Theo Phật ngôn trong phẩm Mahàvaggacó giải rằng:
Dve me bhikkhave kathinassa palibodhà.
Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu! Cả 2 điều ấy là
Palibodhà của Kathina.
Palibodhà là điều buộc Kathina không cho xả, có
2:
1) Àvàsa palibodha: sự bận trong chùa (là chỗ
đã thọ Kathina).
2) Cìvara palibodha: sự bận trong y ca-sa (là y ca-sa về quả báo của Kathina).
Giải: Đức Phật có dạy trong phẩm Mahàvagga rằng:
Idha bhikhave bhikkhu vasatitasmim àvàse
vàsàpekkho vàpakkama ti paccessanti evam kho bhikhave àvàsa palibodho hoti.
Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu trong giáo
pháp này, ngụ trong chùa hoặc đi ra khỏi chùa, nhưng còn tiếc rằng: Ta sẽ trở
lại. Này các Tỳ-khưu, như thế gọi là sự bận trong chùa (àvàsa palibodha).
Về phần cìvara palibodha, đức Phật có giảng
trong phẩm Màhàvagga rằng: Idha bhikkhave
bhikkhuno cìvaram akatam và hoti vippankatam và cìvaràsà và anupacchinnà, evam
kho bhikkhave cìvara palibodho hoti.
Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu, y ca-sa của Tỳ-khưu
trong giáo pháp này, chưa làm hoặc làm chưa rồi, hay là sự mong trong [*] y chưa
dứt. Này các Tỳ-khưu! Như thế gọi là cìvara palibodha.
[*] mong rằng chắc sẽ được y trong nơi khác.
Có 2 điều ấy thuộc về Kathina không cho xả, miễn
là còn mắc trong 2 điều ấy, Kathina mới xả.
Hành trình Kathina xả có 2 (vì thế lực của 8
màtikà).
- Ubbhàra
- Antarubbhàra
(Nếu chia ra nữa có đến 9 là 8 màtikà ubbhàra và
1 antarubbhàra).
giải: Atthamàtikà nghĩa là hành trình Kathina xả
theo 8 màtikà là:
1) Hành trình Kathina xả, để cho Tỳ-khưu ra
ngoài vòng sìmà, rồi làm cho Kathina xả 1 lượt trong khi ấy.
2) Hành trình Kathina xả, là sahubbhàra, để cho
Tỳ-khưu ra ngoài vòng sìmà, xong trở lại kịp Kathina xả trong giữa thời gian hạn
kỳ, trong chùa thọ kathina, rồi được vào làm phép xả chung với các Tỳ Khưu .
Tám Hành trình Kathina xả ấy gọi là atthamatikà
ubbhàra, vì kể vào trong 8 màtikà.
3) Antarubbhàra nghĩa là hành trình kathina xả
trong giữa thời gian hạn kỳ, là hành trình kathina xả do tụng tuyên ngôn 2 bận
(dutiyakammavàcà) để xả kathina, không kể vào trong 8 màtikà gọi là amtarubhàra,
vì là hành trình kathina xả để cho các Tỳ Khưu không đi ra ngoài vòng sìmà chỉ
ngồi trong chùa hội họp nhau làm, trong giữa thời gian hạn kỳ (chưa đến thời kỳ
định). Trong phẩm vinayàlankàratikà có giải thêm rằng:
Antarubbhàra, sahubbhàrà,
natthidutiyakammavàcàyena katàpakkamanantikàdayo satta kathinubbhàrà nàgasena
kammavàcà yakatà.
Nghĩa là: Trong antarubbhàra và sahubbhàra Tỳ
Khưu tụng tuyên ngôn 2 bận thì kathina mới xả, còn 7 kathinubbhàra nhất là
pakkamànantikà, Tỳ Khưu không cần tụng tuyên ngôn, nghĩa là nếu có dịp đáng
cho kathina xả, kathina xả tự nhiên không cần phải tụng tuyên ngôn.
Vấn: - Hai hành trình kathina xả là antarubbhàra
và sahubbhàra khác nhau như thế nào?
Ðáp: - Trong phẩm Vinayàlankàratikà có giải
rằng: antarubbhàra để cho các Tỳ Khưu (nhiều vị) không ra ngoài vòng sìmà chỉ
ngồi trong chùa tụ hội nhau làm phép xả.
