Asoka: Cuộc đời và sự
nghiệp
của vua A-dục
Tuyển tập
---o0o---
02
Đại đế Asoka và sự nghiệp hoằng dương Phật pháp
Thích Quảng Đại biên soạn
Cuộc đời của Đại đế Asoka chiếm một vị trí vô cùng
quan trọng trong công cuộc hoằng dương Phật pháp, thế nhưng tiểu sử, sự
nghiệp cũng như hoàn cảnh xuất thế của ông từ xưa chưa được xác minh và
công bố rộng rãi. Người viết bài này xin thu thập một số tư liệu để giới
thiệu đôi nét về vị Hoàng đế lỗi lạc này, hầu giúp độc giả có được một cái
nhìn xác đáng hơn về vai trò, vị trí của Asoka trong lịch sử phát triển
Phật giáo.
I. Tiểu sử của Đại đế Asoka
trước và sau khi
tức vị:
Trước đây, khi các nhà khảo cổ chưa khai quật được những thánh tích và bia
ký thì các nguồn sử liệu thường viết bị lệch về dòng dõi, năm sinh của Đức
Phật cũng như của Asoka. Vì thế không xác nhận được rõ ràng về con người
và thân thế của Đại đế cũng như sự nghiệp vĩ đại của người. Về sau, cách
đây không lâu thì sự việc được sáng tỏ, bởi đã phát hiện, khai quật được
những Thánh tích, bia ký do tự tay Đại đế Asoka khắc lên trên đá và bị vùi
sâu vào lòng đất. Lấy những bút ký đó đem so sánh vào kinh luận thì có một
số đồng nhưng cũng không tránh được chỗ dị biệt mà ranh giới không quá xa.
Âu đó cũng chỉ là một trong những vấn đề quan trọng mà chúng ta tìm hiểu
sau đây:
1.
Thân thế:
Về
niên đại xuất thế của Đại đế Asoka có nhiều nguồn sử liệu ghi chép khác
nhau, nhưng đại khái là nằm trong khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch.
Căn cứ vào pháp sắc trên bia đá lớn đã ghi rằng: "Các vua của năm vương
quốc Hy Lạp tại vị cùng đồng một số năm là 261 BC hoặc trong khoảng 272 -
258 BC". Do đó quán đảnh lên ngôi trong khoảng 270 BC. Như vậy năm sanh
cách đó không bao xa. Theo các tài liệu như: Tiểu sử Asoka, Asokava -
dàna, Dviyavadanà hoặc Vamsathakàsinì thì cho rằng: Ông nội của Asoka là
Chandragupta (Chiên-đà-la Cấp-đa), vị vua khai sáng vương triều Khổng
Tước. Thân phụ người là Bindusara (Tân-đầu Sa-ra). Thân mẫu là bà
Àsokàvadàna (A-dục Vi-đạt-na).
Triều đại Khổng Tước trị vì được ba đời, nhưng hưng thịnh và nổi bậc nhất
là đến đời Asoka. Nhà vua lúc còn nhỏ tính tình rất cuồng bạo, tướng tá
lại không khôi ngô nên không được vua cha yêu mến. Vả lại ngài là con thứ,
là 1 trong 101 người con, thì làm sao được chiều chuộng như những hoàng tử
khác? Thế nhưng Asoka có tài xuất chúng, thông minh và mưu mô hơn những
hoàng tử kia.
2.
Hoàn cảnh đất nước trước khi tức vị:
Vào đời ông nội của Asoka là Chandragupta đã nhiều lần đem quân dẹp những
trận quấy nhiễu của Đại đế Alexander I và II ở nước Hy Lạp nằm về phía Tây
Ấn. Đến đời thân phụ của người là Bindusara khéo léo trị vì, hòa hiệp thỏa
thuận với vương quốc Hy Lạp, tạo thành nền văn minh phồn thịnh cho Ấn Độ
đương thời. Thế nhưng, ở giữa vùng Bắc và Trung Ấn thường có những trận
nhiễu loạn, vua Bindusara phải tuyển chọn những người thông minh tài giỏi
trong hàng vương tử phong làm Thái thú để đi nhiếp loạn. Đồng thời, vùng
Tây Ấn là một nơi có địa thế rất hiểm trở và quan trọng. Ở đấy có thành
Ujjayant (Ô-xà-diễn-ni), các nước phương Tây hay dòm ngó đến, bởi nơi đây
có một nền kinh tế tập trung, rất phong phú. Để chọn người ra đó coi sóc,
Asoka được bổ nhiệm làm Thái thú ở Bắc Ấn và các vương tử đã phân bố bộ hạ
cai trị thành Ujjayant. Việc đi dẹp loạn của Asoka do Bindusara sai đi
nhằm mục đích là muốn để cho Asoka bị chết trong chiến trận. Thế nhưng
Asoka đã bình định được quân phản loạn, quyền uy và tiếng tăm vang lừng.
