỉ kiến nguyệt”, nghĩa là nhờ có ngón
tay chỉ mà ta biết được mặt trăng. Mặt trăng ở ngoài ngón tay người
chỉ. Ngón tay là ám chỉ cho
lời nói, lý luận và danh từ,
còn mặt trăng mới đích là chân lý của Bản thể Vũ Tru. Khoa học ngày
nay thì nói đến những
Electron, Atome et Noyau
để cắt nghĩa vật
tiên thiên đã tạo nên vũ trụ vạn vật…
Đó, chẳng qua cũng chỉ tạm mượn cái tên
điện tử, nguyên tử
hay hạch tử
để chỉ cái nguyên chất (có sẳn) trong vũ trụ mà thôi. Trong Đại Thừa
Khởi Tính Luận, chép:
Đứng về phương diện Bản Thể,
thì tất cả các pháp từ xưa tới nay, lìa các “tướng” như lời nó , chữ
nghĩa, tư tưởng, tuyệt đối bình đẳng, không có thay đổi, không hư
hoại, cùng chung một Bản Thể Sáng Suốt Của Nhất Tâm, nên gọi là Chân
Như = “Nhất thiết chư pháp, tòng bản
dĩ lai, ly ngôn tuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm duyên tướng,
tất cánh bình đẳng, vô hữu biến dị, bất khả phá hoại, duy thị nhất
tâm, cố danh chân như”.
Để hiểu chữ “Tâm”
trong đạo Phật một cách sâu rộng hơn, kinh Lăng Nghiêm
(Suramrama sutra) có ghi lại mẩu chuyện đối thoại giữa Đức Phật và
để tử là Ananda, sau bảy lần gạn hỏi ý nghĩa chữ “Tâm”, đều bị đức
Phật bác, cho là không đúng. Và dưới đây là mẩu chuyện lý thú đó:
1. - Ananda Chấp Tâm ở Nơi
Thân -"Tâm không phải trong thân. Nếu
bảo tâm ở trong thân, trước hết, ông phải lấy tim, gan, mật, phổi,
lá lách…, sau mới thấy cảnh vật bên ngoài”. Tại sao, ông không trông
thấy? - lời đức
Phật.
2. - Ananda Chấp Tâm Ở
Ngoài Thân - Đức Phật: “Tâm ở ngoài
thân,
thì tâm
và thân ông không dính dấp nhau. Vì lẽ gì, mắt ông vừa trông thấy
cảnh vật, tâm ông liền biết? Như vậy, thân và tâm đâu có tách rời
nhau.
3. - Ananda Chấp Tâm Ở
Trong Con Mắt - Đức Phật: Nếu tâm ở
trong con mắt; tại sao, tâm ông lại không thấy được mắt ông. Cũng
như người chết, con mắt còn đó, tại sao lại trông không thấy gì?
4. - Ananda Chấp Trở Lại,
Tâm ở Trong Thân, ông nói: “Tôi mắt
thấy tối, mở mắt thấy sáng là tâm thấy cảnh vật bên ngoài. Như vậy,
tâm ấy đúng ở trong thân tôi”. Đức Phật liền hỏi vặn lại Ananda:
“Nếu ông nói rằng nhắm mắt thấy tối, vậy cái tối ấy có đối trước mắt
ông hay không?”
5. - Ananda Chấp Tâm Tùy
Chỗ Hòa Hợp Mà Có. Đức Phật: “Ông nói,
tâm tùy chổ hòa hợp có; nghĩa là, tâm ấy không có thực thể (tức
không có) thì lấy gì làm hòa hợp? Nếu nói, nó từ trong thân hoặc từ
hư không hiện ra, lẽ tất nhiên, nó phải thấy lục phủ, ngũ tạng bên
trong và thấy hình thể con người bên ngoài. Còn nói, tâm ấy có nhiều
thể (thành ra có nhiều tâm), biết cái nào là tâm của ông? tùy hòa
hợp chổ nào tâm liền ở chổ đó, là sai”.
6. - Ananda Chấp Tâm Ở
Khoảng giữa - Đức Phật dạy: “tâm” và
“cảnh” là hai thể khác nhau, một bên có tri giác (tâm), một bên
không có tri giác (cảnh), hai cái đối lập, riêng biệt nhau, thì lấy
cái gì gọi được là giữa?
7. - Ananda Chấp Cái Không
Trược
Là Tâm
- Đức Phật: Hễ cái gì có hình tướng, như núi, sông, trái đất thì gọi
là “giả có”; còn cái gì không hình tướng, như lông rùa, sừng thỏ đều
gọi là không, và đã không, thì có gì mà nói là “trược”?…
Đến Đây, Đức Phật
giảng rõ thế nào là Thể Tính Chân Tâm để giúp cho chúng sanh sớm ngộ
nhập “Phật tri
kiến”, nhìn thấy các pháp là
không tướng,
con người và chúng sinh là do nhân duyên cấu tạo, nên nó “vô ngã”,
và hết thảy sự vật hiện hữu trên cỏi đời này đều “vô thường” chuyển
biến. Muốn giải thoát những ràng buộc mê luân khổ đau, thì con người
phải biết “tu tâm,
dưỡng tính” để mình
không còn bị
làm nô lệ cho cái hình hài giả tạm, và sống một cuộc sống có ý nghĩa
hơn, một cuộc sống vĩnh cửu, thanh tịnh, tự tại, như nhất…
Vòng tròn tượng trưng cho “Tâm” hay “Bản Thể” của
vũ trụ vạn hữu.
Đường thẳng và cong biểu tượng
Sát na sinh diệt.
Vậy,
TÂM
ấy là thể bản
nhiên thanh tịnh (Đại Ngã Thể)
bao trùm khắp pháp giới -
xin hiểu nghĩa như chữ vũ
trụ - hư không giới, bao giờ nó cũng
là một thể tồn tại, không sinh diệt, không thêm, không bớt, không
sắc tướng, cũng không hẳn là hư không; vũ trụ vạn hữu đã từ vô lượng
kiếp luân hồi…
Đến đây ta hãy lấy
một thí dụ để chứng minh, như “nước” là
Bản Thể,
có tính chất thành
Sóng.
Mặc dầu là nó tĩnh
nhưng vẫn có tính chất
động.
Tĩnh
và Động
là hai tính chất có ở trong nước.
Sóng,
chỉ cho Hiện Tượng “tinh thần và vật chất”.
Nước,
chỉ Bản Thể
“vô biên…”. Vậy, có Sóng là có Nước. Cũng như nói có Hiện Tượng là
có Bản Thể.
4. - Thể, Tướng, Dụng
a.
Thể
Bản Thể, chỉ cho vũ
trụ bao la – “Tâm
Chân Như” Ví như
nước mênh mông
trong đó có đầy đủ các yếu tố nhân duyên để “cấu tạo” vạn hữu, nếu
ta thu hẹp lại thì nó chỉ là một con số không (0), nhưng trong đó
vẫn hàm tàng hai tính chất “Sắc” (vật chất), “Tâm” (tinh thần). Đạo
Phật quan niệm:
Tâm, hay Vật nhị nguyện đồng nhất thể,
nghĩa là, dù Tâm hay Vật đều có ở trong “Bản
Thể”; không phải “Tâm” có trước “Vật”,
như phái Duy Tâm chủ trương “tinh thần có trước, vật chất có sau.
Hay nói ngược lại, “Vật” có trước “Tâm”, như phái Duy Vật chủ trương
“vật chất sản sinh ra tinh thần”. Trong
Duy Thức Học
(Vijnànavàda) nói: “Tâm
và Vật
là hai cái “đồng
thời” có ở trong Bản Thể Chân Như. Nếu
không có Tâm thì không có Vật; mà không có Vật thì cũng không có Tâm
= Kiến, Tướng đồng
thời nhi khởi, vô kiến tắcvô tướng, vô tướng tắc vô kiến”.
Viên đá lửa sẵn có
“tính lửa” hàm chứa bên trong, nên khi ta bật thấy lửa phát hiện.
Cũng như “tính ướt” của nước vẫn sẵn có ở trong nước. Bản Thể của vũ
trụ hiện hữu, như ta đã thấy,
nó không ngoài Hiện Tượng mà
có Bản Thể. Hiện Tượng, tức Bản Thể.
To như Thái dương hệ, nhỏ như vi trần cũng đều do nơi Bản Thể vô
biên diệu dụng kia mà biến hiện ra cả….
b. Tướng
Tướng Trạng, chỉ
cho núi, sông, người và vật -
Hiện Tượng giới
- Ví như nước biển đem pha các màu xanh, đỏ, vàng, tím; tuy sắc
tướng có khác, nhưng nó vẫn không ngoài thể chất “Nước”.
Vũ trụ với thiên hình vạn trạng khác nhau về hình thái song đều
chung một Bản Thể, không hai, không khác.
c. Dụng
Công dụng, tức chỉ
cho sự sai biệt giữa
vật này
và vật kia:
- sinh diệt, vô
thủy vô chung - với sự áp dụng của
“Sắc” hay “Tâm”, tùy theo trường hợp
thiện
và ác
của “Tướng”, như màu sanh, màu vàng v.v… để dùng vào việc viết (hay
vẽ) các vật xanh, vật vàng v.v…
5. Những Nguyên Nhân Cấu Thành
Vũ Trụ Vạn Hữu.
Trong Bản Thể Vũ
Trụ gồm sáu yếu tố công năng hoạt động làm căn bản, cũng gọi là “Lục
Đại Duyên Khởi” (Màhàhhutas les six
élémants) tức: Địa (Prthividhàtuh),
Thủy
(Abdhàtuh), Hỏa
(Tejodhàtuh),
Phong (Vàyudhàtuh),
Không
(Sùnyatà), Thức
(Vijnàna), dung hòa lẫn nhau và tạo ra muôn loài vạn vật hiện hữu ở
thế gian này.
Sáu công năng đó là:
* Công Năng Rung Động : Gió
* Công Năng Ép Nặng :Đất
* Công Năng Ấm Nóng :Lửa
* Công Năng Mịn Ướt :Nước
* Không Gian :Hư Không
* Linh Thức.
Tính chất của sáu
công năng rất tinh tế không phải là hình thức thô sơ như những
nguyên tử, điện tử cón có thể phân tích; đằng này tự nó, nó có đủ
năng lực tiến hóa, phát triễn. Đứng về quan niệm sai biệt, ta nhận
thấy có sáu công năng khác nhau; nhưng đứng về phương diện tuyệt đối
thì chỉ thấy (duy nhất) có một “Bản Thể” -
Bản Thể Bình Đẳng Như Nhất.
Bản Thể -
xin nhắc lại
-cũng có chỗ gọi “Không Tướng” hay “Chân Không”, như trong Bát Nhã
Tâm Kinh nói: “Thị
chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt…”
Các pháp vốn không thật có. Mà đã không thật có thì làm gì còn có
sinh diệt. Bởi không còn bị sinh diệt nên gọi là Chân Như (Tathatà).
Vẫn biết trong Bản Thể Vũ Trụ chứa sẵn sáu yếu tố công năng, nhưng
ta cần biết cái
nào hiện trước, cái nào hiện sau? Vấn
đề này, khoa học hiện đại hãy còn đương trong vòng tìm hiểu. Nhưng,
đạo Phật đã có giải thích rỏ trong Kinh Lăng Nghiêm
(Suramrama-sùtra), quyển IV chép:
“Khoảng không gian
vô cùng tận do nguồn linh thức quá mạnh làm rung động một lượt “6
yếu tố công năng” và cùng quay chuyển
biến mà sinh ra “phong
đại” (Vent) trước. Và do những luồn
gió thổi “quyện” các yếu tố lại tạo thành “không
khí” (Atmosphère), rồi đến “địa
đại” (Minéral), và do sự cọ xát giữa
hai áp lực gió
và không khí
tạo thành lửa “hỏa
đại” hay “điện
lực” (Electricité); hơi nóng
bốc lên
gặp khí lạnh ép
xuống thành nước “Thủy
đạ” (Océan); Lửa bốc lên, nước dội
xuống làm cho lắng động lại và nguội dần, chỗ nào bằng phẳng là
đất,
chỗ nào sụt xuống là
bể
hay hồ ao;
nơi nào sức nước mạnh hơn mọc ra
cây cối...”