Còn sahubbhàra để cho một vị Tỳ Khưu đã ra ngoài
vòng sìmà rồi trở lại kịp antarubbhàra ấy vào làm phép xả chung cùng nhau với
các Tỳ Khưu ngụ trong sìmà ấy.
Ðó là điều khác nhau của hai hành trình ấy.
Vấn: - Antarubbhàra tuồng như một hành trình
kathina xả khác ngoài tám màtikà; nếu như thế, màtikà là nguyên nhân cho kathina
xả cho đến 9 chăng?
Ðáp: - Không phải như thế, hành trình kathina xả
có một thôi, song giải ra làm hai gọi là:
1) Sahubbhàra: để cho Tỳ Khưu đã đi ra ngoài
vòng Sìmà rồi trở về.
2) Antarubbhàra: để cho nhiều vị Tỳ Khưu không được ra ngoài vòng Sìmà.
Nên hiểu rằng khi Tăng tụ hội tụng xả kathina
trong giữa thời gian hạn kỳ, nếu có Tỳ Khưu đã ra ngoài vòng sìmà, trở về làm
phép xả chung cùng nhau, một lần cũng được gọi là hai trong một lần, bằng không
có cũng gọi chỉ có một lần thôi.
Cho nên Ðức Phật chỉ chế ra có 8 màtikà như đã
có giải.
Vấn: - Tỳ Khưu Tăng cần phải tụng tuyên ngôn xả
kathina trong thời gian giữa hạn kỳ, vì nguyên nhân chi?
Ðáp: - Tỳ Khưu Tăng cần phải tụng tuyên ngôn xả
kathina trong giữa thời gian hạn kỳ như thế vì có các thí chủ thỏa thích làm đại
lễ, họ cầu tụng xả cho, họ dâng cúng y ngoài trời kathina, đến Tăng ở phương xa
đến hội họp nhiều [*]. Tích này Ðức Phật cho phép Tỳ Khưu ni vì có một người cận
sự nam bạch cầu xin.
[*] có giải trong tạng Luật, phẩm thứ 5, nếu
Tăng không tụng xả kathina, lộc của Tăng phát sanh trong chùa ấy về phần
Tỳ-khưu trong chùa ấy thôi, các Tỳ-khưu khác không được thọ kathina, hoặc ở
phương xa đến không được phép lãnh. tăng tụng xả kathina thì lộc của Tăng phải
chia đến các Tỳ-khưu khác.
Ðức Thế Tôn có dạy tụng xả kathina như vầy: phải
cho Tỳ Khưu thông hiểu trình cho Tăng biết rằng:
Sunàtu me bhante sangho yadi sanghassa
pattakallam sangho kathinam uddhareyya, esànatti.
Sunàtu me bhante sangho kathinam uddharati
yassàyasmato khanatikathinassa uddhà ro so tunhassa yassa nakkhamati so
bhàseyya ubbhatam sanghena kathinam khamati sanghassa tasmà tunhì evametam
dhàràyâmi.
Nghĩa là:
Bạch hóa Ðại Ðức Tăng được rõ, xin Tăng nghe
tôi trình (sự này) nếu đã vừa thời đến Tăng rồi, Tăng nên xả kathina ấy là lời
trình.
Bạch hóa Ðại Ðức Tăng, xin Tăng nghe tôi trình
(nay) Tăng xả kathina. Sự xả kathina vừa đến Ngài nào Ngài ấy phải nín thinh,
không vừa đến Ngài nào Ngài ấy phải nói lên. Kathina Tăng đã xả rồi (sự ấy)
vừa đến Tăng rồi, vì nguyên nhân Tăng làm thinh, tôi ghi nhớ sự ấy do trạng
thái Tăng làm thinh như thế, lẽ thường kathina xả chỉ vì lìa khỏi 5 quả báo,
do dứt cả hai Palibodhà.