Sau đó vài năm, Asoka được tin cấp báo là phụ vương bị bệnh nặng nên lập
tức trở về Hoa Thị thành. Sau khi vua cha băng hà, người kế vị là con trai
trưởng Susima vào năm 272 BC. Susima vì vụng về nhiếp chính nên khiến cho
dân chúng nhiễu loạn ở Takkasìla, ở trong triều lại tranh nhau ngôi vị và
kéo dài suốt bốn năm trường. Cuối cùng Asoka được thắng lợi. Đồng thời
được sự giúp đỡ của Tể tướng Ràdhagypta cùng các nhân vật cao cấp trong
triều đình, tất cả đã đồng tình suy cử Asoka lên ngôi. Lúc ấy vào năm 268
BC, sau Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn 218 năm.
Lại có chỗ cho rằng Asoka trước khi lên ngôi đã giết tất cả 99 người anh
em, và tính tình rất cuồng bạo. Khi lên ngôi xong, vẫn còn giết những vị
đại thần và phụ nữ, xây dựng lao ngục, tàn hại nhân dân vô tội. Vì thế ông
bị nhân dân mỉa mai đặt tên là Candasoka (A-dục bạo ác). Nhưng "Theo
chương 4-5-6 của pháp sắc khắc trên vách đá lớn, chương 7 trong pháp sắc
khắc trên trụ đá và trong pháp sắc của Hoàng hậu đều chép rằng: Thời gian
vua Asoka trị vì còn có anh em, chị em. Cho nên những truyền thuyết trên
có thể do đời sau nói quá". (Dẫn theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang, quyển I,
tr. 23).
3.
Asoka sau khi lên ngôi và gặp Phật pháp:
a/. Sau khi lên ngôi: Asoka
lên ngôi trong vòng 9 năm, vì mục đích thống nhất toàn cõi Ấn Độ nên đem
quân chinh phạt các nước lân cận như Kalinga thuộc nam Ấn Độ (nước này là
một cường quốc, rất mạnh về kinh tế và quân sự) và các nước khác như
Peshàwar, Pùri, Ganja, Thàna, Bhopal, Hyderabàd, Mysore, Bihàr,
Afghanistan, Népal … Asoka đã chinh phục toàn bộ cõi Ấn. Nhưng sau khi
chiến tranh kết thúc, với sự đẫm máu này, Đại đế thấy ghê tởm chiến tranh.
Nhà vua thấy cảnh chiến tranh như thế lấy làm buồn thảm và hối hận về thảm
họa đó. Biết bao nhiêu người dân vô tội bị giết hại, cô nhi quả phụ phải
bị tai ương. Vì thế Asoka quyết định bỏ vũ lực, không động đến binh đao
nữa.
Cuộc chiến tranh kết thúc. Asoka đã thống nhất thiên hạ cõi Ấn và một nửa
nước Đại Hạ, phía Nam Án-đạt-la, phía Đông đến bờ bi?n, dọc ngang mỗi
chiều vài ngàn dặm, và lấy Hoa Thị thành làm thủ đô.