Tất cả những thứ đó gọi chung là “Khí
thế gian”.
Đức Phật còn cho ta
biết: ở thế gian cả thảy có bốn loài sinh (Catvàro yonayah) khác
nhau. Bốn loài đó là:
- Hóa Sinh
(Upapàdukàh), như con sứa do “khí
hóa” của bọt nước, con đom đóm do củi
mục sinh…
-
Thấp Sinh
(Sumsedajàh), những loài giun, dế từ nơi ẩm ướt…
-
Thai sinh
(jaràyujàh), những loài sinh bằng bào thai, như loài người …
-
Noãn Sinh
(Andajàh), những giống sinh bằng trứng, như loài cá, chim v.v..
Những loài sinh
trên đây đều mang trong tự thể cái hình hài giả tạm và cùng chịu
chung một định luật;
Sinh, già , ốm, chết!
Rồi cứ như thế hết
sinh vật này đến sinh vật khác tiếp nối nhau sinh sản mãi, thì đấy
gọi là “Tình Thế
Gian”
Vũ trụ vạn hữu đã
do “nhân duyên nhân quả” cấu tạo, vậy ta biết được rằng giữa các
hiện tượng có
là do những mối dây quan hệ chằng chịt mật thiết với nhau mà không
bao giờ bị đức quãng; bởi vũ trụ là một khối duy nhất: “Vạn
Vật Đồng Nhất Thể” Tức có nghĩa nói
rằng trong vũ trụ gồm có tinh thần và vật chất vốn cùng một “Bản
Thể” và cùng bất biến (éternel).
Thật thế, muôn vàn
cảnh tượng biến hiện trên thế gian này, to như Thái dương hệ, nhỏ
như vi trần cũng đều là hiện thân của
Bản Thể Vô Biên Tuyệt Đích.
Tuy nhiên, khi Hiện tượng giới đã hình thành thì nó bắt buộc phải
theo một công lệ “Thành,
Trụ, Hoại, Không…”
Mỗi thời kỳ có hai
mươi tiểu kiếp
bốn thời kỳ là tám mươi tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp có 16.800.000 năm.
80 tiểu kiếp gọi là một đại kiếp, tính có 1.344.000.000 năm; trải
qua bốn giai đoạn dài dặc ấy rối trở lại vô cùng tận… Địa cầu được
đứng vững là nhờ những dẫn lực của các hành tinh và các vòng “phong
luân”, “thủy
luân”, “hỏa
luân” và “không
luân”.
Thật ra, từ khi có
con người và vạn vật trên địa cầu, đã có biết bao lần đổi dời, biết
bao sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, về phong tục, đạo đức, về
văn hóa, tôn giáo, và không kể xiết với những trang sử thịnh suy, bĩ
thái, lớp này chết, lớp khác sinh, trái đất này tan làm nhân cho
trái đất khác; trong vũ trụ có hàng triệu thế giới… biết bao nguồn
sống của chúng sinh, mỗi nơi có khác nhau, không tìm thấy mối quá
khứ từ đâu, không chứng nghiệm được những tương lai vô tận.
Vũ trụ và con người
cứ như dòng sông chảy xiết ra biển “Bản thể Vô Biên”, mênh mông bát
ngát không ngừng?! Nhưng, đó chỉ mới đứng về phương diện tương đối
mà nói, còn về phương diện tuyệt đối thì, tất cả hiện tượng vạn vật
không sinh
mà cũng không diệt,
cái Bản thể Tuyệt
Đích thật ra cũng không thêm, không
bớt.
Mặc dầu hình tướng đổi dời song Bản Thể thì vẫn còn mãi (Pháp Nhĩ
Như thị Dhardama). Nó khác nào chất “cứng”
đổi ra “lỏng”,
rồi “lỏng”
biến thành “hơi”,
dần dần biến trạng kết trở lại thành “cứng”
(..)
Đến đây, ta lại cần
nghiên cứu để hiểu mặt trời tại sao có chất lửa? - Trong Kinh Lăng
Nghiêm chép: Mặt trời thuộc về “hỏa đại” (chất lửa) do nhân duyên
kết cấu. Ta hãy lấy một ví dụ để chứng minh cho sự thật này: giữa
lúc nắng về buổi trưa mùa hè, ta lấy một ít bông gòn để dưới một cái
kính hiển vi thường (loupe) hay tối tân (microscope électronique)
rồi đem kính ấy soi vào mặt trời lúc lâu thì thấy hốc khói và có lửa
phát hiện. Như vậy là “chất lửa” vốn có khắp trong vũ trụ, cùng với
các chất đất, nước, gió… Nói tới đây, ta cũng không quên tìm hiểu
mặt trăng? Đức Phật dạy: Mặt trăng thuộc “thủy đại” (chất nước) nên
ánh sáng phản xạ của mặt trăng trong trẻo, mát mẽ.
Thực nghiệm,
- ta lấy một cái đĩa để dưới một cái kính “phương chư” bằng thủy
tinh (cristal) rồi soi vào giữa mặt trăng trong những đêm 15, 16 âm
lịch thì ta sẽ thấy có nước nhỏ từng giọt xuống đĩa…
Nhân Sinh Quan
“Tất cả sự vật dù hữu hình
hay vô hình, tâm hoặc cảnh, đều do nhân duyên kết hợp và chỉ là
những ảnh tượng mê lầm của nghiệp thức biến hiện”
Với “Vấn
Đề Nhận Thức” và “Vũ
Trụ Luận” như đã trình bày ở những
trang trên, đã giúp bạn có một chính kiến. Theo đạo Phật, vũ trụ vạn
hữu biến hóa sinh thành do sự tổ hợp của nhiều nhân duyên…; và đã do
nhân duyên tạo thành, tất nhiên, đạo Phật phủ nhận những định thuyết
dưới đây:
1. Vũ trụ bị chi phối bởi
một “đấng Sáng Tạo”, con người cũng do đấng ấy bàì định.
2. Hết thảy sự vật đều
bởi “Tâm”, “Ý” làm chủ thể.
3. Vạn hữu do “vật chất”
sinh thành, nên vạn hữu cũng hoàn toàn bị chi phối, thụ động.
Đó là lập luận sự
khởi đoan về vũ trụ vạn hữu do các thuyết
DUY THẦN,
DUY TÂM, DUY VẬT
chủ trương.
Giờ đây ta thử tìm hiểu thuyết lý đạo Phật qua
vấn đề Nhân Sinh
Quan.
Xác định minh
thuyết, đạo Phật lúc nào cũng lập luận duy nhất: Vũ trụ vạn hữu được
thành lập là do sự kết hợp các yếu tố làm căn bản và cùng hỗ tương,
nhưng tất cả… đều ở trong “Bản Thể” vô cùng tận.
Con người cũng không ngoài định lý ấy. Do đó, đạo Phật để ra ba điểm
chính cương là:
1. Sự Cấu Tạo sắc thân
Con Người.
2. Giải Quyết Vấn Đề
Sống, Một Mục Đích…
3. Giá Trị Con Người.
1-
Sự Cấu Tạo Sắc Thân Con Người
Ngược dòng lịch sử,
ta cần xét lại vấn đề con người bởi nguyên nhân nào đã cấu tạo nên?
- theo thuyết “vũ trụ vạn hữu sinh khởi” thì: con người cũng
là một hiện tượng trong các bản thể vô biên diệu dụng kia
chuyển biến hình thành mà có.
Từ bao lâu nay con
người đã quyên mình là một “phần
tử” trong cái “Toàn
thể” (bản thể vô biên) và chấp cái “ta
nhỏ bé”, tự tách mình ra khỏi
cái “ta rộng lớn”
trong vũ trụ, lại dùng tâm trí nhận thức sai lầm các vật
tựơng, nhân đó sinh ra mê vọng điên đảo….
Để giải
đáp sự sai lầm đó, đạo phật với thuyết Mười Hai Nhân Duyên
(Dvàdàsãngahpratityasamutpàdah) rất phổ thông và chính xác.
Những gì là mười hai nhân duyên?
Trong kinh A HÀM (agamas) chép: “Cái Này có, cho nên Cái Kia
có. Cái Này sinh cho nên Cái Kia sinh”.
Số là:
VÔ MINH duyên hành
HÀNH duyên thức
THỨC duyên danh sắc
DANH SẮC duyên lục nhập
LỤC NHẬP duyên xúc
XÚC duyên thụ
THỤ duyên Ái
ÁI duyên thủ
THỦ duyên hữu
HỮU duyên sinh
SINH duyên lão
tử
Rồi khởi phiền muộn, buồn rầu, khóc than,
đau đớn… tạo thành đại khổ.
Mười hai nhân duyên tiếp nối với nhau từ đời này qua đời
khác như vòng bánh xe nhân qủa tương quan.
(Mười Hai Nhân Duyên gồm):
1 . VÔ MINH
(Avidyà):
Mê muội, tối tăm.
Chỉ cho tất cả trạng thái quan niệm sai lầm cuả chúng
sinh, không tự biết “vì sao mà có rồi vì đâu mà mất”. Nói
cách khác, tất cả chúng ta đều do
VÔ MINH
ám phủ cả, ví như tấm gương sáng, chỉ một
mảy bụi
cũng đủ làm giảm ánh sáng không ít.
Nói đến vô minh,
ta không thể nói đến Chân Như,
vì hai “cái” là một thể -
Vô minh nằm trong
Chân Như - bản thể chân như lúc
khởi thuỷ ví như mặt nước phẳng, nhưng nay có sóng . Mặt
nước đã sóng thì xao động, thế là sóng cũng là nước mà
nước cũng là sóng. Cũng như nói, không có không gian thì
không có hiện tượng. Ðó là thuộc về
Hoặc.
Vì đã có hiện tượng nên phải chuyển biến với công năng,
nghiệp lực, tinh thần hay vật chất đều theo một quan niệm
động
mà ảnh hưởng lẫn nhau . Sự vật biến hoá mãi là liên
quan theo luật chuyển dịch cuả
hành nghiệp.
2. HÀNH
(samskarah):
hành động, tác động
. Có hành động là (bắt nguồn) bởi tư tưởng phát sanh,
do đó mỗi con người mang trong tự thể cái “nghiệp” -
nghiệp lành dữ,
mình làm mình chịu - và sự
phát nguyên của nghiệp là do “nhất niệm mê mờ” vọng
khởi mà có. Ta thấy rõ ràng “Nghiệp” như một sợi dây
truyền cảm mà nhân qủa thì cứ tiếp nối nhau bất tuyệt.
Thi hào Nguyễn du đã cảm thông đựơc chữ “Nghiệp” trong đạo
phật một cách quán triệt. Tiên sinh viết.
… “Đã mang lấy
nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn
trời gần, trời xa”
Nói khác, nghiệp là
do thân, khẩu, ý của chúng sanh gây ra để phải nhận lấy quả báo luân
hồi.
