Tiếng đầu đà - DHUTANGAKATHA nghĩa là: Chi [*]
của người dứt phiền não, hoặc tư cách có trí tuện để dứt trừ phiền não, là điều
kiện và là sự tu hành để phá huỷ nghịch pháp. Nói tóm tắt là tác ý để thọ trì
chi ấy.
[*] Chi: là nguyên ở một vật thể chia rẽ ra,
Phạn ngữ gọi là Anga.
1) Pamsukùkanga: chi của Tỳ-khưu là người có
phẩm cách, thường mặc y ca-sa có trạng thái đáng gớm như phẩn đất.
2) Tecìvarikànga: chi của Tỳ-khưu là người chỉ
thường mặc tam y (y 2 lớp, y vai trái và y nội).
3) Pindapàtikanga: chi của Tỳ-khưu là người có
phẩm cách, thường đi để khất thực.
4) Sapadànacàrikanga: chi của Tỳ-khưu là người
có phẩm cách để đi khất thực theo mỗi nhà.
5) Ekàsanikanga: chi của Tỳ-khưu là người có
phẩm cách chỉ thường dùng vật thực trong 1 chỗ ngồi
6) Pattapindikanga: chi của Tỳ-khưu là người có
phẩm cách chỉ thường dùng vật thực trong 1 bát
7) Khalupacchàbhattikanga: chi của Tỳ-khưu là
người có phẩm cách không dùng vật thực mà mình đã ngăn, sau rồi mới được lại
8) Àrannikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm
cách thường trú ngụ trong rừng.
9) Rukkhamùlikanga: chi của Tỳ-khưu là người có
phẩm cách trú ngụ gần cội cây
10) Abbhokàsikanga: chi của Tỳ-khưu là người có
phẩm cách thường trú ngụ trong nơi khoảng trống.
11) Sosànikanga: chi của Tỳ-khưu là người có
phẩm cách thường trú ngụ trong rừng mộ địa.
12) Yathàsanthatikanga: chi của Tỳ-khưu là người
có phẩm cách chỉ ngụ trong chỗ mà Tăng đã cho đầu tiên, không dời đổi.
13) Nesajjikanga: chi của Tỳ-khưu là người
thường có phẩm cách ngăn oai nghi nằm, chỉ đứng và ngồi.
Khi đức Thế Tôn còn tại thế, phải đối với Ngài
mà thọ phép đầu đà. Sau khi Ngài nhập Niết bàn rồi phải thọ với chư đại Thinh
văn. Sau khi không còn chư đại Thinh văn, nên xin giữ với bậc A la hán, A na
hàm, Tư đà hàm, Tu đà hườn, với bậc thông hiểu Tam tạng hoặc 2 tăng, hoặc 1
tăng. Sau nữa nên xin với bậc đã hành phép đầu đà trước. Nếu không có, nên quét
dọn tháp, chùa cho sạch, hết lòng thành kính lễ bái cúng dường như thưở đức
Chánh Biến Tri còn tại tiền, rồi ngồi chồm hổm chấp tay xin thọ, bằng không thì
thọ nơi mình cũng được.
Có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn [*] y ca-sa mà thí chủ dâng
cúng (gahapati dànacìvaram patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu, là người có phẩm cách thường mặc y ca-sa
đáng gớm như phẩn đất (pamsukùlikàngam samàdiyàmi).
[*] Ngăn: nghĩa là không dùng đến.
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Hành giả khi đã thọ trì đầu đà này rồi, phải tìm
1 trong 23 thứ vải, kể dưới đây, kiếm thứ nào còn chắc, đem vá cắt, may làm
ca-sa, rồi đổi bộ y mà thí chủ đã dâng cho mình đang dùng, mặc y đáng gớm ấy.
23 thứ vải đáng gớm ấy là:
Vải bỏ nơi mồ mả (sosànika).
Vải bỏ nơi quán hàng chợ (àpanika).
Vải dơ mà kẻ tín thí muốn bố thí đem bỏ giữa đường đi (rathiyacola).
Vải dơ bỏ nơi đống rác (sankàracola).
Vải chùi mình dơ rồi bỏ (sotthiya).
Vải dơ mà người bịnh mặc để cho thầy làm phép tắm rồi bỏ (nànacola).
Vải bỏ tại bến nước (titthacola).
Vải dơ bó tử thi rồi bỏ (gatapaccàgata).
Vải đã bị cháy 1, 2 chỗ rồi bỏ (aggidaddha).
Vải bị dò xé rồi bỏ (gokhàyita).
Vải bị mối ăn rồi bỏ (upacikàkhàyota).
Vải bị chuột cắn rồi bỏ (undìrakhàyita).
Vải rách bìa rồi bỏ (antacchinna).
Vải rách biên rồi bỏ (dasacchinna).
Vải làm cờ và phướng rồi bỏ (dhajàhata).
Vải rịt ghẻ rồi bỏ (thùpacìvara).
Vải mà Sa-môn bỏ (samanacìvara).
Vải dùng trong việc tôn vương rồi bỏ (àbhisokika).
Vải của Tỳ-khưu Ehibhikkhu [1] cho (oddhimaya).
Vải rơi rớt giữa đường đi (panthika) [2]
Vải bị gió thổi bay, chủ bỏ (vàtàhata).
Vải chư thiên đem bố thí, bỏ 1 nơi nào (devadattiya).
Vải bị sóng biển đáng tắp vào bờ (sàmuddiya).