Bởi do hối hận cuộc chiến tranh đẫm máu, Asoka muốn được sám hối và ăn năn
những tội lỗi đã gây ra. Vì thế nhà vua quyết định trở về quy y Phật đạo
và trở thành một Phật tử. Do tâm thành sám hối những tội lỗi đã gây ra
cũng như sự học hỏi Phật pháp được mở rộng, lòng tin Tam bảo ngày càng
tăng trưởng, nên nhà vua rất nhiệt tình ủng hộ Phật pháp. Vào năm thứ 12
(sau khi tức vị) và trở về sau, Asoka ban bố nhiều sắc lệnh chấn hưng Phật
giáo. Vua đã tự mình giữ gìn trai giới, bỏ sự săn bắn và ăn chơi xa xỉ, mà
còn hạ lệnh cấm sát sanh, bảo hộ các sinh vật, tiết kiệm không phung phí,
bỏ bớt xa hoa, thỉnh Tăng cúng dường, thuyết pháp và tu tập. Nhà vua tại
vị được 41 năm, thọ 70 tuổi. Những sự nghiệp của Asoka đối với quốc gia Ấn
Độ rất to lớn, nhưng đối với đạo Phật càng to lớn hơn, điều này được trình
bày rõ về sau.
b/. Về năm tháng Asoka quy y Phật:
Có nhiều thuyết nói khác nhau. Nhưng căn cứ vào chương 8 của pháp sắc được
khắc trên đá lớn có ghi: "Quán đảnh lên ngôi hơn 10 năm thì đến với Tam
Bồ-đề", nên biết vua trở thành Ưu-bà-tắc vào khoảng năm thứ 7 sau khi lên
ngôi. Vì trong vòng ba năm đầu tuy đã quy y Tam bảo nhưng vua chưa dốc
lòng tin Phật, sau đó mới thân cận chư tăng và trở thành người Phật tử
nhiệt thành.
Từ
khi trở về quy y Tam bảo, nhà vua đem tất cả khả năng của mình để phụng sự
xã hội hầu chuộc lại tội lỗi ngày xưa. Vì thế Asoka đã thi hành chính sách
cai trị thích hợp với quần chúng, bằng cách lồng giáo lý Đức Phật vào quốc
chính, dốc hết tâm lực vào việc giáo dục xã hội, ban bố những điều lệ,
những sắc lệnh rất phù hợp với nhân dân, giảm bớt những khắt khe cho nhân
dân, lấy lòng dân làm lòng mình, dụng tinh thần bác ái ưa chuộng chân lý
để đem lại sự bình an hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời tôn trọng tự do
tín ngưỡng, khéo léo hòa giải những sự xung đột của các giáo phái tôn giáo
khác nhau, cấm những nghi lễ giả dối, cung cấp vật dụng cho dân nghèo.
Asoka quả là một ông vua nhân từ, ít có trong lịch sử Ấn Độ. Ông là một vị
vua có công rất lớn đối với nền hòa bình Ấn Độ thời bấy giờ.
II. Sự nghiệp Asoka đối với
Phật giáo:
Ngoài những công cuộc cai trị đất nước, nhà vua còn tự mình xin thọ giới
Ưu-bà-tắc, nghe pháp, lễ Phật, tu tập. Đặc biệt là đối với nền tảng chấn
hưng Phật giáo, vua có những sự nghiệp lớn lao như sau:
1.
Ban bố những sắc lệnh quan trọng:
Trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo, từ năm thứ 12 cho đến năm thứ 39, gần
28 năm nhà vua thường ban bố những sắc lệnh rất quan trọng để chấn hưng
Phật giáo. Những sắc lệnh được khắc trên các bia đá, hang núi và các trụ
đá rải rác nhiều nơi trên cõi Ấn Độ được phát kiến bởi các nhà khảo cổ gần
đây. Những sắc lệnh này là những mốc lịch sử quý báu cho các Sử gia cũng
như sự tồn tại của Phật giáo ngày hôm nay, đồng thời để biết được Phật
giáo thời bấy giờ ảnh hưởng đến giới vua chúa, thế lực trong xã hội như
thế nào; điển hình là các trụ đá ở vườn Lâm-tỳ-ni (Lumpinivattu) và các
bia ký, vách núi khác.
