Phật
Học Tinh Hoa
Một Tổng Hợp Đạo Lý
Hòa Thượng Thích Đức
Nhuận
Vạn Hạnh, Saigon Việt Nam
xuất bản lần đầu năm 1961,
Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới,
California xuất bản năm 1999
---o0o---
Phần Thứ Nhất
Lịch Sử Khái
Luận
Lịch sử là ghi chép những hình ảnh, sự kiện và tư tưởng của từng
thời đại; đón tìm một tia sang bất diệt cho tương lai. Mỗi trang sử là một
bài thơ hung tráng, lẫm liệt, đôi khi lại là thất bại khổ đau…, có sức làm
rung động tim óc con người không ít…
Tg.
Chương Ba
Lịch Sử
Truyền Bá
Ánh
sáng Chính Pháp bắt đầu chiếu khắp nhân gian, cách nay hơn 2.500 năm, do
đức THÍCH CA MÂU NI thành lập Phật giáo ở
Ấn Ðộ, sau một thời gian tìm được “bên gốc
cây Bodhi”.
45 năm
giáo hóa, lần đầu tiên, đức Phật hóa độ cho năm vị Tỳ kheo (Bhikku) rồi
lên đến 1,250 vị, lập thành một đoàn truyền giáo, Ðức Phật và các đệ tử
vân du khắp đây đó, đi đến đâu là được dân chúng hoan nghênh đến đấy, dòng
người tin tưởng theo sau…
Còn
cuộc cách mạng nào đẹp hơn thế nữa! Ðức Phật không dùng uy quyền thế lực,
Ngài chỉ cảm hóa mọi người bằng giáo lý mầu… Không ai bảo ai, họ tự động
kéo đến với đức Phật và tất cả đều được Ngài hóa độ. Bốn giai cấp ở Ấn Ðộ
đồng thời phải sụp đổ một lượt, Ngài đã phá tan những thành kiến sai lầm
về vũ trụ nhân sinh, về quan niệm cuộc sống, về đạo đức, luân lý, về chính
trị, nhất là đã gây một quá trình tiến triển giữa chúng sinh cõi Sa bà
(Sabaloka), lấy Ấn Ðộ làm trung điểm. Uy danh đức Phật mỗi ngày thêm lừng
lẫy, bọn ngoại đạo (Bà La Môn giáo) sinh lòng ghen ghét tìm đủ cách để
chống đối nhưng đã hoàn toàn thất bại. Ánh
sáng đạo vàng của đức Phật mỗi ngày thêm tỏa sáng và lan rộng
từ những miền heo hút lạnh lẽo xa xôi tới các nước văn minh tân tiến đều
đã thấm nhuần, không ít thì nhiều, nguồn giáo lý Giác Ngộ và Giải Thoát.
Nguồn Giáo Lý Nhân Bản Ðạo Phật
Sau khi
thành đạo, đức Phật thấy việc trước hết, nói
theo từ ngữ bây giờ, là thực thi một cuộc cách mạng xã hội toàn
diện. Ngài thấy các hệ tư tưởng cũng như sự hiện diện của các giáo phái,
các thế lực chính trị đương thời đã không giải quyết được gì cho con người
và xã hội. Mà muốn cải tiến xã hội điều căn bản là giáo hóa các vị lãnh
đạo tinh thần, để các vị này ý thức trách nhiệm mình và chuyển hóa xã hội:
Ðức Phật đã độ cho giới tu sĩ, trong số có năm vị pháp hữu đồng tu với
Ngài xưa kia tại rừng Mrigadàyà
mà Kaundinya (Kiều Trần Như) làm
huấn sư, để khai đạo. Sau ba tháng an cư tại
Béranès, số đệ tử mỗi lúc một đông,
đức Phật đã giáo dưỡng được số đông đệ tử tu chứng thánh quả A La Hán
(Arahat), trong đó có Ananda. Một
mặt, nhằm vào trung điểm của cơn lốc xã hội để cảm hóa và điều ngự: các vị
đạo trưởng thời danh được đức Phật dang tay tế độ, như: ba anh em ông
Kasyapa (Ca Diếp) rồi đến hai ông
Sariputra (Xá Lị Phất) và
Maudagalyàyana (Mục Kiền Liên). Sau
giới tu sĩ là giới cầm quyền, vua Bimbasara
(Tần Bà Sa La) của vương quốc Magadha
(Ma Kiệt Ðà) và vua Pasenadi nước
Kosala đều được đức Phật âu yếm
hóa độ. Sau hết là giới tài phiệt, thương nhân và thường dân cũng được đức
Phật hóa độ một cách bình đẳng.
Ðạo của
đức Phật phát huy tại rừng vắng rồi truyền về các thủ phủ, kinh thành, và
cũng chính tự nơi đây tỏa đi khắp nơi khắp chốn. Từ đô thị đạo Phật đã
truyền đến thôn dã, do các tăng sĩ sứ giả truyền đạo nhiệt tâm hoằng pháp
và do sự hưởng ứng của mọi lớp người ở Ấn Ðộ, từ vua chúa đến thương gia,
tỷ phú v.v… rồi đến các giai cấp thường dân đều nhất tâm qui hướng đấng
giáo chủ siêu việt của thời đại: Ðức Phật Thích
Ca Mâu Ni.
Công
cuộc hóa đạo mà đức Phật chú ý là, tìm một giải pháp hữu hiệu để
hóa giải các mối ưu tư của tâm thức
con người và các bế tắc của xã hội. Ðức Phật đã bắt mạch cho thuốc rất
đúng, đã vạch định một chương trình hành động hợp lý, đáp ứng được hoàn
cảnh ngưỡng vọng của mọi tầng lớp xã hội. Ðức Phật đã thẳng thắn chỉ trích
những tệ đoan xấu xa trong xã hội. Ðó là sự hành hạ cực hình thân xác một
cách phi lý, vì người ta nghĩ rằng cuộc sống này là tạm bợ, điều quan hệ
là sau khi chết được nhập vào một thực thể siêu hình đại ngã của
Brahama =
Phạm Thiên, (linh hồn của vũ trụ).
Ðức Phật cũng không quên những hạng người vô lý tưởng, buông trôi kiếp
sống trong giòng luân lưu lãng bạc, để kéo họ về thực tế cuộc đời.
Ðấy là
những yếu tắc chỉ đạo nhằm xây dựng một xã hội nhân bản văn minh và tiến
bộ. Sự phân phối các hàng tăng sĩ đi muôn nơi giáo hóa là đức Phật đã trực
tiếp khai sinh ra một cách thức hoằng pháp mới: đó là việc đưa các sứ giả
đạo pháp đi vào cuộc đời để trực kiến trực giải các thắc mắc của quần
chúng, để giúp mọi người, mỗi người sớm được “chuyển
mê khai ngộ”.
Sự
nghiệp vĩ đại của đức Phật là sự khai phá rừng lý thuyết âm u tào tạp sẵn
có và đã mở ra một hướng đi hợp
với lý trí, tình cảm, hành động và khả năng của mỗi người và xã hội loài
người.
Ý thức
“trung đạo = Majjhimàpatipadà”
của đức Phật là một ý thức mới mà từ trước chưa hề có.
Thuyết trung Ðạo dạy con người ý thức được cái “khổ”
(Dukhha) rồi tự mình chiến thắng nó một cách vinh quang, theo sự diễn biến
cụ thể của luận lý biện chứng, là sự quan sát và truy nguyên cái Khổ để
tìm cách thoát khổ.
Theo
thuật ngữ chuyên môn trong giới Phật học thì, những điều ta vừa diễn tả
trên, có tên gọi “Tứ Diệu Ðế:
Catuani yasacca” hay là bốn chân lý căn bản:
Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Tập làm nhân cho Khổ. Ðạo làm nhân cho Diệt. Muốn đạt
đến phần nhì của chương trình giải thoát khổ cảnh là Diệt, Ðạo thì phải
trải qua phần đầu của chương trình là Khổ,
Tập.