[1] Ehibhikkhu là Tỳ-khưu khi Phật chứng cho
làm Tỳ-khưu tự nhiên có y sẳn mặc (Thiện lai Tỳ-khưu).
[2] Vải như thế nên chờ xem coi nếu họ thiệt bỏ rồi sẽ lượm.
Trong 23 thứ vải đã kể trên, Tỳ-khưu đã nguyện
giữ đầu đà rồi, kiếm được và may đủ, thì phải bỏ y cũ (y đã mặc lúc còn chùa hay
là của thí chủ dâng cúng).
Không phép dùng y của thí chủ dâng đến tay,nếu
Tỳ-khưu với nhau cho thì mặc được.
Tỳ-khưu giữ đầu đà này có 3 bực:
- Bực thượng: Chỉ mặc tam y làm bằng vải dơ
lượm nơi mộ địa.
- Bực trung: Làm bằng vải dơ của người bỏ.
- Bực hạ: Mặc tam y làm bằng vải dơ của thí cố ý làm phước, đem gần bỏ gần bên
chân
Ba bậc Tỳ-khưu này nếu thọ lãnh y nơi tay thí
chủ dâng cúng, gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giũ.
Cho nên chẳng phải chỉ có đầu đà này đâu, đầu đà
là 12 đầu đà sẽ giải ra phía sau, nếu Tỳ-khưu đã nguyện giữ rồi mà phá hư, nhưng
cố ý hành nữa, cần phải thọ mới lại.
Ðầu đà này có 12 quả báu.
1. Nissaỳanurùpapatipattisabbhàvo: người có tư
cách hành vừa theo phép nương [1] mà vị hoà thượng dạy bảo khi mới thọ cụ túc
giới.
2. Pathame ariyavamse patitthànam: tư cách ở trong vòng thánh thứ nhất. [2]
3. Àrakkhadukkhàbhàvo: không có khổ vì sự gìn giữ y.
4. Aparàvattavuttità: không có sự quyến luyến vì kẻ khác.
5. Corabhayana abhayatà: không lo sợ vì kẻ cướp.
6. Paribhogatanhàya abhàvo: không ham muốn trong sự thọ dụng.
7. Samanasàrupparikkhàratà: người có vật phụ tùng vừa theo phận Sa-môn.
8. Bhagavata samvannitapaccayatà: người có vật dụng mà đức Thế Tôn khen ngợi.
9. Pàsàdikatà: người đem đức tin đến kẻ khác.
10. Appicchatà dìnam phalanipphatti: tư cách thành tựu các thứ quả, nhất là
không tham hoặc ít tham.
11. Sammàpatipattiyà anubrùhanam: tư cách làm cho chánh đạo được tăng trưởng.
12. Pacchimàya janatàya ditthànuggati àpàdanam: tư cách làm mô phạm cho kẻ hậu
lai.
[1] có giải nơi "truyền cụ túc giới"
[2] vòng thánh có 4 tri túc trong casa, tri túc trong khất thực, tri túc trong
chỗ ở, tri túc trong thuốc men.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ
MẶC TAM Y ÐÁNG GỚM
Màrasenam vighàtàya pamsukùladharo
yatisannadhakavaco yudhekhattiyo viyasobhati pahàya kàsikàdini varavatthàni
dhàritam yam lokagarunà ko tam pamsukulam na dhàraye tasmà hiattano bhikkhu
patinnam samanussaram yogàcàrànukùlamhi pamsukule rato siuyà
Nghĩa là: "Bậc đế vương mang thiết giáp bền chắc
trong nơi chiến trường thế nào, hành giả là người hành đầu đà mặc tam y đáng
gớm, bền chắc trong tư cách sát nhân hại quân ma cũng như thế ấy".
Ðức Thế Tôn là tổ sư của chúng sanh trong tam
giới mà ngài cũng bỏ các y đáng quí giá, nhứt là y xứ Kàsi, trở lại mặc y phục
quí giá, nhất là được ở xứ Kàsi, trở lại mặc y đáng nhờm gớm. Vậy Tỳ-khưu nào
dám không mặc y ca-sa đáng gớm ấy được. Cho nên khi hành giả khi đã nhớ đến lời
nguyện của mình nên ưa thích trong y ca-sa đáng gớm, vừa theo sự tinh tấn.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn y thứ 4 (catutthaka
cìvarampatikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu, người chỉ dùng tam y (tecìvarikangam
samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tùy ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi đã thọ trì nếu được vải để làm y (ngoài tam y cũ)
mà chưa làm xong hoặc còn thiếu vải, thiếu kim, chỉ, được phép cất giữ vải ấy
không có tội trong sự ưa thích y thứ tư, vì nguyện nhận cất giữ vải ấy. Nhưng
khi đã nhuộm rồi, không nên để dành. Nếu còn tích trữ, gọi là kẻ cướp lớn về
phần đầu đà.
Tỳ-khưu giữa đầu đà này có 3 bậc.
- Bậc thượng: trong khi nhuộm y, nếu nhuộm y
nội trước thì mặc y vai trái, y nội khô, lấy mặc vào rồi nhuộm y khác. Muốn
nhuộm y nội và y vai trái một lượt cũng được, nhưng phải ngồi gần chỗ phơi y,
như có kẻ ngoài đi đến, nên lấy mặc vào, chẳng nên để thân trần truồng và mặc
y 2 lớp.
- Bậc trung: nếu muốn nhuộm y 1 lượt, thì được
phép mặc đỡ y để nơi nhà nhuộm.