Những lời lẽ pháp sắc được khắc trên trụ đá, những bản văn khắc trên bia
ký cũng như vách núi phần nhiều ăn khớp với những dữ kiện ghi trong Đại sử
và Đảo sử của Tích Lan. Niên đại của những bản khắc văn này vào khoảng năm
250 BC. Văn tự này là một thứ tiếng địa phương, gần với tiếng Pàli và
Sankrit. Hiện nay phát hiện có năm loại vách đá lớn, bảy loại vách đá nhỏ,
mười trụ đá, bài minh khắc trong hang đá và bảng đá … Theo Từ Điển Phật
Học Huệ Quang, trong mười trụ đá được phát hiện có sáu trụ cao từ 10 - 13m,
kích cỡ không đồng nhau, trên mặt trụ có khắc những pháp sắc của Asoka.
Nội dung nói về việc tôn trọng Phật pháp, khuyên làm việc lành, đoạn trừ
các điều ác, cấm sát sanh và làm những việc phước lợi nhân từ bình đẳng …
Đặc biệt, trên trụ đá có khắc sự tích của Asoka … Còn bốn trụ đá kia chiều
cao khoảng 7, 5m, ghi lên những việc đích thân vua Asoka đảnh
lễ các Phật tích và các pháp sắc khác, như cấm phá hòa hiệp Tăng … Ngoài
những trụ đá còn có rất nhiều pháp sắc được khắc trên vách đá lớn, nhỏ
khác nhau và trải rộng khắp Ấn Độ. Trên những bài minh có ghi tên của
Asoka cũng như "Thiên Ái Thiện Kiến" - niên đại của Asoka. Trong đó đa số
những pháp sắc trên đá nhỏ thì lấy tên Asoka, còn các loại pháp sắc khác
đều lấy tên niên hiệu là Thiên Ái Thiện Kiến.
Nói chung, nội dung được khắc lên đá là những lời đúng với lời dạy của Đức
Phật cũng như lịch sử của Ngài, đồng thời trong đó cũng có khắc lên ý
nghĩa phục vụ mục tiêu chính trị dựa trên nền tảng giáo lý Phật-đà để cai
trị nhân dân. Thực hiện chính sách khoan dung độ lượng với nhân dân trên
tinh thần Phật giáo.
2. Truyền bá đạo Phật:
Asoka năm thứ 13 - 14, nhà vua đã phái các nhà truyền đạo, các bậc chánh
pháp đại quan đi truyền bá giáo pháp khắp toàn cõi Ấn và ra nước ngoài như
Hy Lạp, Ai Cập, Siria, các nước châu Phi và Viễn đông, các địa phương
phương Đông, bờ biển Địa Trung Hải, các nước phương Bắc, Nam. Đặc biệt là
Asoka cho con trai của mình là Mahinda xuất gia và truyền đạo tại Tích
Lan. Có thuyết viết, sau khi kết tập kinh điển lần thứ ba xong, Mahinda
đem cả Tam tạng Thánh điển Pàli qua Tích Lan truyền giáo, và Mahinda là
người dày công xây dựng nền móng cho Thượng tọa bộ Nam phương Phật giáo.
3.
Từ thiện xã hội:
Công việc từ thiện là một công việc được nhà vua rất chú trọng đến. Asoka
đã ban hành những sắc lệnh như: Trồng các loại cây thảo dược để trị bệnh
cho nhân dân, đào giếng nước để cung cấp nguồn nước cho mọi người sinh
hoạt, bố thí các vật dụng cho những người nghèo đói. Đặc biệt, nhà vua đã
ra sắc lệnh tổ chức các "Thí liệu viện" nhằm cung ứng cho việc trị bệnh và
có nơi chốn cho những kẻ già yếu, hoạn nạn, tật nguyền. Ngoài ra còn ban
hành sắc lệnh cho quan và dân mở hội "Thí vô già". Hàng năm thường cúng
dường các bậc Phạm hạnh, đồng thời đem giáo lý Phật-đà dạy dỗ cho dân
chúng, phổ cập trong xã hội bằng những hình thức như thực hành năm giới
tại gia, sống tri túc, hòa giải và an lạc. Điều đáng chú trọng là đích
thân nhà vua trai giới, khuyên mọi người không nên sát sanh, dạy mọi người
biết sống theo nếp sống văn hóa, tôn trọng lẫn nhau, kính trọng những
người già cả, cha mẹ anh em, thương yêu kẻ tàn tật, tôi tớ, và khuyến
khích làm việc thiện.