Cho nên dứt cả hai Palibodhà phải biết rằng xả
rồi, khi ấy cũng không còn được 5 quả báo nữa. Nếu còn cả hai hoặc một trong hai
Palibodhà, thì kathina chưa xả, Tỳ Khưu ấy còn được hưởng 5 quả báo; nhưng muốn
cho biết Palibodhà nào dứt. Palibodhà nào không dứt, hoặc Palibodhà nào dứt
trước, Palibodhà nào dứt sau hoặc dứt một lượt cùng nhau chỉ giải phân biệt theo
8 màtikà như đã có giải trong phẩm parivàra và phẩm taliyasamantapàsàtikà
atthakatha rằng:
1) Trong màtikà thứ nhất pakkamananantikà,
civara palibodha đứt trước, là đứt từ khi còn ngụ tại chùa, vì y đã làm xong,
không còn bận việc làm nữa. Avàsa palibodha đứt sau, là đứt một lượt với 1
hành trình Tỳ-khưu ra ngoài vòng sìmà, Kathina xả trong thời ấy.
2) Trong màtikà thứ 2, nitthànantikà àvàsa
palibodha đứt trước là đứt trong khi Tỳ-khưu định rằng không trở lại chùa cũ
nữa.
Cìvara palibodha đứt sau, là đứt khi đã làm y
rồi Kathina cũng xả trong thời kỳ ấy.
3) trong màtikà thứ 3 sannitthànantikà, cả 2
Palibodha đứt 1 lượt cùng nhau không trước không sau, là đứt khi Tỳ-khưu quyết
định rằng y cũng không nhờ người làm giùm, chùa cũ cũng không trở về, kathina
cũng xả trong thời kỳ ấy.
4) trong màtikà thứ 4 nàsanantikà, àvàsa
palibodha đứt trước là đứt khi Tỳ-khưu quyết định rằng không trở lại chùa cũ
nữa, cìvara palibodha đứt sau là đứt trong khi y đã hư mất, kathina cũng xả
trong thời kỳ ấy.
5) trong màtikà thứ 5 savanantikà, cìvara
palibodha đứt trứơc, là đứt trong khi đã làm y rồi àsàsapalibodha đứt sau là
đứt 1 lượt vừa khi nghe tin rằng Tăng trong chùa tụng xả Kathina rồi, Kathina
cũng xả trong thời kỳ ấy.
6) trong màtikà thứ 6 àsàvacchekika,
àvàsapalibodha đứt trước là đứt trong khi Tỳ-khưu định rằng: không trở lại
chùa cũ nữa, cìvara palibodha đứt sau, là đứt trong khi không còn mong được y
nữa,kathina cũng xả trong thời kỳ ấy
7) trong màtikà thứ 7 sìmatikkantikà, cìvara
palibodha đứt trứơc, là đứt trong khi đã làm y xong àsàsapalibodha đứt sau là
đứt trong khi hết hạn kỳ, Kathina cũng xả trong thời kỳ ấy
8) trong màtikà thứ 8 sahubbhàra, cả 2
Palibodha đứt 1 lượt cùng nhau không trước không sau,là đứt trong khi tăng
tụng dứt bản tuyên ngôn, Kathina cũng xả trong thời kỳ ấy
Vấn: - Hành trình Kathina xả trong sìmà có mấy,
ngoài sìmà có mấy, có khi trong sìmà có khi ngoài sìmà có mấy?
đáp: - Hành trình Kathina xả trong sìmà có 2 là:
antarubbhàra và sahubhàra. Ngoài sìmà có 3 là: pakkamanantika, savanantika và
sìmàtikkantika. Có khi trong sìmà, có khi ngoài sìmà, có 4 là: nitthinantika,
sannitthànantika, nàsanantika và àsàvacchedika.