Chân lý thứ nhất:
SỰ KHỔ (Dukhha). - Cội nguồn của khổ gồm
có hai: phần căn bản là các yếu tố nội tại (tức thân ngũ uẩn)
và phần phụ là hoàn cảnh chung quanh mà con người (có thể) cố gắng (sẽ)
vượt qua được. Phần căn bản của Khổ là sinh,
già, ốm, chết. Phần phụ gồm những điều, như: ta phải thân cận,
liên hệ với những kẻ mà mình không muốn thân cận; phải xa cách những người
mình yêu mến; bất mãn vì điều mình ao ước mà không được. Sự khổ vốn sẵn có
lại làm phát sinh cái khổ phiền não, gọi là
khổ khổ. Mọi loại khổ phiền não khác như thời tiết: nóng, lạnh,
dịch lệ, bão lụt, động đất, chiến tranh… làm cho mất sự vui sướng, gọi là
hoại khổ. Khi con người mang theo
trong mình cái tính cách vô ngã, vô thường, dời đổi, hợp tan… gọi là
hành khổ. Tất cả nỗi khổ não ấy là
kết quả tích lũy của cái Nghiệp (karma) luân hồi.
Chân lý thứ hai:
NGUYÊN NHÂN SỰ KHỔ (Dukkhasamudaya). Căn
nguyên của sự khổ, mà đầu mối tạo ra mọi khổ ở đời là
Vô minh, Tham, Sân, Si, Vọng động.
Chính đấy là nguyên nhân của sự sa lầy trong sự ngừng đọng ý thức tiến hóa
trên chiều hướng giải thoát.
Chân lý thứ ba:
SỰ DIỆT KHỔ (Dukkhanirodha hay Nirvàna).
– Là sự giải thoát khỏi hết khỏi hết mọi hệ lụy khổ đau, bất luận nguyên
nhân gần hay xa nào có thể gây ra sự khổ, làm xao động cuộc sống chân hạnh
phúc, và để được mình ra khỏi giòng thác lũ sinh tử.
Ái dục và những gì liên quan đến ái dục phải
cương quyết loại bỏ.
Chân lý thứ tư:
CON ÐƯỜNG DIỆT KHỔ
(Dukkhanirodhagàminipatipadà). Ðó là con đường đưa đến sự giải thoát vĩnh
viễn kiếp thân đau khổ, gồm có tám nhánh, cũng gọi là Bát Chính Ðạo
(Àryàstàstàngamàrganàmàni): Chính kiến,
chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính
niệm và chính định.
Chính Kiến
(Samyadrstih). - Sự thấy biết chân chính; trái lại là tà kiến, hiểu biết
sai lầm. Chính Tư Duy
(Samyaksamkalpah), suy nghĩ chân chính là sự suy nghĩ dựa trên lý trí để
là thăng hoa cuộc sống, giải thoát mọi khổ đau.
Chính Ngữ (Samyagàh), lời nói chân
chính, từ hòa, không đặt điều, xu nịnh, dèm pha, độc ác, là để tránh những
gì không đúng như thật, có dụng ý gây đau khổ cho tha nhân và có tính cách
diệt mầm mống giải thoát, mầm mống tiến hóa chung, đều không được nói.
Chính Nghiệp (Samyakkarnantah), là
hành động một cách minh chính để không gây ra sự tổn thương, làm đau khổ
cho kẻ khác, hoặc cho chính bản thân. Chính
Tinh Tiến (Samyagvàhàmah), khai trừ khỏi tâm thức những ý nghĩ
xấu, những hành động xấu, luôn luôn nghĩ, nói, và làm những việc tốt lành.
Chính Mệnh (Samyagàjivàh), sự mưu
sinh một cách chính đáng, không gây phiền nhiễu hoặc vi phạm đến quyền lợi
của những người khác, với ý định cạnh tranh bất chính, trong những mưu mô
gây trợ duyên cho các điều kiện sát hại sinh linh, như: nghề bán khí giới,
thuốc nổ, làm đồ tể v.v… Chính Niệm
(Samyaksmrtih), là sự phản tỉnh, sự nuôi dưỡng thường xuyên một ý thức tốt
đẹp, nỗ lực tiêu diệt khổ đau. Chính Ðịnh
(Samyaksmàdhih) sự lắng đọng tâm tư để được yên tĩnh, trong sáng; nhằm tập
trung các sức mạnh vĩ đại bắt nguồn từ vô thức, hay từ tiềm thức để đưa
vào ý thức và làm bừng nở các năng khiếu siêu việt, sáng tạo, hòng cởi mở
các vòng dây sinh tử, khổ đau triền miên, tức là
GIẢI THOÁT.
Ta thấy
“Bát Chính Ðạo” bắt đầu bằng Chính Kiến,
Chính Tư Duy để kết thúc bằng
Chính Ðịnh, Như vậy là yếu tố tinh thần quyết định đầu tiên. Ta
cũng nên nhớ rằng đấy là một sự mới mẻ mà từ trước ở Ấn Ðộ, chưa có. Các
giáo phái đương thời, kể cả các nguồn tư tưởng cổ sơ chỉ mới chú trọng đến
các vấn đề đạo đức, thúc liễm thân tâm, phần lớn gần như toàn vẹn thuộc về
vật chất, hoặc có khuynh hướng vật chất mà thôi, các gian đoạn
Phệ Ðà,
Phạm Thư và
Áo Nghĩa Thư chỉ là những sự mua
chuộc, đe doạ và cưỡng bức con người, bắt con người phải phục tòng vào một
Ðấng Vô Hình, qua các hình thức
thuần túy duy vật, như tu ép xác, hoặc cúng tế các thần thánh bằng những
lễ vật cụ thể. Ðạo đức của xã hội đương thời là tận tụy lễ bái, phục vụ
thần linh. Ðạo Phật, trái lại, bắt nguồn từ ý thức trước, ý thức đi trước
hành động, thanh lọc ý thức là thanh lọc hành động. Ðạo đức, theo quan
niệm đạo Phật, là trọng đức thanh khiết
để đừng dồn ép con người sa ngã vào vòng danh, lợi và những tham vọng thấp
hèn. Nói thế không có nghĩa đạo Phật bỏ quên các yếu tố vật chất phục vụ
nhân sinh; nhưng không đặt nặng phần vật chất hơn tinh thần để con người
phải nô lệ vì nó.
Chính
vì vậy mà ta thấy đạo Phật là trung tâm phát huy đầu tiên ở Ấn Ðộ một tinh
thần mới, một nghệ thuật sống rất cao đẹp,
mang một yếu tính giáo dục thanh nhã, dưới hình thức các dụ ngôn bóng bảy
đầy hiệu năng. Kinh Bách Dụ là kho tàng của loại này. Duyệt xét lại kho
tàng văn hóa cổ Ấn Ðộ chúng ta thấy - trừ đạo Phật – các kinh điển của các
pháp gia, đạo giáo đều chỉ ghi chép một cách trực tả mà thôi. Ðó là một sự
nghèo nàn về kỹ thuật khai hóa.
Bát
Chính Ðạo đã mở ra cho ta con đường “Trung Ðạo” rất rộng rãi làm mờ át các
con đường nhỏ hẹp của các đạo giáo hiện hữu. Nó mang tính cách toàn diện
và phổ cập tính. Do đó, Bát Chính Ðạo
vừa giải quyết được các vấn đề thuộc cá nhân lẫn cộng đồng xã hội. Chính
vì vậy mà đức Phật, lần chuyển pháp luân đầu tiên, được các bậc thạc đức
đương thời có trực giác cho rằng Bát Chính
Ðạo là một giải pháp thực tế hữu hiệu nhất để cải hóa con
người, xây dựng xã hội.
Ðạo
Phật gạt bỏ những gì là cực đoan, tệ đoan, trục lợi, ích kỷ. Hay nói cách
khác, về mặt hình nhi hạ, đạo
Phật xây dựng Một xã hội người văn minh, giác ngộ và giải thoát bằng con
đường Bát Chính Ðạo, nhằm đưa con
người vượt lên cao để không còn đắm chìm vào vật chất và khỏi là tù nhân
cho xã hội, và bị cuốn theo các sự tranh chấp thấp hèn, chỉ gây ra đau khổ
mà thôi; về mặt hình nhi thượng,
triết lý đạo Phật là nguồn giải thích, cắt nghĩa hiện tượng siêu hình xuất
thế một cách sáng bén. Ðó là hệ thống “Thập Nhị Nhân Duyên = Dvàdasãngah
pratityasamutpàdah”.