Ghi chú, - Chữ “Nghiệp”
(Karma). Nghĩa là tạo tác, hành động. “Ý” suy nghĩ, “miệng” nói
“thân” hành động,… tức chỉ tất cả hành động cố ý của một sinh vật do
ba nghiệp (thân, khẩu, ý) ảnh hưởng lẫn nhau rồi cảm thành vết tích,
thành thói quen, tạo nên nguồn sống dục vọng di truyền, trong kinh
thường gọi là “Dẫn
Nghiệp” (tức dẫn lực của nghiệp) hay “Nghiệp
thức”. Nói theo từ ngữ bây giờ thì gọi
là Nguồn Sống. Tất cả hiện tượng trong vũ trụ -
bao gồm các sinh vật và các
cảnh vật thiên nhiên, như núi, sông, cây cỏ, đất đai, trăng, sao,
nước, lửa, không khí. - đều do Nghiệp
Thức tạo tác cả. Nghiệp chia ra “nghiệp chung” (cộng chung) và
“Nghiệp riêng”(biệt nghiệp).
Nghiệp chung.
Chỉ các loài sinh vật (trong đó có con người) hiện sống trên địa
cầu, đều phải chịu chung các kiếp vận như nhau:
Àyuskasàyah:
Mệnh Trược
= kiếp người đau khổ.
Drstikasayah:
Kiến Trược
= nhận thức sai lầm.
Klésakasàyah:
Phiền Não Trược
= tâm địa xấu xa.
Sattvakasàyah:
Chúng Sinh Trược
= chúng sinh ác độc.
Kalpakasàyah:
Kiếp Trược
= cuộc sống ngắn ngủi.
Và còn biết bao nổi
khổ triền miên khác, như Sinh, Già, Ốm, Chết, về thiên tai “nước
lụt”, động đất” lửa cháy, chiến tranh v.v..
Nghiệp riêng:
Mỗi loài có những “tính sống” riêng biệt, hoàn cảnh riêng biệt. Như
cá thì bơi dưới nước, chim bay trên không, con người và các loài
muôn thú sống trên đất cạn và các nơi rừng rú… Tuy nhiên, con người,
có những ưu điểm đặc biệt hơn các loài khác: con người tự làm chủ
mình, làm chủ cuộc sống và hoán cải hoàn cảnh chung quanh, tùy
nghiệp lành, nghiệp dữ do con người tự quyết định lấy.
Nhưng nghiệp do đâu mà có?
Cái “Ngã” một hòa điệu tinh thần và vật chất do thân “ngũ uẩn”
(Pànchaskhandha) tức sự hoạt động của “thân”
và “tâm”,
lĩnh thụ bởi cảm xúc trong tâm và ngoài cảnh, phát sinh những cảm
giác; và vì sự mê lầm tiềm tàng tự thân của mỗi vật tự phát động và
không cần sự can thiệp của bất cứ năng lực nào.
Nghiệp
là chủ động lực của mọi vấn đề. Mọi vấn đề cũng do Nghiệp phát sinh,
tồn tại hay tiêu diệt.
“Không phải ở trên không
trung, không phải ở giữa đại dương, không phải ở trong thâm sơn,
cũng không phải ở một nơi nào người ta có thể tránh được nghiệp
báo”. - Dhammapada, 127 -
Những hiện tượng
thế giới đều do Nghiệp phát động mà cảm ứng. Ta có thân thể như bây
giờ đều do đời trước tạo nghiệp mà sinh, rồi cứ luân hồi, nhân quả
nối tiếp từ quá khứ chạy suốt hiện tại sang vị lai… biến hiện thiên
hình vạn trạng, tùy nghiệp thụ báo để phải chịu lấy vô lượng cực
khổ, nếu con người mãi mê lầm tạo nghiệp. Bởi vậy dưới
Hành
có Thức.
So với nhân quả trong ba đời thì Vô Minh - Hành là nghiệp nhân quá
khứ và làm nhân làm duyên để kết sinh chịu quả trong đời hiện tại.
3. THỨC
(Vijnànam):
bởi sự mê mờ
và hành động
kết thành Nghiệp
Thức;
phân biệt sai lầm mà sinh ra vui buồn, thương tiếc… Nghiệp thức con
người khác nào như luồng điện tản mát khắp nơi…; thân “Tứ Đại”
Ví như dòng điện, khi đủ điều kiện nhân duyên, như, dây, bóng,…ta
bật sẽ thấy điện phát ra ánh sáng. Còn ánh sáng ấy mạnh hoặc yếu
cũng như màu nó xanh, hoặc đỏ là do bóng đèn to, nhỏ và tùy thuộc ở
màu xanh hay màu đỏ; nhưng không ngoài
điện tính…
Cũng thế, muôn loài vạn vật hiện hữu trong thế gian là do nhân duyên
giả hợp mà thành; con người sinh ra đời là bởi tinh huyết của người
cha và người mẹ hòa hợp, kết đọng lại mà tạo nênn cái “xác thân giả
tạm”. Nhưng, như vậy, chưa đủ; con người còn phải có
suy nghĩ, cảm giác, lĩnh thụ
mới trở thành “con người hoàn toàn” -
con người sống động.
Trong cuộc hành
trình của con người: khi sống hay lúc chết đều do nhân quả hành vi
tự thân tạo tác; con người đẹp hay xấu, ngu tối hoặc thông minh,
sung sướng hay khổ sở, không do ai cầm đầu dẫn dắt và thưởng phạt
cả! Mà chính là do tự thân gây “Nghiệp”
“nhân”và
“duyên”
để rồi nhận lấy “quả báo” hoặc thiện hoặc ác…
Ta hãy lấy một ví dụ làm chứng minh:
(Nghiệp)
– A và B (anh hay chị) cùng là con người. Nhưng con người A khác con
người B về tâm trí, về nét mặt, về hình thể, tầm vóc cao, thấp, nam
hoặc nữ, đẹp xấu, thiện và ác…
(Nhân)
- A rất chăm học, B thì lười, biếng học…
(Duyên)
- Cả A và B đều được cha mẹ thương yêu, nuôi nấng, cho ăn học, sắm
quần áo, xe cộ và bút, mực, sách vở để không bị thua kém với chúng
bạn…
(Quả)
- A chịu khó học tập nên kết quả là
A biết chữ và thi đậu.
Còn B, trái lại… Ta không nên có thành kiến sai lầm cho rằng: Bộ óc
là sản phẩm của tư tưởng, cũng đừng bao giờ quan niệm tinh thần (ý
thức) có trước vật chất… Theo đạo Phật, những thuyết lý nào thiên
một bên đều là sai lầm. Dù tinh thần hay vật chất thì cũng đều do
các yếu tố công
năng từ Bản Thể sinh, rồi tồn tại và hủy diệt.
Con người phải đủ hai phần “tinh thần” (thân thức do Nghiệp của
mỗi con người đã tạo) và “vật chất” (thân tứ đại giả hợp”, nếu lìa
một trong những “chất
ấy” con người sẽ chết; nhưng không có
nghĩa chết rồi là hết, mà chỉ là thay đổi hình tướng,
ví như điện.
Sự thật (như trên)
cho ta thấy: khi Hành Nghiệp đã kết quả thì tự thể nó phải ôm mang
lấy. Vô minh và
hành động (Nghiệp Lực) đi đến một nơi
nào đó để nhận chịu một cái thân quả báo hoặc thiện, hoặc ác…
Nhìn chung vào pháp
giới thì, con người chỉ là một chủng loại đã có một trình độ tiến
triển tương đương. Cao hơn con người, là Phật, Bồ Tát. Thấp, là các
loài hạ đẳng động vật. Do đó, đạo Phật chia ra mười pháp giới:
1 - Phật
(Buddha): đấng Đại Trí, Đại Đức và Đại Hùng. Trong mười phương các
quốc độ chỉ có đức Phật là trên hết. Đứng về phương diện con người
mà nhận xét, ta thấy: “Trí”
Phật là trí bát nhã (prajnã), sáng suốt bao la vô cùng tận. “Đức”
của Phật là vô lượng vô biên, cao cả:
Vô Thượng.
“Hùng”
hay là “Lực”
của Phật tu chứng đến chỗ
Hoàn Toàn Trong, Hoàn toàn
Sáng; diệt tận sinh tử, phiền não, nhiễm ô.
Đức Phật có đầy đủ ba đặc tính Trí - Đức - Hùng, do đó (mà) cứu độ
cho hết thảy chúng sanh trong ba cõi… Nhờ vào ba “đức” ấy, tất cả
chúng sanh sẽ chuyển hóa đuợc tâm hồn xấu xa thành tốt đẹp, sáng
láng… Đó là chính nghĩa:
- ĐẠI TRÍ
- ĐẠI ĐỨC
- ĐẠI HÙNG
Cho nên, cảnh giới
của chư Phật là cảnh giới
Tự Tại Giải Thoát,
là chân lý tuyệt
đối.
2 - Bồ Tát
(Boddhisattava): Những vị giác ngộ sắp được như Phật, do tu “Lục
Độ, Vạn Hạnh” mà chứng thánh quả.
3 - Duyên Giác
(Pratyekabuddhi): ngôi vị này hãy còn kém so với Bồ
Tát; tu quán pháp “Mười
Hai Nhân duyên” mà được chứng quả.
4 - Thanh Văn
(Sràvaka): bậc giác ngộ ưa hưởng cảnh giới Niết Bàn
(Nirvàna), gần tương đương với Duyên Giác, song trí tuệ có phần kém;
tu theo phép “Tứ Diệu Đế”. Cùng tột của địa vị này là chứng thánh
quả A La Hán
(Arahat).
5 - Trời
(Dévasura): Chư thiên ở các từng trời trong các cõi
Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc
Giới.
6 - Người
(Manusya): Chỉ chung tất cả loài người ở trong một thế giới trung
bình, không quá khổ như địa ngục, không vui sứớng như ở thiên đường,
và không ngu si như các loài muông, thú…, nên sự tu đạo cũng dễ dàng
tiến ích.
7 - A Tu La
(Asura): Những loài quỉ giống như loài người -
con người thoát xác
- rất tàn bạo, giận dữ, giết chóc và dâm dục…
8 -
Địa Ngục
(Narskanitaya): chúng sinh ở cõi đầy tội lỗi, tối tâm, đau
khổ…
9 - Ngã Quỉ
(Preta): những loài đói khát, đi lang thang khắp “xó chợ đầu
đường” kiểm miếng ăn, manh áo mặc!!!
10 -
Súc Sinh
(Tiryagyoni): các loài súc vật v.v…
Tuy chia ra mười pháp giới chỉ là để đo trình độ tu chứng cao thấp
của mỗi giới. Nếu xét theo quan niệm bình đẳng thì “Bản
Thể Nhất Như”.
Với cặp mắt sáng ngời đợm vẽ từ bi, đức Phật đã
nhìn, thấy và hiểu rõ
chúng sinh, từ thuở nào vẫn luân hồi trong sáu ngả (trời, Người, A
Tu La, Địa Ngục, Ngã quỉ, Súc sanh) mà chẳng biết lối thoát! Đức
Phật đã lắng nghe và hiểu suốt tâm trạng nổi vui, buồn, đau khổ của
chúng sinh, nên Ngài thường khuyên các đệ tử, hãy luôn sống bên
người, gần vật để sang sẻ và ban bố tình thương “cho
vui, cứu khổ” đến tất cả muôn loài, và
hãy sống nhập một (trọn vẹn) với bản thể vô biên tuyệt đích…
Trong mười pháp giới chỉ khác chổ mê và ngộ.
*
Mê là chúng sinh.
*
Ngộ là Bồ Tát, Phật.
Nếu đứng về phương
diện con người mà xét thì, đức Phật cũng là một Người, nhưng là một
Siêu nhân, đã tu chứng giác ngộ thành Phật, một trong những vị Phật
đã thành là đức Thích Ca Mâu Ni, còn chúng sinh thì vẫn cứ là chúng
sinh, nếu không chịu tu tiến.