Giải rằng: antarubbhàra và sahubhàra Kathina xả
trong thời chung cùng nhau, là xả vì năng lực tăng tụ hội tụng xả trong vòng
sìmà thọ Kathina ấy, thuộc về hành trình Kathina xả trong vòng pakkamanantika,
savanantika và sìmàtikkantika, Kathina xả đối với 1 Tỳ-khưu, đi làm cho Kathina
xả, phía ngoài vòng sìmà. Nitthinantika, samutthànantika, nàsanantika và
àsàvacchedika, kathina xả đối với 1 Tỳ-khưu . Nhưng nếu Tỳ-khưu ấy khi trước
không bận tìm phần y mà mình phải được, rồi đi ra ngoài vòng sìmà, hết tiếc
rằng: Thôi trở lại. Mà sau đó Tỳ-khưu khác thức tỉnh ép, cho đi đoạt phần y đó
lại, rồi trở về làm cho kathina cũng xả trong vòng sìmà đã thọ Kathina. Vậy chỉ
về việc phần y mà mình phải được ấy, thuộc về hành trình Kathina xả trong vòng
sìmà. Nếu Tỳ-khưu đem phần y mà mình phải được ra ngoài vòng sìmà rồi làm cho
Kathina xả trong nơi ấy, chỉ 12 lần thì thuộc về hành trình Kathina xả ngoài
vòng sìmà (muốn rõ điều này nên xem tạng Luật, phẩm thứ 8, từ trang 12 đến 48).
Vấn: - Mùla của Kathina có mấy? Vatthu có mấy?
Bhùmi có mấy?
Ðáp: - Mùla của Kathina có 1 là: Tăng tụ hội.
Vatthu có 3 là: sanghàti uttaràsanga và antaravàsaka. Bhùmi có 6 là: y làm bằng
chỉ may, y làm bằng bông, y làm bằng tơ, y làm bằng lông thú, y làm bằng vỏ cây.
Thật vậy, Kathina thì đủ mùla, vatthu, bhùmi như
đã có giải, thọ mới kết quả được. Nếu chỉ thiếu 1 điều nào, như số Tỳ-khưu ít
hơn 5 vị hoặc thọ Kathina bằng y khác ngoài 1 trong 3 y, hoặc y ấy họ làm bằng
vật nào khác ngoài 6 thứ chỉ ấy, thì Kathina không được kết quả.
Vấn: - Pháp chỉ về phần đầu Kathina, pháp chỉ về
phần giữa, pháp chỉ về phần cuối cùng là thế nào?
Đáp: - Trong sự phải thọ Kathina
(kathinatthàrakicca) chia ra làm 3 giai đoạn:
- Đoạn đầu phải lo làm pubbakarana (giặc, vò,
nhuộm y) nếu thí chủ họ chưa làm.
- Ðoạn giữa phải xả y cũ (paccuddhàra) của mình rồi (adhithàna) y mới để thọ
Kathina ấy.
- Ðoạn cuối cùng phải thọ ra tiếng cho Tăng hội được nghe rõ, rồi làm sangha,
gana, puggala, phải anumodanà.
Được anumodanà như thế gọi là sự phải thọ
Kathina (kathinatthàrakicca) được kết quả.
Vấn: - Người có mấy chi không nên thọ Kathina,
người có mấy chi nên thọ Kathina?
Ðáp: - Người có 8 chi không nên thọ Kathina:
1) Người không biết pubbakarana (sự phải làm
trước khi thọ Kathina).
2) Không biết paccuddhàra (xả y cũ).
3) Không biết adhitthàna (nguyện đặt tên y mới).
4) Không biết atthàra (sự thọ Kathina).
5) Không biết màtikà (nguyên nhân xả Kathina).
6) Không biết Palibodha (sự buộc Kathina).
7) Không biết uddhàra (hành trình Kathina xả theo 8 màtikà).
8) Không biết quả báo (nguyênnhân không phạm tội).
Người có đủ 8 chi (trái với 8 điều giải trên)
mới nên thọ Kathina được là:.
1) biết pubbakarana.
2) biết paccuddhàra.
3) biết adhitthàna.
4) biết atthàra.
5) biết màtikà.
6) biết palibodha;
7) biết uddhàra;
8) biết quả báo;
Tỳ-khưu thọ Kathina phải biết nhớ rõ rệt 8 điều
trên đó mới nên thọ Kathina. Vị Tỳ-khưu biết nhớ các pháp ấy được rỏ rệt, mới có
thể làm cho Kathinatthàrakicca được kết quả là:
1) Phải pubbakarana ngừa sợ e y mà thí chủ họ
chưa làm xong (vì không bông hoặc chưa làm kịp).
2) Phải biết paccuddhàra để xả y cũ của mình ra
3) Phải biết adhitthàna để adhitthàna y Kathina sắp thọ.