Qua đó cho chúng ta thấy rằng, con người Asoka là một con người thấm nhuần
chánh pháp, và là một vị vua có tâm Bồ-tát vì lợi ích cho muôn dân, tấm
lòng khoan dung không chút hẹp hòi. Có như vậy mới thật là xứng đáng với
địa vị của một ông vua Phật tử. Công lao gầy dựng nền hòa bình an lạc của
xã hội Ấn Độ thời bấy giờ thật là lớn lao mà lịch sử không thể lãng quên
được.
4.
Asoka chiêm bái Phật tích:
Ngoài những công việc chính trị cũng như Phật sự ra, Asoka còn dành thời
gian để chiêm bái các Thánh địa - Phật tích. Người đã thỉnh các bậc Cao
tăng Thạc đức thuyết pháp nhằm đáp ứng sở hành tu tập cho mọi người. Đặc
biệt Asoka đến chiêm bái Tứ Động Tâm - nơi di tích của bậc Đại giác đã để
lại, đến đâu vua ra lệnh khắc bia đá để làm dấu ấn đến đó. Nhờ những dấu
tích bia ký truyền lại cho đến ngày nay mà Phật giáo nói chung và Phật
giáo Ấn Độ nói riêng có nơi y cứ một cách chính xác và thuận tiện cho việc
lưu truyền, tạo niềm tin vào chánh pháp được rộng rãi và dễ dàng hơn. Tại
Bồ-đề đạo tràng, Asoka cho dựng những trụ đá lớn, trên đầu trụ còn có khắc
chạm hình sư tử. Nghệ thuật điêu khắc trên những đầu trụ đá rất tinh xảo,
cho đến ngày hôm nay giới điêu khắc cũng phải kính phục.
Hơn nữa, Đại đế Asoka còn cho xây dựng nhiều tự viện, bảo tháp để tôn thờ
xá-lợi của Phật. Theo Kinh A-dục Vương quyển 1 nói: "Vua nhờ Tỳ-kheo Hải
mà biết việc Phật huyền ký, bèn đến thành Vương Xá lấy bốn thăng xá-lợi do
vua A-xà-thế chôn. Lại lấy hết xá-lợi chôn ở sáu chỗ khác (sáu chỗ này có
lẽ là nằm quanh vùng thuộc thành Vương Xá hay thuộc các thành khác chưa
được rõ), rồi làm 84.000 cái hộp báu, mỗi hộp bỏ một viên xá-lợi. Lại làm
84.000 chiếc bình báu, 84.000 cái lọng báu, 84.000 xấp lụa và xây 84.000
ngôi tháp để tôn thờ". Việc này chúng ta có thể xác nhận rằng đây là việc
làm có thật; bởi vì Asoka là một vị Hoàng đế đem hết tâm lực để vào việc
hoằng truyền Phật pháp. Công lao của Asoka đóng góp vào nền văn hóa Ấn Độ,
đặc biệt là đối với nền văn hóa Phật giáo là vô cùng lớn lao. Thế nhưng
cho đến ngày hôm nay, những ngôi tháp này trải qua thời gian dài bị mai
một, hầu như không còn nữa. Vả lại, trong giai đoạn Phật giáo đang diễn ra
sự phân chia bộ phái, Asoka đã làm chấm dứt được sự phân hóa trong nội bộ
Phật giáo, đồng thời ông được giới Phật giáo ghi nhớ nh?t là việc kết tập
kinh điển lần thứ ba mà sau đây chúng ta tìm hiểu đến.
5. Kết tập kinh điển lần thứ
ba:
Trong lúc Phật giáo bắt đầu có sự phân hóa để đáp ứng việc phát triển nên
không tránh khỏi những bất đồng trong nội bộ về một số kinh luận. Đại đế
Asoka đã góp công chỉnh đốn lại một phần nào. Tương truyền Asoka đã làm
chấm dứt tình trạng phân hóa của 60.000 tăng sĩ tại chùa Asoka đã kéo dài
7 năm. Trước tiên, nhà vua ra lệnh chư tăng tại chùa làm lễ Bố tát chung.