- Bậc hạ: trong khi nhuộm y, được phép mặc đỡ
y của vị khác (trong bọn) hoặc dùng ngoạ y cũng được.
Ba bậc Tỳ-khưu này, nếu dùng đến tứ y, gọi là
phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ [*].
[*] được phép dùng y lót mồ hôi bề ngang 1
gang, bề dài 3 hắc.
Phép đầu đà này có 11 quả báo:
1. Santuttho: được gọi là người có tri túc
trong số y vừa đủ mặc.
2. Samàdàyevagamanam: tư cách chỉ có tam y thôi, dường như loài chim [1] (bay
đến nơi nào chỉ có cặp cánh).
3. Appasamàrambhatà: người ít bận việc gì lo khỏi hong phơi hoặc xếp cất các y
dư.
4. Vatthasannidhiparivajjanam: tư cách tu hành, không có sự gom thu để dành y.
5. Sallahuka vuttità: người hành vi nhẹ nhàng mau mắn.
6. Atirekacìvaralolupappahànam: tư cách dứt bỏ sự dứt bỏ xấu sa thái hoá trong
y dư.
7. Kappiyemattakàrità: trạng thái có tiếp độ trong y vừa (đủ dùng) [2].
8. Sallekhavuttità: người tu hành làm cho phiền não trở nên nhẹ nhàng.
9. Appicchapàdìnam phalanipphatti: tư cách thành tựu các thứ quả, nhất là
không tham hoặc ít tham.
10. Sammàpatipattiỳa anubrùhanam: tư cách làm cho chánh đạo được tăng trưởng.
11. Pacchimàia janatàya ditthanugavìapàdanam: tư cách làm mô phạm cho kẻ hậu
lai.
[1] Loài chim bay đến đâu, chỉ có cặp cánh
vừa để hộ thân, không chất chứa vật chi theo cả.
[2] Dầu đức Chánh Biến tri cho phép dùng các thứ y như tọa cụ, Tỳ-khưu ấy
cũng chỉ vui thích trong tam y thôi
Ấy là 11 quả báo trong đầu đà chỉ mặc tam y, mà
Tỳ-khưu đã được thọ trì chín chắn.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ
CHỈ MẶC TAM Y.
Atirekavatthatanham pahàya sannidhivivajjito
dhìro santosa sukharasannu ticìvaradharo bhavati yogì tasmà sapattacararano
pakhìva sacìvarova yogivaro sukkha manuvicaritukàmo cìvaraniyam ratim kayirà.
Nghĩa là: Hành giả là người có trí tuệ, biết
lương vị của điều an vui phát sanh do sự tri túc, hằng dứt bỏ lòng ham muốn y dư
quá số, các ngài năng lánh xa tư cách gom thu y dư để dành, chỉ dùng tam y thôi.
Cho nên hành giả cao thượng (trong Phật pháp), khi muốn đi đâu được an vui, chỉ
nên có 3 mang y dính theo mình, dường như loài chim bay, chỉ có cặp cánh dính
theo mình mà thôi. Phải nên vui thích trong y có hạn định ấy.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1- Tôi xin ngăn lễ vật ngoài phẩm thực mà tôi
đi xin được [*] (atirekalàbham patikkhipàmi).
2- Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách đi để khất thực
(pindapàtikangam samàdiyàmi).
[*] vật thực mà thí chủ để vào bát mỗi nhà mỗi
chút .
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào cũng
được.
Hành giả đã nguyện thọ phép thọ đầu đà này rồi
không nên ưa thích trong 14 thực phẩm dư nữa (atirekalàbha).
14 thực phẩm dư là:
1. Sanghabhatta: thực phẩm mà thí chủ dâng đến
tất cả chư tăng.
2. Uddesabhatta: thực phẩm mà họ dâng đến 1 hoặc 2 vị Tỳ-khưu thế mặt cho
tăng.
3. Nimantanabhatta: thực phẩm họ thỉnh Tỳ-khưu đến rồi dâng.
4. Salàkabhatta: thực phẩm họ dâng theo cách rút thăm.
5. Pakkhikabhatta: thực phẩm họ dâng trong 1 tuần, hoặc mỗi tháng chỉ có 1
ngày.
6. Uposathikabhatta: thực phẩm họ dâng trong mỗi ngày lễ bát quan trai.
7. Pàtipadikabhatta: thực phẩm họ chỉ dâng trong ngày mùng 1 hoặc 16.
8. Àgamtukabhatta: thực phẩm họ dâng đến Tỳ-khưu ở xa mới đến.
9. Gamikabhatta: thực phẩm họ dâng Tỳ-khưu sắp ra đi đường xa.
10. Gilànabhatta: thực phẩm họ dâng đến Tỳ-khưu bịnh.
11. Gilànupatthàkabhatta: thực phẩm họ dâng đến Tỳ-khưu nuôi bịnh.
12. Vihàrabhatta: thực phẩm họ dâng đến chùa, đến thất.
13. Dhurabhatta: thực phẩm họ để dành trong nhà có việc, rồi họ dâng. [*]
14. Varabhatta: thực phẩm họ chia phần nhau dâng.
[*] vật thực mà thí chủ để vào bát mỗi nhà mỗi
chút .
Trong cả 14 thực phẩm ấy, Tỳ-khưu hành đầu đà đi
khất thực không nên thọ. Nhưng nếu thí chủ thông hiểu, không thỉnh rằng: Ngài
thọ trai tăng mà nói "Xin đại đức thọ thực trong nhà chúng tôi, ngài cũng vậy."