4) Phải biết atthàtra để thọ Kathina cho đúng theo phép
5) Phải biết màtikà, Palibodha, uddhàra cho biết hành trình khi Kathina xả
6) Phải biết quả báo, cho rõ thế lực của Kathina.
Nếu không biết, không nhớ các pháp ấy cho rõ
rệt, không nên thọ Kathina đâu, trừ ra Tỳ-khưu là vì trưởng lão có tăng hỗ trợ
cho sắp đặt thế cho.
Vấn: - Pubbakarana (sự phải làm trước) giải như
thế nào?
Ðáp: - Có 7 điều:
1) Dhovana (giặc, vò).
2) Vicàrana (đo).
3) Chedana (cắt).
4) Bandhana (may, lược).
5) Sibbana (may xong).
6) Rajana (nhuộm).
7) Kappakarana (làm dấu y).
Giải rằng: cả 7 điều ấy, nếu còn sót điều nào,
Tỳ-khưu phải làm cho, rồi trước khi thọ Kathina, không nên thọ rồi sau mới làm.
- Ðiều thứ nhất: Nếu vải Kathina ấy còn mới,
dính bột dệt, hoặc vải cũ dơ phải giặt.
- Ðiều thứ nhì: phải lo đo cho đúng theo luật định.
- Ðiều thứ ba: phải cắt bằng dao hoặc bằng kéo cho đứt có điều lớn, điều nhỏ.
- Ðiều thứ tư: Phải lược theo đường đã cắt ấy.
- Ðiều thứ năm: phải may theo đường chỉ đã lược.
- Ðiều thứ sáu: phải nhuộm bằng nước nhuộm mà đức Phật chophép có màu vừa theo
sắc bậc Sa-môn.
- Ðiều thứ bảy: phải làm dấu bằng 1 trong 3 màu (màu xanh, sám tro, đen
sậm) cho hoại sắc y.
Phải làm theo thứ tự, từ thứ nhất đến thứ nhì,
là không nên làm sai, trước làm sau, sau làm trước,nhưng nếu họ làm xong thì
càng tốt, bằng còn sót điều nào, phải làm cho rồi mới được (hiện thời chỉ còn
sót điều thứ 7, Tỳ-khưu thọ cần phải làm cho bấy nhiêu thôi).
Vấn: - Paccuddhàra, adhitthàna giải như thế nào?
Ðáp: - Paccuddhàra nói về 3 pháp là: sanghàti,
uttaràsanaga và antaravàsaka. Adhitthàna cũng nói về 3 pháp ấy. Nhưng
paccuddhàra nói về sanghàti, uttaràsanaga và antaravàsaka, và adhitthàna cũ mà
mình đã dùng, còn adhitthàna nói về sanghàti, uttaràsanaga và antaravàsaka là y
Kathina ấy. Nếu muốn thọ bằng sanghàti, phải paccuddhàra xả sanghàti cũ, rồi
adhitthàna sanghàti mới. Thọ uttaràsanaga hoặc antaravàsaka cũng phải xả
uttaràsanaga hoặc antaravàsaka cũ ra, rồi adhitthàna uttaràsanaga hoặc
antaravàsaka mới như nhau.
Vấn: - Atthàra (sự thọ) nói về mấy pháp?
Ðáp: - Atthàra chỉ nói về 1 pháp là nói ra
tiếng.
Giải: Tỳ-khưu thọ phải nói ra tiếng cho Tăng hội
nghe rõ rệt mới kết quả Kathina, nếu thọ thầm thì một mình ("thầm thì" là nói
nhỏ đủ một mình nghe), Tăng hội không được nghe với, thì Kathina không được
kết quả. còn về cách thức phải thọ như thế nào đã giải ở phía trên đều đủ rồi.
Vấn: - Sự thọ Kathina của mấy hạng người không
được kết quả, mấy hạng người được kết quả?
Ðáp: - Sự thọ Kathina của 3 hạng người không
được kết quả là:
- Người ở ngoài vòng sìmà thọ aunumodanà
Kathina.
- Người thọ aunumodanà Kathina không nói ra tiếng.
- Người thọ ra tiếng không cho kẻ khác nghe hiểu nghĩa lý.