Thập Nhị Nhân
Duyên là: Vô Minh,
Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão Tử. Nếu
đi từ trên xuống dưới thì ta thấy Thập Nhị
Nhân Duyên sẽ là kết thúc bằng cái chết. Ðó là hậu quả của
Nghiệp (Karma). Mà khởi điểm của
Nghiệp là
Vô Minh (Avidyà), nên phải kết thúc
bằng cái chết. Nhưng nếu đi ngược lại từ dưới lên trên, tức là muốn thoát
Sinh thì phải cắt đứt Hữu, Thủ, Ái…
để tiến lên đến đỉnh chót cây thang Thập Nhị Nhân Duyên là thoát khỏi Vô
Minh (giải thoát) tức đã đạt được trạng thái Chân Lý, không còn bị vướng
mắc vào vòng nghiệp quả tương đối vay, trả, lặn hụp trong giòng thác lũ
sinh tử.
Thập Nhị Nhân Duyên
là một hệ thống luân lý có thể tính ngược hay xuôi, có thể tính toàn chuỗi
hay phần lẻ (từng đoạn) để tùy nghi áp dụng vào mỗi trường hợp; nó có thể
giải thích được các sự vụ về tâm linh, tình
cảm, lý trí, hành động, hữu hình hay vô hình của mỗi cá nhân
hay đoàn thể, đã tiến hóa hoặc chưa tiến hóa, và ngay cả hoàn cảnh thụt
lùi nhanh hoặc chậm nữa. Các bài toán thuộc về cá nhân, gia đình xã hội về
kinh tế, chính trị, khoa học v.v…
đều có thể giải thích qua công thức Thập Nhị
Nhân Duyên.
Ðặc
biệt là vào thời đại thánh kinh Áo Nghĩa Thư
của Ấn Ðộ, tình trạng tâm linh con người rất đen tối, sự xáo trộn về trật
tự gia đình, xã hội, tín ngưỡng, đã bộc phát một cách mãnh liệt ở ngay nội
tâm và ngoại giới, gây ra một chuỗi dây chuyền tác hưởng lẫn nhau. Con
người lúc ấy chỉ còn là nạn nhân của các thánh kinh và các đạo giáo… Chính
vì sự (có thể) áp dụng được một cách rộng rãi “Pháp”
của đức Phật mà người Ấn Ðộ thời thượng - từ
các vị tổ sư ngoại đạo, vua chúa, phú gia đến bình dân - đều ngưỡng mộ,
tin theo và thực hành.
Thập Nhị Nhân Duyên
bác bỏ các yếu tố thần quyền can thiệp vào các sự việc ở trần gian, đặc
các vị thần linh bình đẳng với con người, trên phương tiện luân lý và nhân
quả biện chứng.
Như
trên, cho ta thấy, pháp của đức Phật hẳn nhiên đã là Nguồn Sống của mọi sự
sống, và là Tình Thương, Ánh Sáng và Niềm
Tin là nở hao cuộc đời…
-
Một Nguồn Giáo Lý
Nhân Bản Toàn Diện.
Kết Tập Kinh Ðiển
Sau khi
đức Phật niết bàn (Nirvàna) được vài tuần,
các bậc trưởng lão A La Hán; chừng độ 500 vị tự động hội họp nhau lại ở xứ
Magadha (Ấn Ðộ); đồng thời suy
tôn đức Ma Ha Ca Diếp (Maha
Kasyapa) làm Thượng thủ. Ngài
Upali là bậc trưởng lão uyên thâm
giới luật thì trùng tuyên Luật Tạng
mà khi xưa đức Phật chế ra để răn dạy hàng thất chúng đệ tử.
Còn ngài Ananda, bậc đa văn đệ
nhất và là người hầu cận (thị giả) đức Phật suốt 25 năm, có nhiệm vụ
thuyết trình về Kinh Tạng. Tôn
giả Purna lĩnh trách nhiệm trùng
tụng về Luận Tạng. Kỳ kết tập này
kéo dài đúng 7 tháng thì hoàn thành. Tuy nhiên, thuở ấy vẫn chưa chép Tam
Tạng, chỉ mới có tính cách ôn lại những lời vàng của đức Phật.
Cuộc
đại hội được mệnh danh là: “Ðại Hội Kết Tập Kỳ
Nhất”.
Cách
Phật nhập diệt khoảng 100 năm, tăng chúng thành
Vesàli và
Vajji (Ấn Ðộ), vì có sự bất động ý
kiến về những điều trong Luật Tạng; đấy là nguyên nhân chính cho sự phân
phái sau này:
Trong
kinh Ðại Niết Bàn chép, đức Phật cho phép: “Nếu
chư tăng đồng ý cùng nhau, là thấy điều nào ít quan trọng, mặc dầu Như Lai
đã chế định, nhưng sau chư tăng xét rằng không có thể thụ trì được nữa thì
được phép sửa chữa”. Căn cứ vào điều dạy này, một nhóm các thầy
tỳ khưu do Ðại đức Vajjiputra đứng đầu trong nhóm, căn bản:
-
Không được trữ thức ăn từ ngày này qua ngày khác.
-
Phải ăn đúng ngọ.
-
Ăn rồi, đã đứng dậy, không được ngồi lại ăn nữa.
-
Khi đi qua các làng mạc, có người dâng cúng các thứ
vật dụng, nếu ăn rồi không được nhận mà có nhận, phải đem cho kẻ khó.
-
Quá trưa, thì không dùng gì cả, dù là sữa hay mật ong
cũng vậy.
-
Không được uống rượu.
-
Chăn, màn phải có kích thước nhất định, không được
hẹp quá hay rộng quá.
-
Ðã xuất gia, không được đàm thoại đến những việc thế
tục.
-
Khi ban bố điều gì, phải được sự thỏa thuận của toàn
thể Tăng mới được thi hành.
-
Không được trữ tiền bạc.
Nhưng,
một nhóm khác, do các Ngài Ðại đức Yasas,
Acarya, Sabbakami và Revata lãnh đạo gồm 1.200 vị hiện diện,
trong đó có 700 bậc trưởng lão xuất sắc cùng họp nhau ở thành
Vaisali để nghị định về mười điều
của nhóm Vajjiputra đã cải cách,
và tất cả các vị này đều không chấp thuận. Vì, kỳ Ðại Hội Kết Tập lần thứ
nhất có đầy đủ các vị thánh tăng, đã quyết định: “Tuy
đức Thế Tôn đã di huấn, song cũng chẳng nên sửa đổi cho sai điều luật của
Ngài đã truyền răn”.
Mặc cho
sự phản đối, nhưng ngài Vajjiputra
vẫn một mực thi hành những điều luật do nhóm đã tu chỉnh. Ðằng khác, ngài
Yasas thì nhất quyết giữ theo mười điều luật đã được các vị thánh tăng
nghị quyết, nên mới có sự chia ra hai phái:
-
Phái do đại đức Yasas giữ giới luật như cũ, gọi là phái
Nguyên thủy hay Thượng tọa bộ
(Thevavadins).
-
Phái đại đức Vajjiputra giữ
theo mười điều luật do Ðại chúng đã tu chỉnh, tức là phái Tiến thủ, nên
cũng gọi là Ðại chúng bộ
(Mahasanghikas).
Thế là
từ đấy đạo Phật chia ra hai phái rõ rệt: Hai phái này làm cội rễ cho hai
mươi bộ phái
sau này thành lập.
Như ta
đã hiểu kỳ Ðại Hội Kết Tập thứ nhất tại
Ràjagriha và lần thứ nhì tại
Vesàli, chỉ mới trùng tụng Phật ngôn, chứ chưa chép thành kinh
điển gì cả. Kết quả “Ðại Hội Kết Tập Kỳ II”
chỉ mới giải quyết những nghi vấn trong giới luật mà thôi.
Thuở
đạo Phật được 218 năm, Asoka (A
Dục), vị vua anh hùng trị vì toàn cõi Ấn Ðộ, đã làm cho đạo Phật sáng tỏ!
Sự nghiệp của hoàng đế Asoka có
ba việc lớn đáng kể:
-
Lập đại hội kết tập Tam Tạng Thánh Ðiển.
-
Tạo Phật Tháp.
-
Ký hiệp ước 5 năm ở Cận Ðông để truyền bá Chính Pháp.