Đức Phật là đấng
Giác Ngộ Viên Mãn, là Người đã đạt đến chỗ cao tột của nhân sinh, mà
Bồ Tát Duyên Giác hay Thanh Văn, là những bậc còn phải dõi bước và
còn phải tiến nữa, để đến chổ tuyệt đối như Phật. Con người có thể
tiến lên địa vị ấy, nếu biết hướng theo đường sáng do đức Phật đã
vạch ra. Trái lại, không chịu tu hay không chịu làm phúc thì con
người sẽ mãi đau khổ u tối, mặc cho nghiệp lực cuốn trôi, triền miên
trong vòng mê luân sinh tử xoay vần, chẳng biết đến bao giờ là ngày
chung kết!
Thức, một chi quả thứ
nhất thuộc đời hiện tại.
4.
DANH SẮC
(Nàmarùpam): “Danh”
là một danh từ trừu tượng như
Thụ, Tưởng, Hành, Thức uẩn,
không có hình ảnh, chỉ là trạng thái chiều theo cảnh giới mà hiển
hiện; “Sắc”
tức hình tướng vật thể vô tri có trạng thái tự tiêu hoại do sức
lạnh, nóng của thời tiết. Nhưng đây chủ yếu nói về sắc uẩn là do sự
phối hợp của bốn Đại:
Đất
(Prthividhàtuh),
Nước (Abdhàtuh),
Lửa
(Tejodhàtuh), Gió
(Vàyadhàtuh)… tức chỉ cho tổng báo thân của loài hữu tình, từ khi
còn trong thai trạng, và dần dần sinh trưởng… Vậy “có Nghiệp Thức là
có sự luân chuyển, nên khi Tâm thức chuyển sự sống sang kiếp khác
(con mình). Tâm (Danh) phải nương vào vật (Sắc) là tinh huyết cha
mẹ, để sự sống được nẩy nở, tồn tại”.
Con người là loài
sinh mệnh có tư tưởng, trí tuệ, nhưng do những yếu tố nào kết hợp
tạo thành? - Đạo Phật quan niệm con người cũng như các loài có cảm
giác, thức tính đều do luật tiến hóa của vũ trụ với một trình độ
nào…
và do Ngũ Uẩn
kết hợp thành thân.
Đức Phật dạy:
“… Này các tỳ khưu, có ba sự hòa hợp mà một bào
thai thành hình.
Ở đây cha mẹ có giao hợp và người mẹ không có thể thụ thai, và
hương ấm
(gandhabba)
không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây cha và
mẹ có giao hợp và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương
ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành
hình. Và này các tỳ khưu, khi nào cha mẹ có giao hợp và người mẹ
trong thời có thể thụ thai, và
hương ấm
có hiện tiền có ba sự hòa hợp như vậy, bào thai mới thành hình. Rồi
này các tỳ khưu, người mẹ trong chín hay mười tháng mang bào thai
ấy, với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Rồi này các tỳ khưu, sau
chín hay mười tháng, người mẹ sinh đẻ, với sự lo âu lớn đối với gánh
nặng ấy. Khi đã sinh, người mẹ nuôi (hài nhi ấy) với máu của mình.
Này các tỳ khưu, trong luật của bậc thánh, sữa của người mẹ được xem
là máu. Này các tỳ khưu, đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, sau khi các
căn đã thuần thục, chơi với những trò chơi dành cho các trẻ như như
với cái cày nhỏ, chơi đánh khăng chơi nhảy lộn nhào, chơi chong
chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ. Này các
tỳ khưu, đứa trẻ sau khi lớn lên, sau khi các căn được thuần thục,
thụ hưởng đầy đủ năm món dục lạc, các sắc do nhãn nhận thức, sắc này
khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, khích thích lòng dục, các tiếng do
tai nhận thức… các hướng do mũi nhận thức… các vị do lưỡi nhận thức…
các xúc do thân cảm xúc, các xúc này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả
ý, khích thích lòng dục.
Khi nó thấy sắc
với mắt, nó tham ái đối với hảo sắc, nó ghét bỏ đối với ố sắc, nó
sống niệm không an trụ trên thân, với
một tâm nhỏ mọn.
Nó không như thật biết
tâm giải thoát,
tuệ giải thoát,
chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của nó được trừ diệt một
cách hoàn toàn. Như vậy, đối với thân sơ (thuận nghịch) nó cảm thụ,
nào khởi lên lạc thụ, khổ thụ, hay bất khổ bất lạc thụ, nó tùy hỷ,
hoan nghênh, tham trược thụ ấy. Vì tùy hỷ, hoan nghênh, tham trược,
cảm thụ ấy, nên hoan hỷ sinh. Có tâm hoan hỷ đối với những cảm thụ
ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ, hữu sinh, do duyên hữu, sinh sinh
khởi. Do duyên sinh, lão tử, sầu,
bi, khổ, ưu, não, sinh. Như thế là sự tập khởI của toàn bộ khổ uẩn
vậy. Khi nó nghe tiếng với tai…. (như trên)… khi nó ngửi hương với
mũi…(như trên)…khi nó nếm vị với lưỡi…(như trên) khi nó cảm xúc với
thân… (như trên )… khi nó nhận thức pháp với ý, nó tham ái đối với
hảo pháp, nó ghét bỏ đối với ố pháp. Nó sống niệm không an trụ trên
thân, với một tâm nhỏ mọn. Nó không như thật biết đến tâm giải
thoát, tụê hiải thoát, chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của
nó được trừ diệt một cách hoàn toàn. Như vậy đối diện với thân sơ
(thuận, nghịch), nó cảm thụ nào khởi lên lạc thụ, khổ thụ, hay bất
khổ lạc thụ, nó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trược cảm thụ ấy, nên hoan
hỷ sinh. Có tâm hoan hỷ đối với những cảm thụ ấy, tức là chấp thủ.
Do duyên thủ, hữu sinh. Do duyên hữu, sinh sinh khởi. Do duyên sinh,
lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh. Như vậy là sự tập khởi của toàn
bộ khổ uẩn này.”
Danh sắc một chi quả thứ
hai thuộc đời hiện đại.
5. LỤC NHẬP
(Sadàyatanam): một khi “sự sống đã được
nảy nở tồn tại (kết thai) thì 6 quang năng tức sáu căn thành hình
(bào thai)”.
Trong khi
Danh
và Sắc
kết hợp tạo nên thân thể con người
- một con người hoàn toàn
sống động.
6 quan năng
là:
1- Mắt (Caksurindriyam): nhãn căn.
2- Tai (Srotrendriyam): nhĩ căn.
3- Mũi (Ghrànendriyam): tỷ căn.
4- Lưỡi (Jihvendriyam): thiệt căn.
5- Thân (Kày yendriyam): thân căn.
6- Ý (Manadriyam): ý căn.
Đối tượng và giao tiếp với
6 trần:
1- Sắc: Rùpam (những hiện tượng có hình sắc)
2- Thanh: Sabdah (các âm thanh)
3- Hương: Gandhah (mùi thơm)
4- Vị: Rusah (chất chua, cay…)
5- Xúc: Sprastavyam (sự va chạm giữa thân thể và
vật cảnh)
6- Pháp: Drarmas (những tư tưởng về quá khứ,
hiện tại, vị lai)
(… “do duyên
thức sinh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên mắt và các
sắc, thức sinh; và thức ấy có tên là
nhãn thức.
Do duyên tai và tiếng, thức sinh; và thức ấy có tên là
nhĩ thức.
Do duyên mũi và các hương, thức sinh; và thức ấy có tên là
tỷ thức.
Do duyên lưỡi và các vị, thức sinh; và thức ấy có tên là
thiệt thức.
Do duyên thân và các xúc, thức sinh; và thức ấy gọi là
thân thức.
Do duyên ý và pháp, thức sinh; và thức ấy có tên là
ý thức”)
- Mahatanhàsankhàya suttam XXXVIII – Ái Tập Đại
Kinh, trang 259A.
Và vì có sự tương
hợp của quan năng với cảnh trần nên liên hệ tới sự
xúc động
(xúc giác).
Lục Nhập, một chi quả thứ
ba thuộc đời hiện tại.
6. XÚC
(Sparsah): Cảm trạng. Sự tiếp xúc của 6
quan năng đối với cảnh vật. Sau khi đứa bé đã sinh, độ 1, 2 tuổi,
sáu căn non nớt va chạm với sáu trần tạo nên cảm xúc, như: đói nó
biết tìm vú mẹ để bú, lạnh biết núp vào lòng mẹ, nhưng chỉ là làm
theo tính bản năng chứ chưa nhận biết: vui, buồn, tốt, xấu, v.v… vì
chưa đủ lý trí để phân biệt, nhận lĩnh, cảm thụ một cách rõ ràng.
Xúc, một chi quả thứ tư
thuộc đời hiện tại.
7. THỤ
(Vedanà): Cảm giác, lĩnh thụ. Khoảng từ 3,
4 tuổi đến 12, 13 tuổi là thời kỳ con người bước qua một giai đoạn
khác. Con người đã biết nhận thức trước mọi cảnh: thuận, nghịch,
những vật gì vừa ý muốn thì sinh lòng lĩnh thụ, trìu mến. Vật, trái
với ý muốn mình thì ghét, bỏ… Vì thế, có sự vui, buồn, yêu thương,
ghen ghét, đam mê, giận dữ v.v..
Thụ, một chi quá thứ năm
thuộc đời hiện tại.
(Nghiệp
nhân
quá khứ là
Vô Minh
và
Hành
do mình đã tạo đời này, nó kết thành 5 quả chín:
Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc
và Thụ
để báo đáp lại 2 nhân kia (Vô Minh, Hành), Nên 5 chi này cũng gọi là
quá hiện tại).
8. ÁI
(Trsnà):
Tình yêu, do ý thức nhận được liền nảy sinh tư
tưởng ưa thích (quen nết), Từ 14, 15 tuổi đến 18, 19 tuổi, thân thể
con người mỗi ngày một nở nang, thường gọi là “tuổi dậy thì”, nên
sự ham thích cũng rất bồng bột, đã biết nhìn cái đẹp thiên nhiên, và
yêu tha thiết những gì liên quan tới đời sống hàng ngày, nên sinh
lòng đắm đuối trong năm món dục lạc
gần như cuồng loạn; khoảng thời gian 7, 8 năm - từ 13 đến 19 tuổi -
con người đã cảm thụ biết bao cảnh tốt, xấu , vui, buồn, thương yêu,
ghét, muốn… tạo thành một tư tưởng hổn tạp. Cái gì không hợp với
mình thì chán, ghét, cái gì hợp thì yêu mến, chiều chuộng, vì thế,
dưới Ái
liên quan đến Thú.
Ái, một chi nhân thứ nhất
thuộc đời hiện tại.
9. THỦ
(Upâdànam):
Từ 20 tuổi trở đi, ái dục càng mạnh, sáu căn
càng phóng túng chạy theo sáu trần.
Thú,
nghĩa là lấy, mong lấy, giữ lấy. Tôi thích cái hoa, khi được cái hoa
thì tôi giữ lấy. Những cái gì đã yêu thích (lẽ tất nhiên) phải tìm
lấy cho được. Trong các thứ lấy ấy cũng có việc
lành
việc dữ
để thỏa nguyện vọng nhu cầu. Vì trong đời hiện tại đã gây nhân, hoạt
động các việc
thiện và
ác
nên đời sau phải chịu
quả báo.
Do đó, dưới Thú
và Hữu.
Thú, một chi nhân thứ hai
thuộc đời hiện tại.