Sự thọ Kathina của 3 hạng người sau này mới được
kết quả là:
- Người ở trong vòng sìmà thọ aunumodanà
Kathina.
- Người thọ aunumodanà Kathina được nói ra tiếng.
- Người nói ra tiếng cho người khác nghe nghĩa lý được rõ rệt.
Vấn: - Sự thọ Kathina mấy cách không được kết
quả, mấy cách được kết quả?
Ðáp: - 3 cách thọ Kathina không kết quả là:
- Vatthuvipanna
- Kàlavipanna
- Karanavipanna
Cách thọ Kathina được kết quả là:
- Vatthusampanna
- Kàlasampanna
- Karanasampanna
Giải: tiếng Vatthuvipanna nghĩa là vật sái nói
về y Kathina không nên dùng (akapiya) là y không đúng phép.
Kàlavipanna nghĩa là thời sái, nói về thời là họ
dâng y trong ngày nay, Tăng giao cho Tỳ-khưu người thọ trong ngày mai.
Karanavipanna: nghĩa là làm sái, nói về thí chủ
họ chưa làm y xong, rồi Tỳ-khưu không cắt làm cho rồi trong ngày ấy.
Tiếng Vatthusampanna nghĩa là vật phải nói về y
Kathina làm đúng theo phép.
Kàlasampanna nghĩa là thời phải nói về thí chủ
họ dâng trong ngàay nào, Tăng giao cho Tỳ-khưu người thọ trong ngày ấy.
Karanasampanna nghĩa là làm phải nói về thí chủ
dâng y làm đúng theo phép hoặc họ làm chưa xong, Tăng giao cho trong ngày nào,
Tỳ-khưu người thọ được cắt làm cho đúng trong ngày khác không để qua ngày khác.
Nói tóm lại Tỳ-khưu thọ Kathina bằng y không nên
dùng (akappiya) như y có bông, có màu sái, thí chủ dâng y đến trong ngày nay,
tăng giao cho Tỳ-khưu thọ đến ngày mai, thọ như thế thì Kathina không được kết
quả.
Trừ ra y làm bằng vải, nên dùng (kappiya) Tăng
cũng giao cho Tỳ-khưu thọ trong ngày ấy, thọ như thế Kathina mới được kết quả.
Vấn: - Tháng nào nên thọ Kathina?
Ðáp: - Tháng nên thọ Kathina là 1 tháng cuối
cùng của mùa hạ.
Giải: Sự thọ Kathina, đức Thế Tôn chỉ cho phép
thọ được trong 1 tháng chót mùa hạ: kể từ 16 tháng 9 đến rằm tháng 10, trong
khoảng 29 ngày ấy, ngày nào cũng thọ được cả. Ngoài vòng 29 ngày ấy, thọ Kathina
không kết quả, dầu có thọ cũng chẳng kết quả chi.
Vấn: - sự thọ Kathina sái (atthàravipatti) hay
là thọ phải (atthàrasampati), phải biết bằng cách nào?
Ðáp: - sự thọ Kathina sái hoặc thọ biết theo 24
thể thọ, không kết quả và 17 thể thức thọ được kết quả như đã có giải.
Trích dịch trong Kathina khandhaka thứ 7 của
phẩm Mahàvagga, cũng vừa đủ nghĩa lý chỉ có bấy nhiêu.
Khemam pappontu pànino.
Cầu cho tất cả chúng sanh đều được vui.
BHIKKHU VANSARAKKHITA
TỲ-KHƯU HỘ TÔNG
-ooOoo-
GIẢI VỀ CÁCH THỨC CÁC THỨ Y CA-SA
1) Kusi: dịch là miếng vải dài ở ngay chỗ
anuvàta dài chung quanh là ngay chỗ khoản dài.
2) Addhakusi: dịch là miếng vải nữa phần kusi,
tức là miếng vải vắn ở ngay chỗ khoản vắn.
3) Mandala: dịch là miếng vải lớn ở ngay chỗ
khoản lớn (nếu y ngũ điều điều lớn này có 5 khoản).
4) Addhamandala: dịch là miếng vải nửa phần
miếng vải lớn, tức là miếng vải nhỏ (nếu y ngũ điều, điều nhỏ này có 5 khoản).