Trong
Ðại Tạng Luật có ghi: “Khi bọn ngoại đạo
thấy chư tăng được nhà vua kính trọng, bọn họ lại giả dối len lỏi vào hàng
ngũ Giáo Hội Tăng Già để âm mưu gây rối nội bộ, phá hoại Phật giáo, làm
giảm uy tín các vị chân tu thực học…”
Việc
xảy ra đến tai hoàng đế Asoka,
Vua ra chiếu truyền cho mở cuộc khảo hạch về giáo lý nếu vị Tỳ khưu nào
đáp không thông, phải trục xuất khỏi giáo hội. Qua một thời kỳ chọn lọc,
trong giáo hội chỉ còn lại những cao tăng tài đức. Ðồng thời, hoàng đế
Asoka còn cho triệu tập các vị đại
đức lại để kết tập kinh điển một lần nữa tại thành
Pataliputra, tức
Bihar và
Patna ngày nay, do ngài
Moggaliputratissa, là bậc chứng ngộ
đệ nhất, thuộc lòng Tam Tạng, được bầu làm chủ tịch. Hội thánh kỳ này gọi
là “Ðại Hội Kết Tập Kỳ III”
Truyền
rằng với kỳ kết tập này gồm có 1.000 vị đại trưởng lão chọn lọc và kéo dài
trong vòng 9 tháng. Về ngôn ngữ thì vẫn dùng tiếng
Magadha (Pali) như hai kỳ kết tập
lần trước. Nhưng có phần kết quả rực rỡ và rất long trọng.
Trải
qua ba thời kỳ ấy, nghĩa là cách 433 năm sau Phật nhập diệt, vua
Kaniska, noi gương hoàng đế
Asoka, lập hội kết tập Tam Tạng tại
Malayajanapada (Tích Lan) cho chư
tăng hợp nhất, nhưng không kết quả. Chư tăng giữa hai phái vẫn duy trì
theo truyền thống riêng. Vua Kaniska
liền cho phép phái Bắc hội tại thành
Purusapuri, dùng tiếng bắc Phạm (Sanskrit) để kết tập, cho nên
mới có Tam Tạng bằng tiếng Sanskrit.
Còn phái Nam thì vẫn giữ như xưa là dùng tiếng
Pali để kết tập. Kỳ kết tập này gọi
là “Ðại Hội Kết Tập Kỳ IV”.
Cách
hai nghìn bốn trăm mười bốn năm (2.414) sau Phật niết bàn,
Myanmar (Miến Ðiện) cũng triệu tập
một đại hội kết tập kinh điển, nên kỳ kết tập một đại hội kết tập kinh
điển, nên kỳ kết tập này gọi là “Ðại Hội Kết Tập
Kỳ V”.
Và,
cách Phật nhập diệt 2.498 năm, tại Miến Ðiện, một
Ðại Hội Kết Tập Kỳ VI được
long trọng khai mạc ngày 21.5.1954 đến ngày 25.5.1956 tại thạch động
Maha Pasana Guha, cách kinh đô
Rangoon mười hai cây số. Kỳ kết tập
này cả thảy có 2.500 vị tỳ khưu của hầu hết các quốc gia Phật giáo tham
dự, như: Myanmar, Sri Lanka, India,
Thailand, Laos, Kampuchia, Tibet, Chine, Japan, Việt Nam v.v…,
đặt dưới sự chủ tọa của đức Tăng thống Phật giáo Myanmar.
Thể
thức kết tập theo như kỳ nhất, ngoài vị chủ tọa có hai vị Thượng tọa “vấn
đáp” tất cả tiết mục trong các Kinh, Luật, Luận.
“Một
vị Sư đọc từng điều luật hoặc pháp môn, trong khi ấy những vị khác cầm bản
thảo đã kiểm duyệt rồi, vị chất vấn đứng lên hỏi; vị phúc đáp phải trả lời
ngay khi đó. Các vị thượng tọa này thuộc nằm lòng và thông hiểu từng chi
tiết ba tạng Kinh, Luật, Luận, không thể tưởng tượng được”.
Ðại Hội
Kết Tập kỳ này được mệnh danh là “Kỳ kết tập thứ
VI của lịch sử truyền bá Phật giáo”,
và chắc chắn sẽ còn có những kỳ Ðại Hội Kết Tập khác nữa. (Ðược biết, kỳ
kết tập này do chứng thư số 56 (1950) của chính phủ Miến Ðiện, và chư tăng
Phật giáo Miến Ðiện cùng hợp lực tổ chức, sự tổn phí trên 3.500 triệu bạc
Việt Nam).
Ðó là
một công trình đáng ghi nhớ cho toàn thể Phật giáo Thế giới vậy.
Ba Tạng Thánh Giáo
Trong 5
thời thuyết giáo
hơn 45 năm trường nói pháp, đức Phật đã để lại những gì? Sự thật như ta đã
thấy: khi Phật ở đời chỉ là tùy bệnh cho thuốc, tùy cơ nói pháp chứ không
dùng đến kinh sách. Ðức Phật dạy: “Ta nói
pháp 45 năm, nhưng thực ra chưa từng viết một chữ”,
vì tránh sự hiểu lầm cho chúng sinh, vì e rằng: chúng sinh phần nhiều hay
cố chấp trong những lời nói, câu văn, mà phải xa đạo! Ðức Phật chỉ trực
tiếp giáo hóa, chứ (tuyệt nhiên) không dùng đến văn tự biên chép gì cả.
Mãi về sau, khi đức Phật nhập diệt rồi, vì sợ thất truyền… nên các đệ tử
mới họp nhau lại để ghi chép những lời vàng giáo huấn của Phật làm thành
Ba Tạng Thánh Giáo (cũng gọi là Nhất Thiết
Kinh hay Ðại Tạng Kinh).
Nghĩa là, tổng quát cả toàn bộ giáo điển đạo Phật, trong đó gồm có hai thể
văn: Pali và Sanskrit (Phạm).
“Các kinh điển thuộc văn hệ
Pali, khi truyền bá qua Nam phương, lấy đảo Tích Lan làm trung tâm điểm,
và qua Miến Ðiện, Thái Lan, Ai Lao v.v… gọi là Nam Phương Phật Giáo.
“Kinh điển thuộc văn hệ chữa
Phạm, thì truyền bá qua Bắc phương, lấy trung Ấn Ðộ (hiện nay là lãnh thổ
Népal), Tây Tạng, và các nước ở Ấn Ðộ, Trung Hoa làm trung tâm điểm, rồi
truyền lần đến các nước Cao Li, Nhật Bản, Việt Nam, v.v… gọi là Bắc Phương
Phật Giáo.
“Sở dĩ gọi Nam Phương Phật Giáo,
Bắc Phương Phật Giáo, là theo địa lý mà nói, chứ không có ý nghĩa là vạch
chia Nam Phương là Tiểu Thừa, Bắc Phương là Ðại Thừa. Chẳng qua là Phật
giáo ở Bắc phương phần nhiều đi về lối tung hoành phát triển, mà Nam
phương đi về lối nguyên thủy của Phật giáo - tức là Phật giáo lúc ban đầu.
Cũng vì trong các thời kỳ kết tập, dùng lời nói, câu văn không giống nhau,
và lối truyền bá ra các nơi khác nhau, nên đối với kinh điển kết tập của
hai bên hoặc cũng có chỗ dị đồng – tuy chỗ nghĩa lý cốt yếu thì vẫn in
nhau” – Trích Phật Giáo Khái Luận, bản dịch
của Thích Mật Thể, trang 11 – 12.
Như
chúng ta biết: Ðạo Phật là một đạo Giác Ngộ, mà giáo lý của đạo Phật là
NHƯ THẬT.
Phần tinh ba của giáo lý ấy
được xây dựng trên hai tiêu chuẩn: Từ Bi và Trí Tuệ - một nguồn Ðạo uyên
thâm, rất sống và rất sáng, do đức Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng,
cách nay trên hai thiên niên kỷ.
Những
lời vàng ngọc giáo huấn của đức Phật sau này được các đệ tử ghi chép thành
Ba Tạng Thánh Ðiển:
-
KINH
(Sutram), là chép những lời thuyết pháp của đức Phật về những giáo lý
căn bản, như: Tứ Diệu Ðế, Chân Như, Niết Bàn, Phật Tính, luật Nhân Quả,
Luân Hồi, Nghiệp Báo… của chúng sinh trong ba cõi sáu đường, cùng những
sự tu chứng của chư Phật, Bồ Tát ở quá khứ, hiện tại và vị lai, tức
thuyết minh về nguyên lý Phật học, gồm Giáo, Lý, Hành, Quả,
đúng chân lý, khế hợp với căn cơ, trình độ của mọi lớp người và mọi trào
lưu tư tưởng thời đại.