10. HỮU
(Bhavah): Bởi có
Ái
và Thủ
nên mới có Hữu.
Hữu là có (cũng có nghĩa là cõi).
Nhưng có cái gì? - Có nhân tất có quả: có
sinh, già, ốm, chết…,
tùy theo nhân quả, hành vi
thiện
hoặc ác
của mỗi người đã gây nhân trong đời hiện tại, tất nhiên mai sau sẽ
hái quả tốt
hay xấu…
Vì có ham muốn ắt phải nhận lấy quả báo mà kết sinh tương tục trong
3 cõi (Dục giới
- Kàmadhàtuh, Sắc
giới - Rupadhàtuh,
Vô sắc giới
- Arùdhàtuh), 6 đường (Trời,
Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngã Quỷ, Súc Sinh).
Bởi vậy dưới Hữu
có
Sinh.
Hữu, một chi nhân thứ ba và
cũng là nhân cuối chót thuộc đời hiện tại.
(Trong
khi ta đang mang nơi mình 5 chi:
Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc,
Thụ, (quả
hiện tại) đã lại tạo luôn cho 3 chi:
Ái Thủ, Hữu
(nhân hiện tại)
-, để rồi một thời gian sau phải hái lấy quả báo:
Sinh
và Lão tử
ở vị lai).
11. SINH
(Jàtih):
Sinh mệnh con người có hai phần (tâm
và sắc):
gồm sinh lực, thể chất và tinh thần, sống còn trong khoảng thời gian
dài, ngắn… đều do Hành Nghiệp quyết định. Vì
Ái, Thủ, Hữu
mà Sinh vào kiếp khác (nhân quả về sau trong
các cõi thụ sinh). Sinh, nghĩa là “sống”,
chỉ cho máu chạy, tim đập, ý nghĩ, trí biết của mỗi sinh vật do đời
trước gây nhân
lành hay
dữ,
tất nhiên Nghiệp Thức của mỗi loài đã tạo ra nó sẽ phản ảnh lại:
- Tư tưởng hành vi của con
người “thiện” sẽ tạo cho xã hội những hoàn cảnh đẹp.
- Tư tưởng hành vi của con
người “ác” sẽ tạo cho xã hội những ảnh hưởng xấu.
Xã hội loài người
tùy Nghiệp của mình đã tạo ra và luôn luôn chuyển biến, huân tập lấy
chủng tử
(Bijà) (hạt giống của mỗi vật thể có công năng sinh khởi ra nghiệp
quả) để khi gặp cơ duyên thuận tiện sẽ phát khởi hiện hành (những
hình tướng hiện thực và hành động). Ví dụ. - A quen thân với B là do
trước kia sẵn có nhân duyên với nhau. Nhưng ít lâu sau A không đủ
hoàn cảnh sinh sống với B; nên A đã đi làm ăn nơi khác (nghĩa là,
khi A chết sẽ thai sinh ở một kiếp nào khác…), Không bao lâu B cũng
bị túng thiếu không thể ở quê hương được nữa; B lại không quen ai
hơn A - hai người rất có thiện cảm, đã từng chung sống và giúp đỡ
nhau khi trước -, do đó B quyết định tìm đến chỗ A để nhờ vả (nghĩa
là, B đã chết khi nghiệp thức đi đầu thai sẽ tìm đến chỗ nào, nơi
nào… mà mình đã gây nhân duyên hợp với tâm lý, tình cảm và tập quán
của một quá trình sống…
Trong vũ trụ có
hằng hà sa số thế giới có những chủng loại
y báo, chính báo
khác nhau, nhưng cùng chịu chung một định luật:
Thành, Trụ, Hoại, Không.
Nghĩa là từ khi thế giới sơ thành tới khi tàn lụi (không còn là thế
giới nữa); trong bốn thời kỳ dài dặc ấy tính có hằng bao nhiêu triệu
triệu năm…
Gần đây, nhà bác
học William
THOMPSON (1824 - 1907) đã có những giả
tưởng: “Sinh vật
đầu tiên có trên địa cầu là do những sinh vật khác từ một vài tinh
tú chuyển sang…”
Theo luật “thành,
trụ, hoại, không” thì con người đã trải qua bao nhiêu hưng vong,
thay đổi, lớp này chết lớp khác sinh, sinh sinh hóa hóa mãi như thế,
bây giờ làm sao tìm được cái dấu tích mà ta gọi là “con
người nguyên thủy - dù các nhà nhân
chủng học có cố nghiên cứu, tìm tòi mấy đi nữa cũng chỉ chứng minh
cho lớp người về một thời gian nào đó mà thôi. Hiểu được định lý ấy
rồi, ta mới không lấy làm lạ về những sự xảy ra trong lịch sử, hay
những điều phát minh mới lạ mà người ta cho là thần thánh, thực ra
không mấy quan tâm. Và cũng chẳng có gì đáng làm cho ta phải ngạc
nhiên kinh hoảng?!
Sinh, một chi quả thứ
nhất thuộc về vị lai.
12. LÃO TỬ
(Jaràmaranam): cuối cùng đưa đến sự già,
chết, khi thân thể con người đã suy yếu: một ngày nào đó sức lực đã
kiệt vì già, ốm,
tất nhiên con người phải chết. Vì chết
nên phải lo âu, đã lo âu tất sinh ra khổ não… và cứ thế theo công lệ
nhân quả luân hồi do mình đã tạo.
Nhưng có điều ta nên nhớ:
Chết chỉ có nghĩa thay đổi hình tướng - từ hình tướng này chuyển
sang một hình tướng khác - Thực ra, nghiệp thức con người chẳng mất
đi đâu; khác nào như luồng điện sẽ qui về bản chất của nó -
người chết
- đến khi đủ nhân duyên, điện sẽ trở lại sáng -
con người tái sinh
-.
Sự
sống
và sự chết
của người ta cũng như buổi hoàng hôn rồi dần lại tiếp buổi bình
minh…
Vậy
sống -
chết
là định luật tất nhiên. Có
sinh
phải có diệt.
Tất cả hiện tượng trong trời đất cũng phải theo định luật ấy. Ta tạm
lấy một ví dụ để chứng minh:
Anh A là người - Tất nhiên
anh A phải có lúc chết - Vì, có sinh phải có diệt.
Lão tử, một chi quả thứ
hai thuộc đời vị lai.
Mười Hai Nhân Duyên
theo định luật nhân quả
ba đời:
Vô Minh, Hành,
hai chi nhân thuộc quá khứ để chiêu cảm năm chi quả hiện tại:
Thức, Danh Sắc, Lục Nhập,
Xúc, Thụ rồi do
năm chi quả này khởi niệm ra:
Ái,
Thủ, Hữu
làm nhân ở đời hiện tại. Và do ba nhân kia (Ái, Thủ, Hữu) chiêu cảm
mà có hai chi quả:
Sinh, Lão Tử thuộc
đời vị lai.
Quả
tạo ra Nhân,
Nhân
cảm thành Quả,
ba đời nối tiếp nhau không bao giờ gián đoạn, như bánh xe xoay lăn,
cho nên gọi là
luân hồi.
Để giải thích về luân hồi (Samsàra), trong kinh Milindapanhà có ghi
cuộc đối thoại giữa đức vua Milinda và thánh giả Nagasena như sau:
- “Thưa đại vương, nếu có người thắp một ngọn
đèn, ngọn đèn ấy có thể cháy suốt đêm được không?
- Bạch Ngài, ngọn đèn có thể cháy đến sáng.
- Vậy ngọn đèn lúc canh một có phải chính là ngọn
đèn lúc canh hai?
- Bạch Ngài, không.
- Ngọn đèn lúc canh hai với ngọn đèn lúc canh ba có phải cũng là một
không?
- Bạch Ngài cũng không phải.
- Vậy thì, canh một có một ngọn đèn, canh hai có một ngọn đèn khác,
và canh ba, một ngọn đèn nữa không?
- Bạch Ngài không phải thế, ánh sáng suốt đêm chỉ là do một cây đèn
tỏa ra mà thôi.
- Thưa đại vương, sự cảm giác bất biến ở một con người hay ở một
chúng sinh khác cũng như thế. Con người phút này sinh thì con người
phút khác diệt, nhưng con người ở phút sau không phải con người ở
phút trước, nhưng cũng không phải khác với con người ở phút trước.”
(phi nhất phi dị)
Mười Hai Nhân Duyên
theo vòng tròn tượng trưng bằng bánh xe nhân quả tương quan, như đồ
biểu trang bên:
Dưới hình thức 12 nhân duyên còn có bộ ba: Hoặc -
Nghiệp - Khổ
Ví dụ:
Anh B say rượu (Hoặc) ra đường gây chuyện đánh nhau với anh C
(Nghiệp). Sau, anh C đem chuyện này trình nhà chức trách, anh B bị
đòi hầu tòa về tội đánh người trái phép và bị xử phạt, ở tù, khổ sở
(Khổ).
Sở dĩ chúng sinh
vẫn mãi bị khổ đau, phiền não, sinh tử là do Vô Minh, mê tối, nên
mới tạo Nghiệp vọng đọng (Hành, Thức) mà có
thân ngũ uẩn
(Danh, Sắc) rồi sáu căn (mắt, tai mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với
sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) (Lục Nhập) sinh cảm
giác, lĩnh thụ (Thụ) thì nảy sinh lòng ham muốn, ưa thích (Ái), rồi
ham muốn chấp giữ, tạo thành thói quen (Thủ) . Vì đã gây nhân tham
ái phải nhận lấy quả báo (Hữu). Do có
Ái, Thủ, Hữu
sẽ phải sinh ra trong đời sau (Sinh) và tiếp tục nhận chịu những
cảnh khổ, già và chết (Lão Tử).
Muốn thoát luân hồi
sinh tử thì ta phải đi ngược lại mười hai nhân duyên. Nhưng làm thế
nào để diệt. Vô
minh và đoạn
Sinh tử?
- Không gây tội lỗi tức là diệt lòng
tham ái, sân hận, si mê
và tu theo Giới,
Định, Tuệ. Vì biết rằng: tất cả sự vật
đều do nhân duyên giả hợp tạo thành, nên không thực - đã không thực
thì “tội lỗi mê vọng” cũng không có chỗ để tồn tại, tức
Vô Minh
hết; không khởi động
Ái, Thủ, Hữu,
thì trong cõi sinh tử đều đoạn.
Vô Minh
diệt thì Hành
diệt cho đến Lão
Tử, ưu bi, khổ não cũng bị diệt. Có
như thế cuộc sống của con người (ở cõi đời này và đời sau) mới vơi
được nguồn đau khổ, và được an lạc, tự tại, giải thoát.