Asoka đã cử các đại thần trong triều đ?n tại chùa để đốc thúc việc thi
hành vương lệnh. Thế nhưng các vị Thượng tọa trưởng lão ở đây không chịu
hành lễ chung cùng với đại chúng vì cho đó là tà giáo ngoại đạo. Điều này
cho ta thấy, đây là nền tảng phân phái chia rẽ thành Bộ phái về sau.
Sau khi có một số vị Cao tăng bị chết oan, nhà vua đích thân đến chùa để
xem xét việc này. Asoka đã hỏi chư tăng do đâu mà có sự cố này, và tội lỗi
này có phải do nhà vua gây ra không? Trước ý kiến bất đồng của chư tăng
không thể phân định được, Asoka sai sứ triệu thỉnh ngài Moggaliputtatisa
(Mục-liên-đế-tu tôn giả), bấy giờ đang ẩn tu tại núi Ahoganga. Ngài từ
chối, nhưng do sự khẩn thiết thưa thỉnh đến lần thứ ba nên Ngài đã nhận
lời. Ngài hạ sơn, xuôi theo dòng sông Hằng đến thành Hoa Thị. Qua những
nghi vấn của Asoka, ngài Moggaliputta đã trả lời: "Không có tội lỗi nếu
không có ác tâm trong khi hành động". Nhờ đây mà Asoka gột sạch được những
nghi ngờ cũng như hối hận. Nhân đó nhà vua ra lệnh mở đại hội kết tập kinh
điển tại Hoa Thị thành kéo dài suốt 9 tháng.
Đại hội kết tập được sự chủ tọa của ngài Moggaliputta, Asoka ngồi sau một
bức rèm chắn để nghe chư tăng trình bày về các điểm sai khác trong giáo
pháp. Đồng thời nêu lên 62 kiến chấp của ngoại đạo mà Đức Phật đã nêu và
lên án trong Kinh Phạm Võng. Nhà vua nghe xong, phân biệt được đâu là
chánh, đâu là tà, là chơn, là ngụy. Từ đó Asoka ra lệnh trục xuất một số
Tăng sĩ vốn là ngoại đạo đội lốt để phá hoại ra khỏi giáo đoàn, buộc họ
trở về đời sống cư sĩ. Lệnh này được khắc vào văn ở Kiều-thưởng-di vào năm
26 và 27 niên hiệu Asoka trị vì.
Sau khi thanh lọc xong, nhà vua cầu thỉnh ngài Moggaliputta chọn lấy 1000
vị thông hiểu Tam tạng thánh điển để kết tập lại kinh điển. Có lẽ tạng
Luận được ghi đầu tiên là vào dịp này, và cũng có thể do Moggaliputta là
tác giả bộ luận có tên "Sách Luận" hay "Thuyết Sự" nhằm bài xích các tà
thuyết.
Đại hội kết tập kinh điển này lấy tên là "Hoa Thị thành kết tập" và được
ghi chép vào khoảng cách 236 năm sau Phật Niết-bàn, tức là năm 250 trước
Công nguyên, nhằm vào năm thứ 18 niên hiệu Thiên Ái Thiện Kiến. Đại hội
kết tập lại năm bộ Nikàya và một số kinh luận khác.
III. Nhận định:
1.
Asoka, cương vị một người lãnh đạo đối với đất nước:
Ngài Huyền Trang đã nhận xét sau khi tham cứu các sử liệu đáng tin cậy,
Ngài viết: "Chính cảnh đau thương, tàn hại của cuộc chiến Kalinga đã đánh
thức Đại đế Asoka ra khỏi giấc mơ quyền lực, quay về với chánh pháp. Đấy
là giọt nước mắt cuối cùng tràn đầy ly nước tỉnh giác". Đúng thế, sau khi
lên làm vua, Asoka quay về đường chánh, quy y Tam bảo, nên đã áp dụng
triệt để giáo lý Phật-đà vào việc cai trị đất nước. Ông đã lấy lòng nhân
từ làm chính yếu và việc thưởng phạt được phân minh, khuyến khích giúp đỡ
dân chúng, dùng chánh nghĩa để loại bỏ ác nghiệp. Việc đối đãi vua tôi và
thần dân không phân biệt giai cấp hay chủng tộc, tín ngưỡng. Asoka đã gầy
dựng cho xã hội Ấn Độ một nền tảng hòa bình, hạnh phúc, ấm no. Công lao ấy
thật là lớn lao mà lịch sử đã khẳng định.