-
LUẬT
(Vingayah), là trình bày những nghi thức, phương pháp, giới luật do đức
Phật chế định, nhằm hướng dẫn sự tu trì cho các đệ tử y vào đó mà thực
hành. Mà căn bản của giới luật là:
-
Chấm dứt mọi việc ác,
-
Nguyện làm các việc lành,
-
Trong sạch ý nghĩ, lời nói và hành động.
Luật
Thiện Kiến ghi: “Luật Tạng được coi như sinh
mệnh của Phật Pháp”.
-
LUẬN
(Abhidharma, hay Prajna paramita), là những tác phẩm văn chương nghị
luận do các Bồ tát, Thánh tăng trứ tác, biện giải mọi lẽ chính tà, chân
vọng, là những đạo lý nghiên cứu về sự vật, nêu rõ
Tính, Tướng
của các Pháp, cốt làm hiển lộ nghĩa lý sâu xa mầu nhiệm của Kinh và
Luật.
Kho tàng Luận học rất lớn, do
sự đóng góp của các triết gia, học giả Phật tử, qua từng thời đại, khiến
cho Tạng Luận vốn dĩ đã giàu có đồ sộ lại càng thêm phong phú, sáng, đẹp.
Và, dưới đây, ta hãy tìm về
nguồn gốc Ðại Tạng Kinh căn bản được ghi chép bằng Phạm ngữ, văn thể Pali
và Sanskrit.
Kinh Tạng Pali (Suttapitaka) gồm
có:
-
Luật Tạng
Vinayapitakam:
- Parajika (Patimokha): Căc Bản
Giới.
- Pacithiya (Suttavibhanga): Tiểu Giới
(3 quyển).
- Parivara: Phương Pháp
Yết Ma và Truyền Giới.
- Mahavagga: Ðại Phẩm.
- Cullagga: Tiểu Phẩm.
-
Kinh Tạng
Suttapitaka:
- Digha Nikàya: Trường A
Hàm.
- Majjhima Nikàyà: Trung A Hàm.
- Samyutta Nikàya: Tạp A Hàm.
- Ànguttara Nikàya: Tăng Nhất A Hàm.
- Khudhaka Nikàya: Tiểu A Hàm.
Trong Khudhaka
Nikàya có 15 quyển nhỏ:
- Niddesa: Nghĩa Thích.
- Sutta Nipàta: Kinh Tập.
- Therègàthà: Trưởng Lão Kệ.
- Theragatha: Trưỡng Lão Ni Kệ.
- Udàna: Tự Thuyết.
- Dhammapada: Pháp Cú Kinh.
- Khuddakapàtha: Tiểu
Bộ Kinh.
- Itivuttaka: Như Thị Ngữ.
- Nimànavatthu: Thiên Cung sự.
- Peta vatthu: Ngã Quỉ
Sự.
- Jàtaka: Bản Sinh.
- Apadàna: Thí Dụ.
- Patisambhidàmagga: Vô Ngại Giải Ðạo.
- Cariyàtaka: Sở Hành Tạng.
- Buđhavamsa: Phật Sự.
-
Luận Tạng
Abhidhammapitaka:
- Dhammasangani: Pháp Tụ.
- Vibhang: Phân Biệt.
- Dhàtukatha: Giới Thuyết.
- Puggalapannatti:
Nhân Thi Thiết.
- Kathàvathu: Biện Giải.
- Yamaka: Song Luận.
- Patthàna: Phát Thú.
Ngoài Tam Tạng
(Tripitaka) còn có các thánh điển trọng yếu:
- Dipavamsa: Ðảo Sử (..?.)
- Mahàvamsa: Ðại Sử.
- Cùlavamsa: Tiểu Sử.
- Visuddhimgga: Thanh Tịnh Ðạo
Luận.
- Milindapanha: Na Tiên Kinh.
- Abhihammatthasangaha: A Tì Ðạt Ma Nghĩa
Luận.
Tam Tạng Sanskrit gồm có:
-
Kinh Tạng
Sùtrapitakam:
- Sad
dharmapundarikam: Diệu Pháp Liên Hoa.
-
Avatamsaka: Hoa Nghiêm.
-
Prajãnapàramità: Bát Nhã.
-
Lalikavistara: Ðại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm.
-
Suramgama: Lăng Nghiêm.
-
Lankàvatàra: Lăng Già.
- Gandavjuhattathagathagunajnana: Viên Giác.
- Maharatnakuta: Ðại
Bảo Tích.
- Samàdhiraja: Tam Muội.
- Da’sabhumis’varà: Vô Lượng Thọ.
- Vajirasuci: Kim Cương.
- Mahaparinibbana: Ðại Niết Bàn v.v…
-
Luật Tạng
Vinayapitakam:
- Pràtimoksa: Ðại Giới
Bản.
- Bodhisatvacaryànirdesa: Bồ Tát
Giới v.v…
-
Luận Tạng
Abhidhammapitakam:
- Prajnãparamitacastra: Bát Nhã.
- Mahàyãnasamparigraha: Nhiếp Ðại
Thừa.
- Madhyamikacastra: Tam Luận Tông.
- Yogacaryàbhũmicastra: Du Già Sư
Ðịa.
- Da’sabhũmikasũtrasãstra: Thập Ðịa Kinh.
- Abhidharmakosa: Câu Xá.
- Satyasiddhi: Thành Thật.
- Vaibhasika: Tỳ Bà Sa.
- Abhidharmahridaya: A Tỳ Ðàm.
- Dharmaskanda: Pháp
Uẩn Túc.
- Àlambanapariksẽcastra: Quán Sở
Duyên Duyên.
- Mahayanas’raddhoipada: Ðại Thừa Khởi Tín.
- Vijnãptimutratasid dhi: Thành Duy Thức
v.v…
Kinh
điển đạo Phật như ta được biết – ngoài Tạng
nguyên bản ghi chép bằng hai thể văn Pali và Sanskrit -, hiện
nay các quốc gia, như: Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Tích Lan, Miến Ðiện,
Thái Lan, Ðức, Anh, Pháp, Mỹ, Liên Bang Nga, v.v… cũng đã phiên dịch ra
ngôn ngữ của mỗi quốc gia (hoặc dịch trọn Tạng hay chỉ mới dịch từng
phần…).
Tại
nước Việt Nam ta, đạo Phật truyền bá đến nay đã có trên dưới XX thế kỷ thế
mà cho tới ngày nay nước ta vẫn chưa có tạng kinh bằng tiếng Việt!
Chúng
tôi đốt hương cầu nguyện Ðạo Phật Việt (sẽ) sớm có một Ðại Tạng Kinh bằng
ngôn ngữ nước mình để góp mặt với các quốc gia Phật giáo trên thế giới, và
cũng là để xây dựng nền văn hóa dân tộc mỗi ngày thêm sáng, đẹp.
Riêng
Luận Tạng (Abhihamma pitaka) được
rất nhiều học giới nghiên cứu và thịnh hành nhất vào thế kỷ thứ II, III
T.L, và qua nhiều thế hệ tiếp nối, các học giả, văn nghệ sĩ, triết gia
Phật giáo đã đóng góp phần mình cho Luận Tạng mỗi ngày thêm to lớn, khác
nào sa mạc Sahara, tuy khô khan nhưng… đã làm cho con người đời phải
choáng ngợp, kính nể vì cái mênh mông của nó. Những vị đại luận sư như các
ngài: Asvaghosa (Mã Minh),
Vasubandhu (Thế Thân),
Nãgãrjuna (Long Thọ),
Asanga (Vô Trước)… là những bậc
thánh thời danh, vì chính tên tuổi, tác phẩm của các ngài đã được các
triết gia Tây phương đặc biệt lưu tâm nghiên cứu.
Phần
tinh ba của đạo pháp đều chứa đựng trong Ba Ðại Tạng Kinh, một nền văn hóa
Nhân Bản Giác Ngộ Giải Thoát đã
hướng dẫn cho một phần ba nhân loại sống an lành, và biết thương yêu nhau
hơn.