Tìm hiểu thêm
Sự cấu tạo hình thể
con người và vạn hữu, theo thuyết lý Mười Hai Nhân Duyên, ở đây, tôi
lược dẫn một đoạn trong bộ Kinh
MAJJHIMA NIKAYA,
tập 1: Ái Tập Đại Kinh (Mahàtanhãsankhàyasuttam XXXVIII):
“…Này các tỳ
khưu, Ái lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh
chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Ái lấy thụ làm nhân duyên, lấy thụ
làm tập khởi, lấy thụ làm sinh chủng, lấy thụ làm nguyên nhân. Này
các tỳ khưu, Thụ lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì
làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thụ lấy xúc làm nhân duyên,
lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm sinh chủng, lấy xúc làm nguyên
nhân. Này các tỳ khưu, xúc lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập
khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Xúc lấy lục
nhập làm nhân duyên, lấy lục nhập làm tập khởi, lấy lục nhập làm
sinh chủng, lấy lục nhập làm nguyên nhân. Này các tỳ khưu, Danh sắc
lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh chủng,
lấy gì làm nguyên nhân? Danh sắc lấy thức làm nhân duyên, lấy thức
làm tập khởi, lấy thức làm sinh chủng, lấy thức làm nguyên nhân .Này
các tỳ khưu, thức lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập thể, lấy gì
làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thức lấy hành làm nhân
duyên, lấy hành làm tập khởi, lấy hành làm sinh chủng, lấy hành làm
nguyên nhân. Này các tỳ khưu, Hành lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm
tập khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Các Hành
lấy vô minh làm nhân duyên, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh
làm sinh chủng, lấy vô minh làm nguyên nhân. Như vậy, này các tỳ
khưu, vô minh duyên hành, Hành duyên thức, Thức duyên danh sắc, Danh
Sắc duyên lục nhập, Lục nhập duyên xúc, Xúc duyên thụ, Thụ duyên ái,
Ái duyên thủ, Thủ duyên hữu, Hữu duyên sinh, Sinh duyên Lão Tử, sầu,
bi, khổ, ưu, não hiện hữu. Đó là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn
vậy.
Trước đã nói:
“Sinh duyên lão
tử” (do duyên sinh nên lão tử hiện khởi). Này các tỳ khưu, sinh
duyên lão tử có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế Tôn,
sinh duyên lão tử. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là thế:
“Sinh duyên lão tử”. -
Trước đã nói,
“Hữu duyên sinh”. Này các tỳ khưu, hữu duyên sinh có phải không? Hay
ở đây (nghĩa) như thế nào? -
Bạch Thế Tôn, hữu duyên
sinh. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là thế:
“Hữu duyên sinh” - Trước đã nói,
“Thủ duyên sinh”. Này các tỳ
khưu, thủ duyên hữu có phải vậy không? Hay ở đây (nghĩa) như thế
nào?
- Bạch Thế Tôn, thủ
duyên hữu. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế:
“Thủ duyên hữu” - Trước đã nói,
“Ái duyên thủ". Này các tỳ
khưu, ái duyên thủ có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế
Tôn, ái duyên thủ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là thế:
“Ái duyên thủ - Trước đã nói,
“Thụ duyên ái”. Này các tỳ
khưu, thụ duyên ái có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế Tôn
thụ duyên ái. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế:
“Thụ duyên ái” - Trước đã nói,
“Xúc duyên thụ”. Này các tỳ
khưu, xúc duyên thụ có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế Tôn,
xúc duyên thụ. Như vậy đối với chúng con (nghĩạ) ở đây là thế:
“Xúc duyên thụ” - Trước đã nói:
“Lục nhập duyên xúc”. Này các tỳ khưu, lục nhập duyên xúc phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế Tôn,
Lục nhập duyên xúc. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế:
“Lục nhập duyên xúc” - Trước đã nói:
“Danh sắc duyên lục nhập”.
Này các tỳ khưu, danh sắc duyên lục nhập có phải không? Hay ở đây
(nghĩa) như thế nào?
Bạch Thế Tôn, danh sắc
duyên lục nhập. Như vậy, đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế:
“Danh sắc duyên lục nhập” - Trước đã nói:
“Thức duyên danh sắc”. Này
các tỳ khưu, thức duyên danh sắc có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào? -
Bạch Thế Tôn, Thức duyên
danh sắc. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế:
“Thức duyên danh sắc” - Trước đã nói:
“Hành duyên thức”. Này các
tỳ khưu, hành duyên thức có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế
nào? -
Bạch Thế Tôn, hành duyên
thức. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế:
“Hành duyên thức” - Trước đã nói:
“Vô minh duyên hành”. Này
các tỳ khưu, vô minh duyên hành có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như
thế nào?
-
Bạch Thế Tôn, Vô minh
duyên hành. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế:
“Vô minh duyên hành”.
Lành thay, này
các tỳ khưu. Các người nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: “Cái này
có tên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh, như vô minh duyên
hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập,
lục nhập duyên xúc, xúc duyên thụ, thụ duyên ái, ái duyên thủ, thủ
duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não
cùng sinh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Do
vô minh đoạn diệt xả ly một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do các
hành diệt nên lục nhập diệt. Do lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc
diệt nên thụ diệt. Do thụ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt.
Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sinh diệt. Do sinh diệt
nên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậylà sự đoạn diệt
của toàn bộ khổ uẩn này.
“Trước đã nói :
“Do sinh diệt nên
lão tử diệt”. Này các tỳ khưu, do sinh diệt nên lão tử diệt có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?”
- Bạch Thế Tôn, do sinh diệt nên lão tử diệt.
Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do sinh diệt nên
lão tử diệt” - Trước đã nói: “Do
hữu diệt nên sinh diệt”. Này các tỳ khưu, do hữu diệt nên sinh diệt
có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, do hữu diệt nên sinh diệt. Như vậy đối với chúng con
(nghĩa) ở đây là thế: “Do hữu diệt nên sinh diệt” - Trước đã nói:
“Do thủ diệt nên
hữu diệt”. Này các tỳ khưu, do thủ diệt nên hữu diệt có phải không?
Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? - Bạch
Thế Tôn, do thủ diệt nên hữu diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa)
ở đây thế nào: “Do thủ diệt nên hữu diệt” - Trước đã nói:
“Do ái diệt nên thụ diệt”.
Này các tỳ khưu, do ái diệt nên thụ diệt có phải không?. Hay ở đây
(nghĩa) như thế nào? - Bạch Thế Tôn,
do ái diệt nên thụ diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là
thế: “Do ái diệt nên thụ diệt” - Trước đã nói,
“Do thụ diệt nên ái diệt”. Này các tỳ khưu, do thụ diệt nên ái diệt
có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, do thụ diệt nên ái diệt. Như vậy đối với chúng con
(nghĩa) ở đây là thế: “Do thụ diệt nên ái diệt” Trước đã nói:
“Do xúc diệt nên thụ
diệt”. Này các tỳ khưu, do xúc diệt nên thụ diệt có phải không? Hay
ở đây (nghĩa) như thế nào? - Bạch Thế
tôn, do xúc diệt nên thụ diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở
đây là thế: “Do xúc diệt nên thụ diệt” - Trước đã nói:
“Do lục nhập diệt nên xúc
diệt”. Này các tỳ khưu, do lục nhập diệt nên xúc diệt có phải không?
Hay ở đây (nghĩa) như thế nào? - Bạch
Thế tôn, do lục nhập diệt nên xúc diệt. Như vậy, đối với chúng con
(nghĩa) ở đây là thế: “Do lục nhập diệt nên xúc diệt” - Trước đã
nói: “Do danh sắc
diệt nên lục nhập diệt”. Này các tỳ khưu, do danh sắc diệt nên lục
nhập diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, do danh sắc diệt nên lục nhập diệt. Như vậy đối với
chúng (nghĩa) ở đây là thế: “Do danh sắc diệt nên lục nhập diệt”. -
Trước đã nói. “Do
thức diệt nên danh sắc diệt”. Này các tỳ khưu, do thức diệt nên danh
sắc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế tôn, do thức diệt nên danh sắc diệt. Như vậy đối với
chúng con (nghĩạ) ở đây là thế: “Do thức diệt nên danh sắc diệt”. -
Trước đã nói: “Do
hành diệt nên thức diệt”. Này các tỳ khưu, do hành diệt nên danh sắc
diệt
có phải không? Hay ở đây
(nghĩa) như thế nào? - Bạch Thế Tôn,
do hành diệt nên thức diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây
là như thế : “Do hành diệt nên thức diệt”. - Trước đã nói:
“Do do vô minh diệt nên
hành diệt”. Này các tỳ khưu, do vô minh diệt nên hành diệt có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, do vô minh diệt nên hành diệt”. Như vậy đối với
chúng con (nghĩa) ở đây là thế: “Do vô minh diệt nên hành diệt”.
Lành thay này
các tỳ khưu, các người nói như vậy Ta cũng nói như vậy: “Cái này
không có nên cái kia không có; cái này diệt nên cái kia diệt, như vô
minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh
sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập, lục nhập diệt nên xúc diệt,
xúc diệt nên thụ diệt, thụ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt,
thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên lão tử,
sầu bi khổ ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của “toàn bộ khổ
uẩn này”.
Này các tỳ khưu, các người
biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo lời quá khứ, và suy
nghĩ: “Ta có mặt trong thời quá khứ hay không có mặt trong thời quá
khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời
quá khứ, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta có mặt trong
thời quá khứ?” – “Thưa không, bạch Thế
tôn” - Này các tỳ
khưu, các người biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời vị
lai hay ta không có mặt trong thời vị lai. Ta có mặt trong thời vị
lai như thế nào "Ta có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào?
Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?”
- “Thưa không, bạch Thế Tôn” -
Này các tỳ khưu, các người
biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có nghi ngờ gì về mình trong
thời hiện tại: “Ta có mặt hay không có mặt. Ta có mặt như thế nào?
Ta có mặt hình vóc như thế nào? Hữu tình hay từ đâu đến? Và rồi sẽ
đi về đâu?” - “Thưa không, bạch Thế
Tôn.” - Này các tỳ
khưu, các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có nói như
sau: “Bậc Đạo Sư quá nặng nề
đối với chúng ta. Chúng ta nói vì chúng ta tôn trọng bậc Đạo Sư”
– “Thưa không, bạch Thế Tôn” -
Này các tỳ khưu, các ngươi
biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có nói như sau: “Một Sa Môn
nói với chúng tôi như vậy, và còn chúng tôi không nói như vậy (?)”
– “Thưa không, bạch Thế Tôn” -
Này các tỳ khưu, các ngươi
biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có tìm một vị Đạo Sư khác
không? – “Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“Này các tỳ khưu,
các người biết như vậy, các người có trở lui lại cái giới cấm, ế tự
(?) đàn tràng của các tục tử Sa Môn, Bà La Môn (và nghĩ rằng) chúng
ta là căn bản không? – “Thưa không,
bạch Thế Tôn” -
Này các tỳ khưu, có phải các người chỉ nói những gì các người tự
biết, yự thấy, tự ý thức được? -
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn” -
Lành thay, này các tỳ khưu, các người đã được ta giới thiệu Chính Pháp,
Pháp này tự chứng hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, có
khả năng hướng thuợng, được người trí tự thân giác hiểu. Này các tỳ
khưu, Pháp này tự chứng hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu.
“Tất cả những gì đã nói là do duyên này mà nói”.
2. Giải Quyết Vấn Đề Sống, Một
Mục Đích …
Dưới con mắt đạo Phật, ta thấy hai sự thật:
Thế Giới Là Vô Thường
(anicca).
Chúng Sinh Là Vô Ngã
(Anattà).
Theo nhận định
trên, đó là biến tướng của Mười Hai Nhân Duyên
(Dvàdasàngahpratityasamutpàdah) kết sinh tương tục, nên cuộc sống
con người cũng chuyển dịch, biến hóa không ngừng, nếu con người
không sớm giác ngộ cứ mãi sống triền miên trong mê vọng. Với tuổi
thanh niên bồng bột, can đảm, đầy dục vọng, nếu người ta chỉ nhìn
hạnh phúc không ngoài cơm, áo, nhà ở, sắc đẹp, tiền tài, danh vọng,
chơi bời cho phung phí, thu hẹp đời mình trong gang tấc, đến khi
tuổi già sức kiệt, tinh thần uể oải, nhìn đời với cặp mắt yếm thế,
bi quan, lãng mạn, buồn thảm… trông về trước, than ôi! “thời oanh
liệt nay còn đâu?”; ngó lại sau, thấy toàn là đổ vỡ, sống không mục
đích, không lý tưởng hướng dẫn, nên dễ bị cảnh vật cuốn lôi, thì nảy
sinh tư tưởng tiêu cực hoài nghi…, chỉ còn chờ ngày xuôi tay, tắt
hơi thở. Do đó, đã sinh ra quan niệm cho rằng con người chết rồi thì
hết, nên lúc sinh thời, họ ăn chơi trác táng!. Ngược lại, có thuyết
lại nói: Con người chết, nhưng “linh hồn” bất tử, và sẽ trở về chốn
âm phủ. Ở đấy người ta sẽ được gặp lại bà con thân quyến…
(Những quan niệm
như trên đều là sai cả. Theo đạo Phật, thì đó gọi là “tà kiến” hay
“biên kiến” vậy).