5) Vivatta: dịch là miếng vải mở ra khi nào trùm
thấy rõ ngay cho phía trên lưng, chi này ở ngay khoản lớn chính giữa.
6) Anuvivatta: đây là miếng vải mở tiếp theo
(khi trùm chỉ thấy phân nửa) chi này ở ngay chỗ 2 bên khoản Anuvivatta.
7) Gìveyyaka: dịch là miếng vải quấn, (khi nào
trùm thì trùm ngay cổ) chi này ở ngay chỗ khoản Vivatta về phía trên.
8) Jangheyyaka: dịch là miếng vải phải đậy trên
xương chả vai, chi này ở chỗ 2 khoản anuvivatta về phía dưới.
9) Bahanta: dịch là miếng vải phải đắp bắp tay,
khi trùm phải ở ngay phía trên bắp tay, chi này ở ngay chỗ addhamadala nơi 2
khoản phía cuối cùng.
Tóm lại y có 9 chi như thế mới hiệp theo lời của
đức Phật chế định. cả 3 y (y 2 lớp y vai trái, y nội) phải làm theo 9 chi ấy
(trừ ra thiếu vải cắt may không đủ).
PHÉP DÂNG Y KATHINA ÐẾN TĂNG
(SANGHA)
Vấn: - thí chủ dâng cúng y Kathinadàna như thế
nào mới gọi là Tăng thí (sanghadàna)?
Ðáp: - y để thọ Kathina là vật kể vàao trong
sanghadàna thì dâng theo Pali như vầy:
CÁCH DÂNG THỨ NHẤT
Imam dussam Kathina cìvaram bhikkhu sanghassa
demà
Dutiyampi, ...
Tatiyampi, ... (đọc 3 lần).
Nghĩa: chúng tôi xin dâng y này để làm lễ
Kathina đến Tỳ-khưu tăng (bhikkhusangha) lần thứ nhì, lần thứ ba.
Về vật phụ tùng (parikkhàra) đã dâng theo thói
quen như vầy:
Yenamhàkam Kathinam gahitvà kathinàni sannàni
tasseva
Nghĩa: vị Tỳ-khưu nào lãnh Kathina của chúng
tôi, chúng tôi xin dâng các phụ tùng này đến vị đó.
Trong chú giải (atthakathà) có thuyết minh rằng;
nếu thí chủ dâng mà đọc Yenamhàkam ... Như vầy, thì Tăng không có quyền làm chủ
các vật parikkhàra đó được.
Cho nên nếu cần muốn dâng vật nào đến Tăng, phải
dâng bằng cách khác, tóm tắt (không ccần để tên các vật dâng theo Pali) như vậy
.
Cách dâng thỨ nhì
Imam mayam [*] bhante vatthùni
bhikkhusanghassa niyyàdema [*]
[*] Nếu mộ người dâng thì đọc aham thế
mayam, niyyàdemi thế
niyyàdema
nghĩa: bạch các ngài chúng tôi xin dâng những
vật này đến Tỳ-khưu tăng. Lại nữa, cũng có 1 cách dâng Kathina chung với vật phụ
tùng 1 lần rất tiện lợi theo Pali như vầy.
CÁCH DÂNG THỨ BA
Imam bhante saparivàram kathina cìvaradussam
bhikkhusanghassa onojayàma sàdhu no bhante niyyàdema bhikkhusangho imam
saparivàram kathina cìvaradussam patigganhà tu patiggahetvà ca iminàdussena
kathinam attharatu amhàkam dìgharatta atthàya hitàya sukhàya.
Nghĩa: bạch chư Đại đức, chúng tôi xin nghiêng
mình dâng y Kathina cùng với vật phụ tùng này đến Tỳ-khưu tăng. bạch chư Đại đức
cầu xin Tỳ-khưu tăng lãnh y Kathina cùng với những vật phụ tùng của chúng tôi
đây, khi đã nhận rồi, xin thọ dụng y này, cho chúng tôi được sự lợi ích, được sự
yên vui lâu dài.
- Hết-
--- o0o ---
Mục
Lục [01]
[02]
[03] [04]
[05]
--- o0o ---
Source:
BuddhaSasana website (
By Binh Anson)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-11-2002