MƯỜI HAI BỘ KINH
Trong
Ba Tạng Kinh Ðiển của đạo Phật theo thể tài chia làm mười hai bộ. Người
Trung Hoa thường gọi Thập Nhị Phần Giáo.
-
Tu Ða La
(Sustram: Kinh). “Khế Kinh”:
Ðức Phật thuyết pháp dùng lối văn trường thiên cho dễ hiểu mà gọn, ta
thường gọi là tản văn hay văn xuôi, không có sự cầu kỳ hoa mỹ như những
lối văn từ phú… nhưng rất hợp thời, hợp lý, hợp cơ.
-
Kỳ Dạ
(Geyam: Ứng Tụng, cũng gọi là
Mỹ Âm Kinh): tổng luận, chú thích những ý nghĩa của văn trường hàng (văn
chỉnh cú). Lối văn thuộc văn từ phú, văn biền ngẫu, có tính cách văn
chương, vì đức Phật muốn cho Chính Pháp được truyền bá sâu rộng thì phải
dùng mọi thể văn, giúp cho đệ tử dễ ghi nhớ.
-
Hòa Già La Na
(Vyàkàranam: Thụ ký): Những lời
truyền dạy do đức Phật thụ ký, chứng nhận cho các vị Bồ tát, các bậc
Thanh văn, đệ tử mai sau thành Phật; và thuyết lý những việc sẽ xảy ra…
-
Già Ðà
(Gàthàm: Cũng gọi là Ký Chú
Kinh hay Phúng Tụng): Nghĩa là không thuật lại văn trường hàng, mà chỉ
là từng bài kệ, tức là lối văn thi ca để nói riêng cho mỗi bộ kinh.
-
Ưu Ðà La
(Udànam: Tán Thán Kinh, cũng
gọi là Tự Thuyết): Những kinh do đức Phật dùng trí tuệ xem xét căn cơ
chúng sinh rồi tự nói ra các Pháp, không phải đợi có người thưa thỉnh,
yêu cầu mới nói.
-
Ni Ðà Na
(Nidàna: Quảng Thuyết Kinh cũng
gọi là Nhân Duyên): Những kinh văn nói về nhân duyên khi đức Phật thuyết
pháp và người nghe pháp, hoặc nói rõ những nơi có nhân duyên mà Ngài đến
hóa độ. Những kinh văn do đức Phật dạy về “lý căn hội duyên”, khởi điểm
của vũ trụ vạn hữu, thuyết lý Nhân Duyên Sinh.
-
A Ba Ðà Nà
(Avadanam: Diễn Thuyết Giải Ngộ
Kinh, cũng gọi là Thí Dụ): Những pháp của Phật nói rất mầu nhiệm, người
căn cơ thấp kém khó có thể lĩnh hội, nên đức Phật cần phải lấy sự vật
hiện hữu làm tỉ dụ, chứng minh cho đạo lý cao siêu để chúng sinh dễ
hiểu. Những lời ví dụ tượng trưng bát ngát trong các kinh điển đạo Phật.
-
Y Ðế Mục Ða Gia
(Itivrttakam: Như Thị Pháp Hiện
Kinh cũng gọi là Bản Sự): Những thuyết giáo của đức Phật nói về sự tu
nhân chứng quả của các vị Bồ tát, đệ tử trong các đời quá khứ, vị lai.
-
Xà Ðà Gia
(Jatakam: Ðản Sinh Kinh hay gọi
là Bản Sinh): Lời đức Phật nhắc lại những công hạnh tu chứng ở đời quá
khứ của các đức Phật, Bồ tát.
-
Tỳ Phật Lược
(Vaipulyam: Quảng Ðại Kinh,
cũng gọi là Phương Quảng): Những Kinh, cũng gọi là Phương Quảng): Những
kinh điển thuộc Ðại Thừa Phương Quảng, với nghĩa lý rộng lớn cao thượng
và thâm thúy.
-
A Phù Ðà Ðạt Ma
(Addhutadharmah: Hy Pháp, cũng
gọi là Vị Tằng Hữu): Những kinh điển nói về thần lực của chư Phật thị
hiện, cùng những việc bất khả tư nghị trong những nơi nói pháp và những
cảnh giới kỳ diệu, hy hữu mà trí người phàm không thể hiểu.
-
Ưu Ba Ðề Xá
(Upad’sah: Cận Sự Thỉnh Vấn
Kinh cũng gọi là Luận Nghị): Những lời văn có tính cách vấn đáp và biện
luận cho rõ các lẽ tà, chính, nghĩa là, giữa đức Phật và các đệ tử đàm
luận đạo lý bằng cách tranh luận, giải thích từng giảng mục.
Tuy
chia ra 12 phần giáo, 3 loại trên là thể tài chính của các Kinh; còn 9
loại sau chẳng qua theo các điều kiện chép ở trong Kinh, lập ra.
Trong
12 phần giáo nói trên không phải Kinh nào cũng có đủ cả, có Kinh chỉ có 5,
6 phần, ấy là tùy theo cơ duyên mà đức Phật nói pháp có sai khác. Nhưng
trong tất cả Kinh, không nhiều thì ít, đều có ghi chép mọi kinh nghiệm về
giáo lý cũng như công hạnh tu chứng của các đức Phật và đệ tử…
ÐẠI THỪA, TIỂU THỪA.
Ðạo
Phật bao giờ cũng chủ trương chỉ có pháp Nhất Thừa.
Trong kinh Pháp Hoa (Saddhama –
pudarikam) ghi:
“Khắp mười phương các đức Phật,
chỉ có pháp Nhất Thừa (Ekayànam), không hai, cũng không ba; trừ khi đức
Phật phương tiện nói: “Thập phương Phật độ trung, duy hữu nhất Phật thừa,
vô nhị diệt vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết.”
Ðức
Phật ra đời thuyết pháp ý chính là dạy cho chúng sinh Pháp
NHẤT THỪA. Nhưng vì căn cơ của chúng
sinh có cao, thấp bởi tư tưởng không đồng: nên giáo lý của Phật cũng theo
đó chia ra Ðại Thừa, Tiểu Thừa.
Kinh
Lăng Già (Lankàvatàra sutra) chép:
“Ðại Thừa và Tiểu Thừa đều tùy tâm
lượng chúng sinh mà đặt tên vậy”.
Chữ Thừa (Thặng): nghĩa là cổ
xe để chuyên chở người ta từ nơi này qua nơi khác. Giáo lý Phật Ðà có đủ
công năng, phương pháp dắt đường chỉ lối và chuyên chở chúng sinh từ bến
mê mờ lầm lạc tiến lên bờ giác, không còn bị đắm chìm trong biển luân hồi
sinh tử. Và, vì sự tu chứng có khác nhau, nên đức Phật đã phương tiện đặt
ra năm thừa để hóa độ chúng sinh. Những gì gọi là Năm Thừa?
-
Nhân Thừa
-
Thiên Thừa
-
Thanh Văn Thừa
-
Duyên Giác Thừa
-
Bồ Tát Thừa.
Như
trên đã nói, đấy chẳng qua vì căn tính chúng sinh không đồng, nên đức Phật
mới phương tiện nói Pháp năm thừa để tùy cơ hóa độ chứ thực ra duy chỉ có
NHẤT PHẬT THỪA .
Nói về
Tiểu Thừa (Hirayana) là những hàng đệ tử tu theo lối “tự lợi”, mong cầu sự
giải thoát trong phạm vi các nhân, ví như cỗ xe nhỏ, sức vận tải được ít…
và như vậy, chưa thể phá trừ được “pháp chấp”
(chấp vạn vật là thực tại tuy có sai khác nhưng “pháp thể thường có”) nên
chỉ mới trừ được “ngã chấp” (cái
chấp có “ta”), bởi giới luật và cách tu của Tiểu Thừa giáo hãy còn nệ vào
hình thức (phạm vi tu trì) nên sự tu chứng cũng rất hạn hẹp, cùng tột là
chứng thành quả A La Hán; trái lại, những người tu theo pháp môn Ðại Thừa
(mahanaya) thì lại căn cứ vào sự hiểu, làm,
và thể chứng. Tuy cũng căn cứ vào giới luật tu trì, nhưng đó
chỉ là phương tiện nhằm đạt đạo quả: tối cao Phật Ðà. Khi đã giác ngộ,
không còn câu nệ ở hình thức nữa, mà chỉ trực giác sự vật bằng những điều
mình đã chứng ngộ sự thật, đồng thời giác ngộ mọi người, họ có tâm lượng
rộng lớn bao trùm cả thái hư, nên thường lấy việc “lợi tha” làm nhiệm vụ
chính (như đức Phật THÍCH CA tu khổ hạnh
để tìm chân lý, thấy chân lý, Phật không cần tu nữa mà chỉ cần trực tiếp
giáo hóa chúng sinh), bởi họ không còn “chấp
ngã”, “chấp pháp”.
Quyền Ðại Thừa giáo (chưa hoàn toàn
là Ðại Thừa) thì nói rằng “Vạn vật sinh ra
đều bởi Tâm,
vạn tượng trong vũ trụ đều do Tâm phát hiện”. Nên lối kiến giải
là “Ngoài Tâm không Pháp, ngoài Pháp không Tâm”.
Giáo
pháp Ðại Thừa chủ trương thuyết “không phải
có, không phải không” không phải hai (Advaya) tức là không Nhất
Nguyên, không Nhị Nguyên như triết học thuần lý chủ trương, cũng không như
cái “có” của Tiểu Thừa quan niệm,
lại không như cái “không” của
Quyền Giáo Ðại Thừa. Ðó mới thực đúng với chân lý của các pháp, vì đã vượt
ra ngoài những gì khuôn khổ nhất, cũng ví như cỗ xe lớn, sức chuyên chở
được rất nhiều… Luật phái này rộng rãi hơn, không câu nệ, cố chấp, hẹp
hòi…
Như
trên, cho ta thấy, một bên trọng hình thức, một bên trọng tinh thần, thế
tất nhiên tư tưởng không đồng, vì một cớ rất dễ hiểu là: các bậc Trưởng
Lão và Ðại Chúng Bộ, do sự bất đồng về 10 điều luật, đã mở màn cho cuộc
phân chia thành hai phái: Ðại Thừa - Tiểu Thừa. Cuộc phân chia này xảy ra
ngay giữa thời kỳ Ðại Hội Kết Tập Kinh Tạng kỳ II…
Nói về
giáo nghĩa, Ðại Thừa và Tiểu Thừa
đều có Kinh, Luật, Luận.
Những
kinh điển của Ðại Thừa cũng gọi là Bồ Tát Tạng (Bodhisattavapitakam). Kinh
như: HOA NGHIÊM, BÁT NHÃ, PHÁP HOA
v.v… Luật có PHẠM VÕNG, ÐẠI THỪA GIỚI KINH…
Luận với những bộ A TỲ ÐẠT MA, KHỞI TÍN, ÐẠI
TRÍ ÐỘ, THÀNH DUY THỨC và NHÂN MINH…
- Những kinh điển về Tiểu Thừa gọi là Thanh Văn Tạng
(Sràvakapitakam). Kinh như: TRƯỜNG A HÀM,
TĂNG NHẤT A HÀM… Luật: TỨ PHẦN,
THẬP TỤNG… Luận có: CÂU XÁ
và THÀNH THẬT…
Sở dĩ
có sự phân chia Ðại Thừa, Tiểu Thừa là do tâm lượng chúng sinh có sai
khác, nên giáo lý của Phật cũng tùy duyên
chia ra có rộng hẹp, cao thấp… nên sự tu chứng cũng do đấy mà có sự khác
biệt. Tuy nhiên, chân lý thì đồng nhất bất biến. Tiểu Thừa cùng cực chỉ
đạt đến quả vị A La Hán. Còn Ðại Thừa
thì tu lên mãi cho đến bao giờ chứng ngộ quả vị tối cao:
PHẬT ÐÀ.
Trong
kinh điển đạo Phật có chỗ gọi Nhị Thừa giáo tức chỉ cho
Thanh Văn và
Duyên Giác. Song Thanh Văn lại chia
làm 4 quả vị:
-
Tư Ðà Hoàn (Srotàpanma)
-
Tu Ðà Hàm (Sakrdàgami)
-
A Na Hàm (Arigami)
-
A La Hán (Arahat)
Duyên
Giác duy chỉ có một quả vị: Thanh Văn
hay là Tích Chi Phật.
- Những người thực hành “Tam
Qui”,
Ngũ Giới,
gọi là Nhân Thừa.
- Những người tu theo pháp “Thập
Thiện”,
gọi là Thiên Thừa.
- Những người trực tiếp hay gián tiếp nghe Phật thuyết
pháp, hoặc học theo giáo lý “Tứ Diệu Ðế”
mà tu hành chứng ngộ, gọi là Thanh Văn
(Sràvaka).
- Những người tự mình có đủ trí tuệ hoặc nương nơi giáo
pháp xét biết tự thân tâm mình cho đến sự vật trong vũ trụ không cái gì
không do nhân duyên sinh, theo phép quán “Thập
Nhị Nhân Duyên”
tu hành chứng ngộ, gọi là Duyên Giác
(Pratyckabuddhi).
- Những người thực hành hạnh Bồ Tát (Boddhisattva) cũng
phải nương vào Tứ Diệu Ðế làm
quan điểm chính, đồng thời tu các pháp môn “Lục
Ðộ
Vạn Hạnh”
để chứng quả vị tối cao: Phật Ðà
(Buddha).
(Nhân,
Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, gọi chung là năm thừa).
Ðức
Phật nói pháp năm thừa chẳng qua tùy theo tâm trí chúng sinh có cao thấp
khác nhau, kỳ thực đều qui về một Phật Thừa cả.
Như
vậy, dù có chia giáo này giáo khác nhưng vẫn qui về một giáo duy nhất,
cũng như nước trăm sông đều chảy về biển cả -
Nhất Vị Thanh Tịnh.
ÁNH SÁNG CHÍNH PHÁP TRUYỀN ÐI CÁC
NGẢ…,
Ngược
dòng lịch sử, ta nhận thấy sau mấy kỳ Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển, đạo Phật
đã chia ra hai phái: Ðại Thừa Phật Giáo và
Tiểu Thừa Phật Giáo.
Ðạo
Phật truyền ra ngoại quốc do hai ngả Nam phương và Bắc phương.
Nam phương
truyền Phật giáo Tiểu Thừa:
-
Những người truyền bá Phật giáo thuộc nam Ấn Ðộ là nơi Tiểu Thừa Phật
Giáo.
- Các
dân tộc chịa ảnh hưởng Tiểu Thừa như Sri Lanka, Myanmar, Kampuchia, Lào
quốc v.v…
Bắc phương Phật giáo truyền bá
Ðại Thừa:
-
Những người truyền giáo thuộc bắc Ấn Ðộ, nơi phát xuất Ðại Thừa Phật
Giáo.
- Các
dân tộc sớm được thấm nhuần Ðại Thừa Phật Giáo như Trung Hoa, Tây Tạng,
Mông Cổ, Nhật Bản, Việt Nam v.v…
Dù sao,
với điều này ta cũng không thể chối cãi: “Phật
giáo là một tôn giáo
đứng trên tất cả quốc gia, dân tộc và ngay cả thế giới hệ. Ðó là điều mà
hết thảy học giả đông, tây đều công nhận. Do đó, sự truyền bá của Phật
giáo bắt đầu từ Á châu rồi tràn qua Âu châu, Mỹ châu, Úc châu, gần khắp
toàn thế giới. Tựu trung, người ta lấy Á châu làm bản đồ của Phật giáo.
Phật giáo đồ Á châu, trong hơn hai nghìn năm truyền bá, từ sinh hoạt cá
nhân, đến tổ chức xã hội đều chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Ngoài ra, Phật
giáo ở Á châu tuy phát triển, nhưng lại có một màu sắc khác. Học giả Âu Mỹ
đối với Phật giáo chỉ có thái độ nghiên cứu học thuyết, sự tín ngưỡng hãy
còn là một vấn đề do dự, so với truyền bá Chính Pháp ở các nước Á Tế Á thì
rất kém…”
Suốt
dọc dài lịch sử, cách nay ba trăm năm, đạo Phật đã thâm nhập sâu rộng hơn
ở các nước tiến bộ Tây phương: hiện nay ở Ðức, Anh, Pháp, Mỹ… đều có Hội
Nghiên Cứu Ðạo Phật, đã thu phục (gần như hầu hết) giới thượng lưu trí
thức mà từ trước, họ thường thờ ơ nhìn đạo Phật với cặp mắt lạnh lùng thì;
ngày nay, lại tìm hiểu một cách say sưa thích thú. Một người Mỹ, Myriam M.
Salanave, trong khi nghiên cứu đạo Phật, đã hết lời xưng tụng: “Ðạo
Phật trãi mấy nghìn năm lịch sử, không lúc nào ngừng phát triển, vì đạo
Phật không những đi song đôi với khoa học, là vì đạo Phật lấy Chân Như làm
căn bản, nên không bị các thể tướng điên đảo phá hủy”.
Gần
đây, nơi phát tích đạo Phật đã vươn lên một cách mạnh mẽ: Năm 1950, gần
500 đại biểu thuộc 26 quốc gia Phật giáo qui tụ về thủ đô Sri Lanka
(Ceylon) để thành lập Hội Liên Hữu Phật giáo
Thế Giới (World Fellowship of Buddhists).
Ðó là một điểm son ghi đậm nét trong trang lịch
sử truyền bá Phật giáo thế giới.
Và dưới
đây là nguyên văn Lời mở đầu bản
Hiến Chương thành lập Hội Phật Giáo Thế Giới:
“Chúng tôi, đại biểu của
nhiều nước và của một số đông tổ chức rải rác khắp hoàn cầu, quyết định
trong tinh thần thống nhất và kết hợp lực lượng, thành lập HỘI PHẬT GIÁO
THẾ GIỚI, với chí nguyện là: hết sức tuân hành Phật Pháp để trở nên những
tấm gương huy hoàng của lòng tín ngưỡng linh hoạt, sẽ làm những gì chúng
tôi có thể làm để tuyên dương, giáo lý vô thượng của đức PHẬT THÍCH CA MÂU
NI, tức là đạo TỪ BI HỶ XẢ có năng lực giải thoát toàn thế giới,
bằng cách cảm hóa và hướng dẫn tất cả dân tộc và chính phủ của họ về nẻo
sống đạo đức của người Phật tử, là con đường duy nhất của bất cứ thời đại
nào, hầu tạo dựng cho nhân loại một cảnh thái bình, một nguồn hạnh phúc vô
biên. Vì vậy hôm nay, ngày 8 tháng Asadha, Phật lịch năm 2494, nhằm ngày 6
tháng 6 dương lịch, năm 1950, chúng tôi lập quyết nghị, tự thảo và tự ban
hành bản HIẾN CHƯƠNG này”.
Sau đó
vài tháng, Hội đã liên tục phát hành khắp các quốc gia Phật giáo trên thế
giới hai tờ báo: News letter và
The Buddhist World, nội dung với
những tin tức và giáo lý phổ thông.
- Năm 1952, ở Nhât Bản cũng triệu tập một đại hội nghị
kỳ II để thảo luận về những điều quan trọng: Phát triển đạo Phật ở các
nước hội viên và toàn thế giới, theo một thể thức chung, do đại hội ấn
định.
- Năm 1954, một đại hội thứ
III của Phật giáo thế giới được long trọng khai mạc cùng lúc với Ðại Hội
Kết Tập Tam Tạng kỳ VI ở kinh thành hoa lệ Myanmar.
- Năm 1956, tại Kathmandu, thủ đô nước Népal, cũng mở
Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới lần thứ IV, với mục đích thảo luận các vấn đề
triết lý, văn chương, nghệ thuật và khoa học…
- Năm 1958, Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới kỳ V diễn ra tại
Bangkok, thủ đô nước Thailand. Mục đích của đại hội là khai triển Phật
giáo tại các quốc gia trên thế giới. (Kỳ đại hội này không có đại biểu Ðạo
Phật Việt Nam tham dự).
- Năm 1961, Hội Phật Giáo
Thế Giới lại họp đại hội lần thứ VI tại Kampuchia, gồm 180 đại biểu của 33
quốc gia Phật giáo trên thế giới tham dự, dưới sự điều khiển của U Chan
Thoon, trưởng phái đoàn Phật Giáo Myanmar. Hội nghị cũng đã biểu quyết
nhiều vần đề quan trọng: (1) Xây dựng Học việc Phật giáo liên Á Châu. (2)
Khuyến cáo các việc thành lập một phong trào Thanh niên Phật tử ở khắp thế
giới. (3) Phúc quyết về ngày Phật Ðản mà Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới tại
Nhật Bản, năm 1952, đã ấn định (hằng năm) lấy ngày Phật Niết bàn, nhằm
ngày trăng tròn tháng 5 dương lịch là ngày cử hành Phật Ðản trên toàn thế
giới. (4) Gửi thông điệp cho Liên Hợp Quốc phản đối việc thí nghiệm nguyên
tử, và yêu cầu các cường quốc trên thế giới hoàn thành đình chỉ mọi cuộc
thí nghiệm nguyên tử.
Ðặc biệt,
Hội nghị kỳ này, ngoài các nước Á châu còn có các quốc gia xa xôi như
Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Hòa Lan, Sweden và nhiều quốc gia Tây
phương tham dự.
- Năm 1964, Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới kỳ VII họp tại
Sarnath (Ấn Ðộ) với sự tham gia của trên 120 đại biểu thuộc 26 quốc gia.
Ðại Hội tổ chức tại Sarnath, nơi xưa kia đức Phật đã thuyết pháp.
Các
quốc gia có đại biểu tham dự đại hội là: Úc, Myanmar, Tích Lan, Ðài Loan,
Tiệp Khắc, Anh, Ðức, Pháp, Hương Cảng, Ấn Ðộ, Nhật Bản, Ðại Hàn, Ðại Mã
Lai, Mông Cổ, Népal, Hồi Quốc, Phi Luật Tân, Thụy Ðiển, Thái Lan, Hoa Kỳ,
Nga, Bỉ, Gia Nã Ðại, Phần Lan, Hòa Lan, Trung Hoa Quốc Gia, Việt Nam. Tham
dự đại hội còn có sự hiện diện của đức Ðạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng), tổng
thống Ấn Ðộ, triết gia Radakrishnan,
đã đọc diễn văn khai mạc đại hội.
Sau đó, đại hội đã thảo luận và biểu quyết những phần chính được tóm lược
như sau:
-
… Việc đối xử với Phật giáo ở Tây Tạng, Việt Nam và
các nước khác.
-
Sinh hoạt phát triển văn hóa đạo Phật.
-
Hợp tác chặt chẽ giữa hai tông phái Tiểu Thừa và
Ðại Thừa.
Ngoài
ra, được biết nhân dịp đại hội này, hàng vạn du khách từ nhiều nước đã đến
Sarnath chiêm lễ thánh tích nơi đây.
“Phật
giáo tồn tại và phát triển xuyên suốt chiều dài hơn 2500, vượt qua những
thành trì thiên kiến, đã sống trong lòng mọi quốc gia, chủng tộc. Và ngày
nay, nơi đây, mặc dầu đã chậm chân hơn 1000 năm, trải bao thử thách của
tiến bộ tri thức, Phật giáo đã tự khẳng định
mình, vươn lên là một tôn giáo của vũ trụ một cách vẻ vang… Thật sự là một
môn triết học, tâm lý học mang hình thức tôn giáo, đạo Phật chỉ ra những
định luật khách quan mà không cần mang tội lỗi ra dọa ai… với
đường lối hỷ xả, ngoài giáo luật và bất bạo động, với những phương pháp
“hàng phục kỳ tâm” rất tỷ mỷ, Phật giáo đã làm hơn những lời hô hào khuyến
thiện suông, về cả phương diện thế gian và xuất thế gian, nghĩa là đời
sống nội tâm và cách ứng xử giữa con người (Ethik und Sammlung) đều được
phân tích chỉ dẫn tường tận. Trong một thế giới càng ngày càng chật hẹp,
điều đó thật sự là một bảo bối của thời đại mới mà Ðạo Pháp (Dharma) tặng
cho chúng ta vậy.
Tin tưởng sự bành trướng của đạo
Phật, chắc chắn trong tương lai sẽ còn có những đại hội tương tự được diễn
ra tại các quốc gia khác nữa.
Chúng ta hãy hy vọng và chờ đợi.
---o0o---
| Mục
Lục |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Vi tính : Phước Ngọc - Hiếu
Ngọc - Diệu Mỹ
Cập nhật :
01-02-2003