Nếu cuộc sống con
người chỉ quan niệm trong bấy nhiêu sự kiện, ăn mặc, ở và chơi bời
phóng đãng, thử hỏi còn có nghĩa lý gì?! Nhưng, về một phương diện
khác, cho ta thấy, con người nếu biết
thức tỉnh,
biết phụng sự cho một lý tưởng cao đẹp, biết quay lại với mình -
một ý nghĩa chân
thật ngườI -, sống nhịp với bản thể vũ
trụ bao la… Nghĩa là, chỉ khi nào người ta có được một quan niệm
rộng rãi mới nhìn ra cuộc sống cao đẹp thường ẩn trong lòng sự vật
và tràn đầy hy vọng vô biên …thì đó mới thực sự được gọi là cuộc
sống có ý nghĩa. Thật ra, cuộc sống con người không phải chỉ đóng
khuôn trong bảy, tám chục năm hay trong một đời, một kiếp; mà là vô
hạn - Chết chỉ có
nghĩa để lai sinh. Trong cuộc tiến hóa
mình làm mình chịu. Hể có
nhân
là có quả.
Chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội tốt nào. Hãy phấn đấu không
ngừng. Phấn đấu để thắng dục vọng, thực chứng sự, lý giải thoát. Để
khỏi phụ một đời làm người vậy.
Với tinh thần vô
ngã, vị tha, đạo Phật khuyên con người đừng bao giờ trốn tránh cuộc
đời để tìm nguồn phúc lợi cho riêng mình. Vì như vậy chỉ là ích kỷ,
tạo cho mình một cuộc sống lẽ loi… Đừng tìm chân lý ở đâu xa lạ.
Chân lý ở ngay chung quanh ta. Tất cả sự sống, cách sống, lẽ sống,
khuôn mẫu sống vẫn tiềm ẩn trong cuộc đời và đều bắt nguồn từ con
người = Con người
là sáng tạo. Tất cả… đều do con người đặt định mà có.
Cho nên cuộc sống con người có được tốt đẹp hay không trách nhiệm
trước sau vẫn do con người tự quyết định lấy.
Để điều hòa cuộc
sống, điều kiện trước hết là cải hóa con người, là sự quân bình hóa
giữa hai phương diện “vật chất” và “tinh thần”. Có vậy, cuộc sống
của con người mới hoàn hảo và tiến ích.
Về Sự Sống Vật Chất
Những sản vật thiên
nhiên là cái kho vô tận sẵn có cho con người khai thác, phát triển
nguồn lợi để cung phụng đời sống được dồi dào, tốt đẹp hơn. Thuở
xưa, khi loài người còn sống từng bộ lạc, năm mười người qui tụ ở
một khu rừng, trên một mảnh đất hoang vu, họ sinh kế bằng những nghề
chài lưới, đốn củi, săn thú, đói đã có hoa quả, chim muông, rét lấy
lá cây che thân. Khi không muốn ở khu rừng này họ chuyển đi nơi
khác. Sự sống thật giản dị. Về sau, loài người ngày càng sinh sản
nhiều, thấy không thể sống đơn độc cô quạnh, họ rủ nhau về những
miền đồng bằng và lập thành từng làng, có gia đình riêng. Cuộc sống
hàng ngày càng thêm phức tạp: mỗi người đã biết dành dụm, giữ gìn
của cải của mình; từ chế độ du mục chuyển sang chế độ tập quyền. Họ
thấy cần phải thay đổi nghề nghiệp, lối sống như làm ruộng, trồng
dâu, nuôi tầm, kéo kén để lấy tơ v.v.. Tùy thời tiến hóa, ngày nay
nhân loại đã tổ chức thành xã hội có qui củ, lớn mạnh. Và như ta
thấy, những thiết
dụng cần cho đời sống hàng ngày của con người: không ngoài giải
quyết vấn đề cơm, áo, nhà ở cùng những nhu cầu của một xã hội văn
minh.
Con người muốn đạt
được những mục tiêu, trước hết, mỗi người phải biết hạn chế lòng
tham, tình ích kỷ hẹp hòi -
chúng tôi chưa muốn dùng hai
chữ trừ diệt, vì e rằng có quá lý tưởng chăng
- chỉ biết nghĩ đến quyền lợi cho mình, cho đoàn thể mình, bỏ quên
quyền lợi của tha nhân, của tập thể khác, do đó (mà) mọi mâu thuẫn
phát sinh khiến cho cuộc đời đã rối loạn lại càng loạn thêm và chẳng
bao giờ xã hội loài người được yên cả.
… Tất cả sự vật
hiện hữu trên cỏi đời này đều quan hệ lẫn nhau, một người nghèo khó
có ảnh hưởng đến kẻ giàu sang: làm cho mọi người an vui tức là mình
được sung sướng. Với quan niệm rộng rãi ấy, đạo Phật khuyên con
người đừng bao giờ
chấp giữ
một cái gì gọi theo từ ngữ Phật học là, “chấp ngã
và chấp pháp”. Tại sao ta lại chấp "cái này” là của tôi, “cái kia”
thuộc về tôi? Vì
chấp mà phát sinh lòng
tham lam, giận dữ, si mê.
Sự thật thì tất cả sự vật hiện hữu ở đời đều
huyễn hóa, vô thường, vô
ngã. Khi ta đã hiểu như thế rồi, thì
tự nhiên lòng mình thanh thản, chẳng còn chấp có mình, chấp có người.
Ta thấy ta và vũ trụ vạn hữu đều hòa nhập trong cùng một. Nguồn Sống
Bản Thể Vô Biên
và rất tương quan mật thiết với nhau, do đó con người sẵn sàng “cho”
- xin hiểu chữ cho
theo nghĩa rộng
- và cho với cả tấm lòng thành kính, tức là ta biết cách hành động
hữu ích cho người, cho đời với hoài bão hàn gắng những vết thương
đau rữa nát của xã hội người. Vậy “Cho”
không có nghĩa là “thí bỏ cho kẻ khó” bằng đồng tiền, chén cơm,
manh quần, tấm áo rồi khinh miệt, hắt hủi họ. “Cho”
chỉ có nghĩa là san sẽ, giúp đỡ lẫn nhau - trong lúc mình có mà tha
nhân không có - Người nào chẳng có lúc thiếu thốn (!). Vì giúp người
tức là mình làm cho mình vậy. Và mọi người trong xã hội loài người
lúc ấy sẽ kết tụ toàn bằng những tinh hoa:
khôn, sáng, thật, vui, đẹp,
và với lòng yêu
thương rộng mở, con người ngắm nhìn vũ
trụ thiên nhiên là kho tài nguyên vô tận tha hồ dùng vào công cuộc
phát triển đã sống, để tiến hóa không ngừng…
Về Sự Sống Tinh Thần
Cuộc sống về vật
chất tuy đã ổn định, song về mặt tinh thần con người cũng cần phải
có thì cuộc sống mới thật hoàn hảo. Mà muốn vậy, con người phải
siêng năng trau dồi học thức để mở mang trí tuệ, phát triển tài
năng; để sống khác với loài muôn thú. Nếu không cuộc sống con người
sẽ quá ư mộc mạc chẳng còn có nghĩa lý gì! Cây giác ngộ chỉ mọc ở
đám đất đau khổ. Tinh thần được triển khai là do trí tuệ, một động
lực vốn là kết quả của sự suy tư mà có. Các nghành văn chương, nghệ
thuật, khoa học, triết học, đạo đức học là những môn bổ ích cho tinh
thần, giúp cuộc sống con người thêm tốt đẹp và có ý nghĩa hơn. Con
người muốn làm chủ cuộc sống thì tự thân phải biết rèn luyện tâm
thức sao cho mỗi ngày thêm mở mang, phát đạt. Hãy tỏ ra mình là
người - một nhân
phẩm cao thượng -, có đầy đủ đức tính:
thành thật, lịch
sự, đức hạnh, tài năng, can đảm và hết lòng…
“Học” chỉ là tri thức; điều cần yếu phải có “Hạnh” mới gọi được là
“chân thức”. Học vấn mà không lương tâm, không đức hạnh thì cái học
ấy có khác gì bông hoa tuy có sắc mà thiếu hương thơm .
Học vấn
và đức
hạnh
cả hai là những vật trang sức cho con người thêm tươi đẹp. Trí tuệ,
tài năng chỉ có thể thành đạt đối với những ai biết thuận theo
Lẽ Phải,
tôn trọng Sự Thật
(chân lý), và người đức hạnh thì không bao giờ chỉ biết có mình,
không bao giờ làm hại tha nhân, không bao giờ lợi dụng lòng tốt của
bất cứ ai. Xã hội hiện tại chẳng thiếu gì những phần tử trá hình,
giả nhân nghĩa, giả đạo đức, bề ngoài dáng vẽ đẹp đẻ, nhưng trong
tâm địa thì lại xấu xa, độc ác; họ là những con vật mang hình ảnh
nhân dạng. Đừng thấy đỏ ngỡ chín. Muốn hiểu con người có chân đạo
đức hay không, ta cần phải gần họ, sống bên họ, để hiểu họ. Ta không
thể nhẹ dạ đặt tin tưởng một cách dể dãi vào bất cứ một ai, nếu ta
chưa hiểu rõ người ấy, để khỏi mang lấy hối hận về sau. Nói tóm, sự
sống về tinh thần gồm có hai mặt
học vấn
và đức hạnh.
Tuy nhiên, ngoài các môn học ngoài đời như về triết học, khoa học
v.v.. ta còn cần có học Phật, mới mong đạt tới đích
giác ngộ và
giải thoát
toàn triệt. Đấy là những đảm bảo tốt đẹp cho cuộc sống của con
người, ở hiện tại và tương lai.
“Hãy
tinh tiến để tự giải thoát!”
3. Giá Trị Con Người
Đạo Phật với nguồn
giáo lý cao diệu, bao hàm về cả ba phương diện:
tình
cảm, lý trí và
hành xử, là đạo lấy
CON NGƯỜI
(Nhân Bản) làm cứu cánh và đối tượng chính để phục vụ và triển khai,
bằng cách dạy cho con người thoát mọi ràng buộc khổ đau mê tối của
nhân giới, tâm giới và nhiên giới; đồng thời đặt con người trước
trách nhiệm của chính mình: Cuộc đời hay hay dở là do con người “Tự
tác tự thụ”; chẳng có thần thánh nào can thiệp hay thưởng phạt cả.
Đức Phật dạy: “Mọi
người đều là những vị Phật trong tương lai, vì mọi người đều có Phật
tính (Buhhdata) và có khả năng thành Phật”.
Con người chỉ cần làm hiển lộ được Phật tính (chân lý) ấy, tức sẽ
thành Phật.
Đạo Phật rất gần
gủi với con người, và là đạo của con người, của xã hội loài người.
Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sutra) chép:
“Con người là hơn cả, vì có
thể thực hiện được mọi sự tốt đẹp ở đời”.