2. Trách nhiệm của một Phật tử
đối với đạo pháp:
Như trên đã trình bày, sau khi quay về với chánh pháp, quy y Tam bảo, thọ
trì Ưu-bà-tắc giới, tu tập giới định tuệ, nhà vua đồng thời là một Phật tử
rất nhiệt thành, dốc hết tâm lực để hoằng dương chánh pháp, đó là công
việc lớn lao nhất mà Đại đế đã nhận lãnh và hoàn thành trách nhiệm một
cách tốt đẹp (điều này đã được chứng minh qua việc khắc ghi những pháp sắc
trên những trụ đá, hang đá, bia ký … làm mốc lịch sử cho Phật giáo), đồng
thời kết tập kinh điển, truyền bá giáo pháp phổ cập nhân gian. Đặc biệt là
phái người ra nước ngoài để truyền bá Phật pháp, làm cho ngôi nhà Phật
pháp được lan rộng ra cho đến ngày hôm nay mang tính toàn cầu. Sáng kiến
truyền bá Phật pháp này rất quả cảm và trí tuệ.
3.
Những thành tựu của Asoka:
Asoka đã xây dựng một đất nước được thành công trên mọi lãnh vực như chính
trị, xã hội, giáo dục, văn hóa. Ông đã kiến tạo một xã hội yên bình an lạc
và đem lại lợi ích rất thiết thực cho nhân dân như chiến dịch trồng cây,
cung cấp nước sạch, xây dựng và bảo vệ môi sinh, sự sống của hữu tình.
Điều này trên bia ký của Đại đế vẫn còn nghe rất thân thiết đối với thời
đại cũng như nền văn minh hiện tại. Chủ trương tôn trọng tín ngưỡng dân
gian, khoan dung, bất bạo động vẫn mãi mãi là những nét đẹp của văn hóa
loài người.
Thành công xuất sắc nhất là việc truyền bá mạng mạch Phật pháp bằng những
dòng bia ký, kết tập kinh điển … Đại đế đã cho xây dựng Phật tích, dựng
những trụ đá khắc ghi dấu ấn của sự hiện diện ngôi Tam bảo tại thế gian,
làm an lạc hạnh phúc cho cuộc đời. Hình thức tín ngưỡng Phật pháp từ đây
được phát triển. Tam tạng thánh điển còn được giữ lại tại Tích Lan cho đến
ngày hôm nay. Đây là nguồn văn hóa lớn lao của nhân loại đã một thời làm
hưng thịnh tại xứ Ấn, chủ trương giới thiệu chánh pháp, chánh trí, chánh
hạnh và thống nhất các dị biệt giữa 18 bộ phái Phật giáo vì an lạc hạnh
phúc cho đời.
Đại đế Asoka đã từ giã cõi Ấn suốt cả 23 thế kỷ trôi qua mà cuộc đời và sự
nghiệp vẫn còn sáng mãi ở trần gian. Đó là thành quả lớn nhất của Asoka đã
đóng góp cho đời lẫn đạo mà trang sử không bao giờ lãng quên được. Đúng
như lời người xưa đã tán thán:
- "Mỗi bước chân là một bản đạo ca hùng
tráng,
Mỗi bước chân là một trang sử oai hùng,
Mỗi bước chân làm chấn động khắp non sông,
Mỗi bước chân làm lợi ích muôn loài trên hoàn vũ".
Tài liệu tham khảo:
- Từ Điển Phật Học Huệ Quang.
- Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ (HT. Thanh Kiểm).
- Sử Phật giáo Ấn Độ (tài liệu dạy các trường CBPH Đồng Nai - Đại Tòng Lâm
do Giáo thọ Thích Giải Quảng biên soạn).
- Một số tài liệu khác.
--- o0o ---
Mục
Lục ] [
01]
[02]
[03]
[04]
[05]
[06]
--- o0o ---
Source:
http://www.buddhanet.net/
Cập nhật ngày: 01-6-2004
Trình bày: Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục