Phiên âm:
Bất
khả hủy, bất khả tán
Thể
nhược hư không vô nhai ngạn
Bất
ly đường xứ thường trạm nhiên
Mịch
tức tri quân bất năng kiến
Dịch nghĩa:
Tâm
TĨNH ĐỊNH, có an lành ngay tại chỗ
Chê
hay khen, không giận cũng không mừng
Rỗng
như hư không lồng lộng sáng trong
Tìm
rồi tự hiểu, không chỉ cho ai thấy được
TRỰC CHỈ
Người thực học, thực
tu và chứng đạo thực. Họ có sự an lành giải thoát thực
mà người thường khó biết. Kinh điển Phật gọi đó là:
"Bất tư nghì giải thoát pháp môn". Họ giải thoát và
an lành ngay trong lúc nói, nín, động, tĩnh, ngay khi đi, đứng,
ngồi, nằm. Kinh điển Phật gọi qua cái từ: "Bất ly ư
đương xứ".
Trạng thái an lành, giải
thoát đó, là sự biểu hiện của một con người, một
THIỀN GIẢ, một tâm hồn đạt đến trình độ NHƯ NHƯ BẤT
ĐỘNG, trước ngoại cảnh khen, chê, lợi, suy, hủy, dự…
Yếu tố khiến cho hành
giả đạt đến cảnh giới như như bất động ở nội tâm,
là phải tư duy, quán chiếu, thấy cho được TÂM THỂ. Tâm
thể vốn rỗng rang, thanh tịnh, trong sáng như hư không. Hư không
không phải là sự sự vật vật, nhưng hư không không chống
cự sự phát huy sinh trưởng của sự vật. Sự vật dù sinh
trưởng phát huy trong hư không nhưng hư không vĩnh viễn là hư
không thanh tịnh.
Dữ kiện và yếu tố tư
duy quán chiếu đó, khiến cho hành giả có được sự tự
tại an nhiên.
"Bất
khả hủy, bất khả tán"
Hành
giả có được cái an vui "bất ly đương xứ"
---o0o---
Thi
ca 33 | Mục
lục |
Thi
ca 35 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Vi tính : Hoa Giác - Quảng Thức
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật :
11-05-2002