Đạo Phật xác quyết rằng: Con người là một trong các sinh động vật,
như có tình cảm trong sáng, tư tưởng linh hoạt, hành động quả cảm,
mặc dầu con người cũng mang trong mình bao thú tính = dục vọng, lầm
lỡ, tội ác…, nhưng nếu xét theo khả năng và giá trị đặc biệt của nó
thì, trong tất cả các loài, con người đủ điều kiện trở thành ưu việt
. “Hoàn cảnh con
người không quá khổ như địa ngục,
không quá vui như thiên đường, và không ngu si như các loài thú vật”.
Vì vậy, giá trị
con người trong đạo Phật bao giờ cũng
được đề cao, và được nhìn nhận là một chủng loại có đặc tính vạn
năng.
a. Con Người Là Hơn Cả
Trong tất cả các
loài, con người là hơn cả. Nhà bác học Pháp Alexis CARREL (giải
Nobel 1912) viết trong cuốn L’Homme, cet inconnu = “…Ta
không biết rõ giới hạn của con người trong không gian là chừng nào.
Song ta có lý do để tin rằng con người vượt ra ngoài cái xác thân.
Hình như mỗi chúng ta lớn rộng hơn cái xác thân này nhiều”.
Tuy nhiên, nếu đứng trong phạm vi loài người để nhận xét thì, về
phương diện tổ chức cơ thể, con người có đầy đủ đức tướng của bậc
trượng phu; Con người có một dáng vóc uy nghiêm, đĩnh đạt; nói năng
linh lợi; đi, đứng, nằm, ngồi khoan thai, nhất cử nhất động đều hợp
với tư cách đặc thù của nó, không dữ tợn, hình thù không xù xì như
các loài muôn thú…; về phương diện sinh hoạt tâm linh, con người vẫn
giàu khả năng tính hơn muôn loài -
Con người là sáng tạo
-
Vì, 1. Bản thể con người bản lai sáng suốt; 2. Con người là trung
điểm của mọi vấn đề. Mọi vấn đề do con người phát sinh và đều phát
sinh vì con người.
“Con người là thước đo vạn
vật = l’homme est la mesure de toute chose”.
Con người với những đức tính như:
Đạo Đức thanh khiết,
Ý chí tự cường, tự lập.
Chỉ bấy nhiêu sự
thể đủ nâng cao giá trị và địa vị con người vượt trên và ngoài tất
cả. Có những đặc tính ấy con người sẽ dễ dàng tiến hóa trên nấc
thang tu chứng, để tự giải phóng mình thoát khỏi mọi tù hãm về tâm
lý, tình cảm sâu kín…; đồng thời ý thức rõ được những hoàn cảnh phức
tạp bao phủ chung quanh, để tự thắng trong tiến thắng vinh quang.
Trên lý thuyết cũng
như trên thực tế, ảnh hưởng của xã hội hôm nay và ngày mai có được
tốt đẹp hay không là do con người tự quyết định lấy:
Con người Thiện thì xã hội tốt
đẹp;
Con người Ác sẽ tạo cho xã hội
xấu xa, đổ nát.
“Đời
sống con người vui tươi hay đau khổ, đều do con người tự quyết định
và tạo lập lấy” –
Mahaparinibbanasutta
-
Chúng ta hãy mạnh
dạn cải tạo đời sống mình, và cùng đứng cả dậy để tự cứu và cứu lấy
giống nòi, cứu nhân loại. Chỉ có con người can đảm mới làm nổi công
việc vĩ đại ấy. Công cuộc tự cứu mình và giải thoát đời đòi hỏi nơi
con người phải có: đó là tinh thần vô ngã, vị tha,
NIETZSCHE,
một triết học gia Đức, nổi danh ở hậu bán thế kỷ XIX, đã nói: “Bạn
hãy trở thành người, mà bạn phải trở thành”.
Nhà đạo học kiêm tư tưởng gia Ấn Độ
Swami VIVEKANANDA
cũng nói: “Con
người cao cả hơn các loài vật, hơn các vị thiên thần. Con người cao
quí hơn cả. Ngay đến các vị thiên thần cũng phải giáng sinh làm
người mới mong chứng đạo giải thoát. Chỉ có con người mới đạt được
sự hoàn toàn giác ngộ”._Con người
khôn, sáng hơn các loài vật (Nhân
vi vạn vật chí linh).
Giá trị con người quả là siêu việt hơn muôn loài…
b. Nhưng Phải Là Con Người
Với Đầy Đủ Ý Nghĩa Của Nó
Đã biết con người
là giá trị hơn cả, thì con người đừng bao giờ làm
phá sản những khả năng sẵn có, phải luôn
luôn nhớ: ta là người hằng sống trên mặt đất. Ta phải làm một việc
gì hữu ích cho đời. Nếu không, cũng đừng bao giờ có ý niệm làm tổn
thương đến tính mệnh, tài sản, danh dự của bất cứ ai trên cõi đời
này. Không được như vậy, thì dù rằng con người ấy vẫn mang hình thể
người, nhưng kỳ thực cái cốt cách trong con người họ đã mất đi tự
bao giờ mà không còn là con người nữa.
Aldous HUXLEY
(1894 - 1963) đã phải thốt lên lời than vãn là: “Người
ta xin chúng ta một điều là” “Trở nên người”. Một người mà ta nên
nhớ, là không phải thần linh cũng không phải quỉ sứ”.
Đạo Phật rất kính
trọng con người và từng khuyên con người hãy tự tiến lên, đừng bao
giờ lùi xuống. “Một
phen mất thân người, muôn kiếp khó
trở lại
= Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục”. Đáng thương biết bao cho
những ai thường giong ruổi chạy theo dục vọng ảo huyền, mê man trong
trường danh lợi… tự dắt mình xuống hố sâu vực thẳm, chẳng tìm được
lối ra! Khi nào một con người bắt đầu tự khinh mình, thì con đường
trụy lạc của họ cũng bắt đầu. Đối với một quốc gia cũng thế. Trách
vụ trước tiên là ta đừng tự khinh mình, vì muốn tiến thắng, ta phải
tự tin ở ta. Con người là trung điểm của xã hội loài người. Tất cả
hoạt động, tác động hiện có trong xã hội đều do con người quyết
định. Nếu từ xưa đến nay, con người đều hiểu rằng:
“Ta là người. Ta là một phần
tử trong xã hội loài người, cũng sinh sống trên trái đất, cùng có
một giá trị như nhau, và có sự quan hệ mật thiết với nhau về mọi
mặt. Ta phải dạy bảo nhau, giúp đở nhau. Ta đem những tư tưởng sáng
kiến của ta tạo thành những khí cụ phá rừng núi, khai khẩn hầm mỏ,
điền địa, đem lại nguồn kinh tế sung túc cho xã hội. Ta chế tạo
nhiều máy móc tối tân, để thay thế cho sức người bớt nặng nhọc, được
hưởng sung sướng tự do…, nếu hiểu thế thì đâu còn nạn giai cấp đấu
tranh, đâu còn lao tù khổ sở, đâu còn khí giới nguyên tử, khinh khí
để giết hại, khiến cho sự chết chóc điêu linh quá sức tưởng tượng
như ngày nay, mà vẫn cứ dám khoác màu áo: Dân chủ, Nhân Quyền, Hòa
Bình, Tự Do, Hạnh Phúc?”
Con người là khí cụ
sắc bén, rất “lợi”
và cũng rất “hại”.
Sự ích lợi (sẽ) trông thấy chỉ khi nào con người biết rèn luyện tâm
trí, như: hiểu
biết
nghĩa vụ tôn trọng sự thật
(chân lý) sáng
suốt hành động. Nhưng sự tác hại của
con người cũng sẽ rất ghê gớm, khi mà con người chỉ sống (bưng bít)
trong những bức tường
thành kiến, tập quán, di
truyền hủ bại, đam mê thuốc xái, cờ
bạc, rượu chè, chơi bời phung phí: đó là những người sống đời không
lý tưởng, mục đích.
Giáo lý đạo Phật là
dạy cho con người nhiều phương pháp làm người, và chỉ có đạo lý
Từ Bi, trí tuệ,
bình đẳng, giải thoát và tự chủ mới
xóa bỏ được mọi mê tối, khổ đau của cuộc đời phiền tạp, nhiểu nhương
này.
c. Giá Trị Đặc Biệt Của Con
Người Trong Xã Hội Loài Người
Giá trị con người
là hơn muôn loài. Trong các kinh điển đức Phật từng nhắc đi nhắc lại
nhiều lần câu: “Ta là
Phật đã thành. Chúng sinh là Phật sẽ thành”
- Kinh Phạm Võng.
Để ra ngoài những
giáo lý uyên áo, ở đây, ta chỉ xét nội câu nói trên cũng đủ diễn tả
hết mọi khía cạnh giá trị và địa vị đặc biệt của con người nhưng con
người lên ngang hàng với chư Phật. Sự bình đẳng tuyệt đối của
đạo Phật là ở đó, chứ không như các tôn giáo khác, chỉ biết đặc tôn
vị giáo chủ duy nhất mà mình thờ, ngoài ra không muốn cho một ai
được ngang hàng với địa vị ấy. Họ cố ý dìm con người xuống, không
muốn cho con người tiến lên. Quan niệm của đạo Phật rộng rãi hơn,
đức Phật dạy: “Con
người là hơn cả = nhân thị tối thắng!”
Có con người là có tất cả. Muốn cải tiến xã hội, trước hết phải cải
thiện con người. “Đời
chỉ đáng sống nếu người ta có được một lý tuởng, nghĩa là có những
ưu tư khác với chăm lo ăn cho ngon, uống cho thỏa và thụ hưởng cho
nhiều lạc thú”.
Tư tưởng, ý chí và hành động
của con người quyết định hết thảy. Con người tốt hay xấu, giàu hay
nghèo, sang hay hèn, ngu tối hoặc thông minh, và xã hội có mở mang
hay thoái hóa, nguyên nhân chính vẫn là con người. Chỉ e con người
có làm chủ đuợc mình hay không? - “Muốn
làm chủ được thời cuộc, phải làm chủ được người chung quanh. Muốn
làm chủ người chung quanh, phải làm chủ lấy chính mình”.
Thực ra, đời sống phức tạp trong xã hội không đáng kể; đáng kể là,
khi con người có biết điều khiển xã hội phức tạp hay không. Nếu con
người biết cách điều khiển cuộc sống mình, mọi việc sẽ tốt đẹp, khác
nào như đợt sống trên sông ngòi, chỉ một cơn gió lốc thổi ào ạt cũng
đủ đánh tan tất cả đợt sống nhỏ làm thành làn sống vĩ đại cuồn cuộn
chảy về biển cả. Cũng như thế, nếu con người tách rời cuộc sống mình
ra khỏi phạm vi xã hội loài người thì cuộc sống ấy quả là vô nghĩa,
không đáng kể. Và như thế, con người ấy đã tự chối bỏ giá trị cũng
như địa vị cao quí của mình trong cuộc sống hằng ngày… Giá trị nhân
bản đích thực có tính cách vĩnh cửu, chỉ có thể biểu lộ ở những con
người mang ý nghĩa toàn vẹn của nó. Đạo Phật khuyên chúng ta hãy tự
quên mình để được yêu vũ trụ rộng lớn, mà đạo lý “vô ngã, vị tha” là
đọng cơ thúc đẩy con người dũng tiến trong công cuộc phụng sự nhân
loại, phụng sự chúng sinh.
Nên nhớ:
sự biểu hiện cùng tận của lẽ sống là ở chổ hoạt động minh động và
phát triển con người toàn vẹn. Hãy vương lên và làm việc.
Đó là giá trị đặc biệt của con
người trong xã hội loài người.