Như thế, Tỳ-khưu ấy thọ được, hoặc họ rút thăm để dâng các món thuốc không phải
là vật ăn buổi sáng để phát sanh đến Tăng, hoặc vật thọ thực nấu trong chùa,
Tỳ-khưu ấy thọ cũng được.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bực.
- Bậc thượng: Trong khi khất thực, nếu có tín
thí do phía trước, hay là phía sau mà đến, hoặc lúc trở về thí chủ đem vật
thực dâng cúng, thì được phép lãnh, trừ ra ngồi xuống rồi thì không phép thọ.
- Bậc trung: Dầu ngồi xuống rồi cũng còn thọ
lãnh được.
- Bậc hạ: Nếu có thiện tín thỉnh trước để dâng
cơm cũng được.
Ba bậc Tỳ-khưu này, nếu thọ lãnh 14 thứ vật thực
kể trên, gọi là phá phép đẩu đà mà mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 15 quả báo:
1. Nissayànurùpapatipattisabbhàvo: người hành
vừa theo phép nương [1].
2. Dutiye ariyavamse patitthànam: tư cách ở trong vòng thánh thứ nhì [2].
3. Apparàyattàvuttità: người có sự không dính dấp vì nuôi kẻ khác.
4. Bhagavatà samvannita paccayatà: người có vật dụng mà đức Thế Tôn hằng ngợi
khen.
5. Kosajjanimmathanatà: người có sự dứt bỏ tánh lười biếng.
6. Parisuddhàjività: người có sự tinh tấn trong cách nuôi mạng trong sạch.
7. Sekhiyapatipattipùranam: phương pháp tư tập phép ưng học pháp.
8. Aparaposità: người không cần phải nuôi ke ûkhác, vì biết tiết độ trong sự
thọ lãnh. [3]
9. Pàranuggahakiriyà: phương pháp tiếp độ kẻ khác vì sự thọ lãnh mỗi nhà mỗi
chút.
10. Mànappahànam: phương pháp dứt trừ tâm kiêu hãnh nghĩa là không chọn lựa vì
trông cậy có vật thực khác.
11. Rasatanhàya nivàranam: phương pháp ngăn sự mong mỏi trong vị ngon của vật
thực khác.
12. Ganabhojanaparampabho janacàritta sikkhapadehianàpattità: người không phạm
tội vì thọ ganabhojana, parampabhojana và càritta (xem trong điều học Ưng
học pháp) do không chịu mời thọ thực.
13. Appicchatàdìnam anulomavuttità: người có tư cách hành vừa theo các đức
tánh, nhất là không hoặc ít tham (Appicchata).
14. Sammàpatipattibrùhanam: phương pháp làm cho chánh đạo được tăng trưởng.
15. Pacchimàjanatànukampanam: phương pháp tiếp độ kẻ hậu lai.
[1] phép nương mà vị hoà thượng dạy khi mới
thọ cụ túc giới
[2] sự tri túc trong lúc đi khất thực.
[3] Không thọ lãnh cho nhiều để nuôi kẻ khác.
Ấy là 15 quả báo trong đầu đà để đi khất thực mà
Tỳ-khưu hành được chơn chánh.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ÐI
ÐỂ KHẤT THỰC
Pindiyàlopasantuttho aparàyattajìviko
pahìnàhàrololuppo hoticàtuddiso yativinodayati kosajjam àjìvassa visujjhati
tasmà himàtimanneyya bhikkhàcàram sumedhaso.
Nghĩa là: hành giả có sự vui thích bình đẳng
trong hột cơm mà người cho từng vá, có tư cách không nuôi kẻ khác, đã dứt bỏ
lòng ham muốn xấu xa trong vật thực, là người có thể đi đến bốn phương được dễ
dàng, dứt trừ sự lười biếng, cách nuôi mạng của Tỳ-khưu ấy được trong sạch.
Cho nên người có trí tuệ cao thượng không nên
khinh rẻ sự khất thực ấy. Thật vậy, Tỳ-khưu hành đầu đà "đi để khất thực" là
người chỉ nuôi một thân mạng không phải nuôi kẻ khác. Như thế chư thiên hằng yêu
mến, trọng đãi và hộ trì, vì sự không mong được lễ vật và ngợi khen.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn tư cách để đi khất thực theo ý
muốn (loluppacàrampatikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách thường đi khất thực
theo mỗi nhà (sapadànacàrikangamsamàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tùy ý.
Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này, khi vào đến xóm nên
đứng xem, e có điều rủi ro, nếu có sự biến cố nào, nên bỏ qua, đi đến nhà khác
cũng được. Nơi nào quen chừng không được vật chi chút ít cả, nên cho rằng không
phải là nhà thí rồi đi đến xóm khác. Song nếu được chút ít trong nơi nào, không
nên bỏ qua và khất thực cho sớm, đặng phòng ngừa sự bỏ qua những nơi có điều rủi
ro, để đi đến nơi khác không cho quá giờ, nếu có người bố thí trong chùa, hoặc
gặp giữa đường, họ xin bát để vật thực đem đến dâng cũng được.
Tỳ-khưu hành đầu đà này, trong lúc đi theo
đường, nếu đến buổi ăn, không nên đi trớt, dầu không được vật thực hoặc được
chút ít, cũng phải đi khất thực mỗi nhà.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
- Bậc thượng: Nếu có thí chủ đến do phía trước
hoặc phía sau, hoặc lúc trở về, họ đem vật thực dâng cúng thì chẳng nên thọ,
chỉ được phép lãnh khi đứng trước nhà.
- Bậc trung: được phép thọ, trừ ra khi đã ngồi
xuống.
- Bậc hạ: ngồi xuống rồi cũng còn lãnh được.
Ba bậc này, nếu đi khất thực theo ý muốn gọi là
phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ
Ðầu đà này có 8 quả báo:
1. Kulesu niccanavakatà: Người thường đi xin
trong các khoảng nhà.
2. Cantupamatà: người lành ví như mặt trăng, vì không dính dấp trong nhà nào
cả.
3. Kulamaccherappahànam: tư cách dứt bỏ sự bòn rít trong các nhà.
4. Samànukampità: người có sự tiếp độ bình đẳng đủ cả nhà.
5. Kulupàkìdenavàbhàvo: người không có tội trong sự đi vào xóm.
6. Avhananabhinandana: tư cách không vui thích lời kêu gọi thỉnh mời.
7. Abhihàrena anatthikatà: người không có sự cần dùng vật thực mà họ đem đến
dâng.
8. Appicchatàdìnam anulomavuttità: người có sự hành vừa theo các đức tánh,
nhất là không tham hay ít tham.
Ấy là 8 quả báo trong sự thọ đầu đà đi khất thực
theo mỗi nhà mà Tỳ-khưu được thọ trì được chín chắn.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ÐI
KHẤT THỰC THEO MỖI NHÀ
Candùpamo niccanavo kulesu amaccharì
sabbasamànukampo kulùpakàdìnavavippamutto hotìdhabhikkhu sapadànacàrì
loluppacàram pajahàya tasmà okkhittacakkhu yugamattadassì àkankhamàno
bhuvisericàram careyya dhìro sapadànacàram.
Nghĩa là: Tỳ-khưu hành đầu đà đi khất thực theo
mỗi nhà, trong Phật pháp này,là người lành ví như mặt trăng, là người thường đi
xin ăn, là người không bón rít trong các nhà, có sự tiếp độ bình đẳng đủ cả nhà,
là người đã thoát khỏi tội, phát sanh do sự đi vào xóm.
Cho nên bậc trí tuệ, nếu muốn đi trên mặt đất
theo sở thích, cũng phải dứt bỏ các đi khất thực theo ý muốn, phải có cặp mắt
ngó xuống, chỉ nên liếc xem ra 1 ách (2 sải) rồi nên hành đầu đà đi khất thực
theo mỗi nhà.
Trong đầu đà này có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn tư cách ngồi ăn trong nhiều
chỗ (nàsàsanabhojanam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách chỉ ngồi ăn trong 1
chỗ (akàsanikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ cách nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này, trong nhà ăn, không
nên ngồi chỗ của vị trưởng lão. Phải phân biện trước chỗ ngồi vừa thoe địa vị
mình, rồi mới nên ngồi. Khi đương ăn, nếu có ông thầy dạy đạo, hoặc vị hoà
thượng đi đến nên đứng dậy làm lễ, nhưng không được trở lại ăn nữa.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
- Bậc thượng: dầu có vật thực nhiều hay ít,
nếu có thò tay vào thì chẳng nên ăn vật nào khác thêm nữa.
- Bậc trung: nếu vật thực trong bát còn được
phép thọ thêm.
- Bậc hạ: nếu chưa ra khỏi chỗ ngồi ăn, được
phép lãnh thêm.
Ba bậc này nếu ngồi ăn nhiều chỗ gọi là phá phép
đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 8 quả báo:
1. Appàbàdhatà: Trạng thái người ít có bịnh.
2. Appàtankatà: trạng thái người sống không kho,å là khỏi bị khổ trong thân
thể.
3. Lahutthànam: cách chỗi dậy lẹ làng.
4. Balam: Có thân thể khỏe mạnh.
5. Phasuvihàro: cách ở được an vui.
6. Anatirittapaccayà anàpatti: không phạm tội vì thọ vật thực
anatirittabhojana [*].
7. Rasatanhàyavinodanam: cách không mong được vị ngon.
8. Appicchatàdìnam anulomavuttità: trạng thái người có sự hành vừa theo các
đức tánh, nhất là không tham hay ít tham.
[*] vật thực mà Tỳ-khưu đã ngăn rồi, sau khi
đứng dậy khỏi chỗ ấy, thọ lãnh được rồi không làm theo luật (xem trong điều
học Ngăn vật thực ).
Ấy là 8 quả báo trong đầu đà ăn trong 1 chỗ ngồi
mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ĂN
TRONG MỘT CHỖ NGỒI
Ekàsanabhojane ratam nayatim bhojana paccayà
rujà visahantirase aloluppo parihàpeti na kammamattano iti phàsuvihàra kàrane
suvisallekharatupasevite janaye thavisuddha mànaso ratimekàsanabhojaneati.
Nghĩa là: các thứ bịnh phát sanh phát sanh do
dùng vật thực, hằng không làm hại đến hành giả vui thích trong cách thường thọ
thực trong 1 chỗ ngồi. Sự chẳng lựa chọn vị ngon không làm cho tiêu hoại nghiệp
tinh tấn của hành giả.
Cho nên Tỳ-khưu, là người có tâm trong sạch nên
làm cho sự vui thích phát sanh trong đầu đà, chỉ nên ngồi ăn trong 1 chỗ là
nguyên nhân làm cho cách ở được an vui.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn đồ đựng thứ nhì
(dutiyabhàjanam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu, là người có phẩm cách chỉ thường thọ thực
trong 1 bát [*] (pattapindikàngamsamàdiyàmi).
[*] tiếng "bát" đây chẳng phải chỉ nói về bình
bát thôi đâu, dầu đồ dùng khác cũng gọi là bát được.
Trong 1 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này, khi dùng cháo phải
để cháo trong đồ đựng, nếu được đồ an khô (khô, mắn) nên ăn đồ khô trước cũng
được, húp cháo trước cũng được, để đồ khô trong cháo, e có mùi hôi tanh, ăn rồi
mửa ra, nhưng nếu ăn được cũng tốt. Về mật ong, hoặc đường thì phải chung vào ăn
với cháo. Các vật ấy Tỳ-khưu phải thọ cho có tiết độ. Trong khi ăn nếu có nước
chấm và củ, trái, rau, phải cầm ăn không tiện phải nên để vào bát.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
- Bậc thượng: ăn vào miệng rồi dầu gặp xương,
gặp rác cũng chẳng nên nhả ra (trừ ra ăn mía, được phép nhả rác.
- Bậc trung: ăn nhằm xương hoặc rác được phép
nhả bỏ, nhưng không nên bóp, trộn vật thực trong bát rồi mới ăn.
- Bậc hạ: dầu trộn vật thực trong bát rồi mới
ăn cũng được.
Ba bậc này, nếu ăn ngoài bát thì gọi là phá phép
đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 6 quả báo:
1. Nànàrasatanhàvinodanam: cách dứt bỏ sự mong
mỏi trong vật thực có vị ngon
2. Atricchatayapahànam: cách dứt bỏ trạng thái có sự ham muốn trong món ăn.
3. Àhàrepayojanamatta dassità: trạng thái người thấy điều hữu ích về sự tiết
độ trong vật thực.
4. Thàlakàdipariharanakhedàbhàvo: không có sự cực nhọc nhất là cất giữ vật
thực.
5. Avikkhittabhojità: trạng thái người không có tâm thay đổi vật thực khác.
6. Appicchatàdinam anulomavuttità: trạng thái người có cách hành vừa theo các
đức tánh, nhất là không tham hay ít tham.
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà chỉ thường ăn trong
một bát mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ
THƯỜNG ĂN TRONG MỘT BÁT.
Nànàbhàjanavikkhepam hitvà okkhittalocano
khananto viya mùlàni rasatanhàya sumànaso paribhunjeyya àhàram koanno
pattapindiko.
Nghĩa là: hành giả là người dứt sự thay đổi
trong nhiều món ăn khác, có cặp mắt ngó xuống, có hành vi chơn chánh, để đào
bứng gốc rễ của lòng tham muốn, là người có thiện tâm hành phép tri túc, như
người gìn giữ thân thể mình thế nào, thì Tỳ-khưu hành đầu đà chỉ thường ăn trong
một bát, lẽ nào lại thọ thực (trong đồ đựng bát khác được).
Khi Tỳ-khưu đương ăn có thí chủ đem vật thực đến
dâng trong hắc mà không lãnh gọi là "Ngăn vật thực". Đến khi đứng dậy khỏi chỗ
ấy rồi mà dùng vật thực ấy hoặc vật thực khác, phải cho người làm theo luật
(vinayakamma) mới ăn được. Không làm thì phạm Ưng đối trị, vật thực nhờ người
làm vinayakamma được cho phép ăn nữa ấy gọi là atiritabhojana.
Trong đầu đà này có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn cách dùng (atirittabhojanam
patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách không dùng vật thực
đã ngăn rồi, mà sau lại được (khalupacchàbhattikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách này muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu thọ đầu đà này, khi đã ngăn vật thực rồi
không nên nhờ người làm cho vật thực dùng được đâu. Ðầu đà này có nghĩa giống
nhau với điều học (pathama pavàranà) nhưng đây cao thượng hơn.
Nến biết đầu đà này có nghĩa cao thượng hơn điều
học pathama pavàrana như thế nào? Trong điều học pathama pavàrana nói: Tỳ-khưu
đã ngăn vật thực rồi, khi đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi, nếu nhờ người làm
vinayakamma rồi thì ăn vật thực ấy được. Trong đầu đà này không phải như thế,
dầu có là người làm vinayakamma cho thành vật ăn được, cũng không nên ăn, ấy là
chỗ cao thượng hơn, đối với điều học pathama pavàrana.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc.
- Bậc thượng: khi đang ăn thức ăn mà ngăn vật
thực của người dâng cúng thì chẳng được phép thọ thực phẩm còn lại trong bát.
- Bậc trung: đang ăn vật thực nào chỉ được
phép ăn món ấy.
- Bậc hạ: được phép ăn cho đến khi đứng dậy.
Ba bậc này, nếu đã ngăn vật thực rồi mà còn ăn
nữa gọi là pháp đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 5 quả báu:
1- Anatirittabho janàpattiyà durìbhàvo: trạng
thái người lánh xa khỏi sự phạm tội vì cách dùng vật thực anatirittabhojana
[*].
2- Odarikattàbhavo: không có cử chỉ người ăn quá no
3- Niramisasannidhita: trạng thái người không gom thu để dành vật thực.
4- Punapariye sanàya abbàvo: không có cách tìm kiếm thêm nữa
5- Appicchatàdìnam naulomavuttità: trạng thái người có tư cách, hành vừa theo
các đức, nhất là không tham hay ít tham.
[*] Vật thực mà Tỳ-khưu đã ngăn, rồi sau khi
được lại mà không nhờ người làm vinayakamma gọi là anatirittabhojana.
Ấy là 5 quả báo trong đầu đà này, mà Tỳ-khưu đã
thọ trì chín chắn.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ
NGĂN VẬT THỰC
Pariyesanàya khedam na yàti na karoti sannidhim
dhiro odarikattam pajahati khahipacchabhattiko yogìtasmà sugatappasattham
santosagunàdivuddhi sanjananam dose vidhu nitukàmo bhajeyya yogìdhutangamidam
Nghĩa là: Hành giả là người có trí tuệ, là người
thọ trì chi của Tỳ-khưu có phẩm cách không dùng vật thực mà mình đã ngăn rồi khi
sau ngược lại, là người không có sự khổ cực vì cách tìm vật dụng, không chất
chứa vật dụng, là người bỏ tư cách thọ thực quá no.
Cho nên hành giả là người có trí tuệ, muốn dứt
bỏ phiền khổ não, nên hành đầu đà này mà đức Thế Tôn hằng ngợi khen và đó là
phương pháp làm cho tăng trưởng các đức tánh, nhất là đức tri túc.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn cách ngụ nơi khoảng nhà, trước
khi mặt trời mọc (gàmantase nàsanam patikkhi pàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu, là người có phẩm cách thường nương ngụ
trong rừng (aranni kangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi đã thọ trì rồi,
không nên ở trong khoảng nhà trước khi mặt trời mọc.
Cần phải ngụ nơi rừng trước khi mặt trời mọc.
Chỗ ở nơi khoảng nhà là nói về chỗ ở trong xóm [*]. Còn gọi là rừng ấy là chỉ về
chỗ ngoài xóm và ngoài chỗ gần xóm.
[*] người đàn ông có sức lực bậc trung lấy đất
cục liệng rớt đến đâu, chỗ ấy là gần xóm.
Chỗ nói xóm là: dầu xóm nào chỉ có 1 hoặc nhiều
nhà có hàng rào hoặc vách tường, có tường xung quanh hoặc không có, có người ở
hoặc buôn bán chỗ nào có bọn buôn bán đến trú ngụ nơi ấy hơn 4 tháng cũng đều
gọi là xóm cả.
Chỗ ở trong rừng nên đo từ ranh xóm (chỗ có nhà
chòi, trạm nghỉ) cho xa được 1.000 thước. Nếu không có ranh xóm, chòi, trạm nên
đo từ chỗ cục đất mà người trai có sức lực bực trung liệng rớt ấy. Nếu gần xóm
nghe tiếng người mà bị khuất núi, hoặc có sông ngăn, không thể đi ngay tới được,
nên đo theo đường mà họ thường đi tới lui. Nhưng không nên rào ngăn đường đi tắt
gần của họ (nếu làm như thế gọi là "kẻ cướp lớn" về phần đầu đà này).
Ðầu đà này có 8 quả báo:
1. Bhabbo aladdham và samàdhim pati ladhum:
người đáng đắc thiền định chưa đắc.
2. Laddham vàrakkhitum: người có thể gìn giữ thiền định đã đắc.
3. Satthàpissa attamano: đức thiên nhơn sư hằng vừa lòng đối với Tỳ-khưu ấy.
4. Asappàyarùpàdayo cittam na vikkhipanti: nhất là sắt trrần là điều không vừa
lòng,không sao khấy rối tâm Tỳ-khưu ấy được.
5. Vigatasantàso: xa lánh khỏi sự kinh sợ.
6. Jìvitanikantim pajahati: có thể dứt bỏ sự vui thích trong sanh mạng được.
7. Pavivekasukharasam asàdeti: được nếm mùi vị của sự an vui nơi thanh vắng.
8. Pamsukùlikàdibhàvo: người thế có thọ trì đầu đà mặc y ca-sa đáng gớm dễ
dàng được.
Ấy là 8 quả báo đầu đà thường ngụ trong rừng.
KẾT LUẬN ÐẦU ÐÀ THƯỜNG
NGỤ TRONG RỪNG.
Pavivitto asamsatto pantasenàsane rato
àràdhayanto nàthassa vanavàsena mànasam eko aranne nivasam yam sukham labhate
yati rasam tassana vindanti api devà sandakà. Pamsukùlanca esovakavacam viya
dhàrayam arannasangà magato avasesadhutàyudho samattho nacirasseva jetum màram
sahàhanam tasmà aranna vàsamhi ratim kayiràtha pandito.
Nghĩa là: Hành giả có tâm yên lặng, không lẫn
lộn vì phe đảng, hằng vui thích trong nơi thanh vắng, là người có thể làm cho
đức Phật được vừa lòng và khen rằng: Hành giả là người nương ngụ trong rừng 1
mình, hằng được an vui cho đến nỗi tất cả chư thiên và thiên đế cũng chẳng đặng
nếm hương vị của sự an vui ấy. Như thế, nếu hành giả được hành thêm đầu đà mặc y
đáng gớm làm thiết giáp rồi, xông vào chiến trường tức là rừng, dùng 11 pháp
Dhuta làm quân binh, thì có thể chiến thắng Ma vương cùng bọn quân ma được dễ
dàng không lâu.
Cho nên bậc trí tuệ cần phải vui thích trong
phương pháp nương ngụ trong rừng.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn chỗ ở có che lợp (channam
patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách thường nương ngụ gần
cội cây (rukkhasmuỳlikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi đã thọ rồi nên tìm
nương ngụ gần cội cây, cây nào ở xa chùa, nhà, trừ ra cây chỗ ranh xóm, cây mà
họ hay đến cúng vái, cây có dầu, cây có trái, có bông mà họ cần dùng, có dơi
chim, cò ở.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc.
- Bậc thượng: chẳng nên lựa bông cây theo ý
mình, phải tránh các thứ cây đã kể trên, lấy chân đùa lá cây, để làm chỗ ở.
- Bậc trung: nếu có người nào ở gần, nhờ họ
quét dùm cũng được.
- Bậc hạ: được phép cậy người ở chùa quét dùm
cũng được và làm hàng rào cho. Bữa nào có nhiều người hội hiệp nơi ấy, phải
tìm nơi khuất tịch khác.
Ba bậc này, nếu ở nơi nào có che lợp đến mặt
trời mọc gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 6 quả báo:
1-Nissayànurùpapatipattisabbhàvo: người tu
hành vừa theo phép nương mà vị hoà thượng đã dạy khi mới thọ cụ túc giới rằng:
Người xuất gia nên nương ngụ nơi cội cây.
2- Bhagavatà samvannitapaccayatà: người có vật dụng mà đức Thế Tôn hằng ngợi
khen là vật dụng ít, dễ kiếm và không tội.
3- Anicca-sannàsamutthapanatà: trạng thái có thể làm cho phép vô thường tưởng
(anicca-sanna) phát sanh vì được thấy thường thường cái hiện tượng [*] của cây
và lá.
4- Senàsanamaccherakammàràmatànam abhàvo: không bón rít trong chỗ ở và là
người vui thích trong phận sự mình.
5- Devatàhi sahavàsità: trạng thái mà người được ở chung cùng với chư thiên.
6- Appicchatàdìnam anulomavuttità: trạng thái mà người có phẩm cách tu hành
vừa theo các đức tánh, nhất là không tham hay ít tham.
[*] trạng thái của vật mà người có thể cảm
giác được.
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà này mà Tỳ-khưu đã
thọ trì được chín chắn.
KẾT LUẬN TRONG ÐÀU ÐÀ
THƯỜNG NƯƠNG NGỤ GẦN CỘI CÂY.
Vannito buddhasaetthena nissayoti cabhàsito
nivàso pavivittassa rukkhamùlasamo kutoàvàsamaccheraharedevatà paripàlite
pavivitte vasanto hi rukkhamùlamhi subbato abhirattàni nìlàni pandùni patìani ca
passanto tarupannàni nicca-sannam panùdati tasamà hi buddhadàyajjam
bhàvanàbhiratàlayam vivittam nàti manneyyà rukkhamùlam vicakkhano.
Nghĩa là: chỗ ở của Tỳ-khưu, là người có tâm yên
lặng mà đức Phật hằng ngợi khen và giảng rằng: Chỗ ở trong rừng là nơi nương náu
của bậc xuất gia, chẳngcó chi sánh bằng "Tỳ-khưu ngụ trong rừng là nơi thanh
vắng, có thể dứt bỏ được sự bón rít trong thất, có chư thiên nương theo rừng hộ
trì nữa. Chẳng phải có thế thôi, Tỳ-khưu là người ở gần cội cây, khi thấy lá mới
trổ xanh tươi hoặc lá cây chín có màu vàng đã rụng, có thể dứt trừ phép thường
tưởng [*] (nicca-sanna). Bởi cớ ấy, bậc có trí tuệ không nên khinh rẻ chỗ yên
lặng gần cội cây, là chỗ của đức Chánh Biến Tri đã ngự, là nơi cư trú của các
hành giả ưa thích trong phép thiền định.
[*] thường tưởng: tưởng là thường trong các
sắc vô thường.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
1) Tôi xin ngăn chỗ ở che lợp và chỗ ở gần cội
cây (channanca rukkhamùlanca patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người có tư cách thường nương ngụ trong
khoảng trống (abbhokàsikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này,nếu vào tịnh xá để nghe
pháp, hoặc làm lễ Uposatha mà có mưa đến không nên cội ra đi, chờ cho mưa tạnh
sẽ đi, hoặc đã vào nhà ăn, nhà khói đã làm Phật sự (giúp việc cho vị trưởng lão,
cho tăng cũng nên). Nếu đi theo đường có cầm vật phụ tùng của vị trưởng lão mà
mắc mưa nên vào đụt mưa trong các phước xá (nhà trạm) cắt giữa đường cũng được,
dầu không có cầm vật chi của vị trưởng lão, vào nơi ấy đụt mưa cũng nên, song
phải đi chậm rãi, hoặc không nên tính ở nghỉ trong phước xá ấy.
Tỳ-khưu hành đầu đà có ba bậc:
- Bậc thượng: Chẳng nên ở dưới bóng cây, trong
núi, nhà mát.
- Bậc trung: Nếu có việc phải vào nhà không
lỗi.
- Bậc hạ: Vào nghỉ các nơi ấy cũng được nhưng
không nên ở đến mặt trời mọc.
Ba bậc này nếu ở trong các nơi có che lợp, hoặc
dưới cội cây hoặc ở chỗ che lợp đến mặt trời mọc, gọi là phá phép đầu đà mà mình
nguyện giữ.
Quả báo trong abbhokàsikanga - Ðầu đà này có 5
quả báo:
1. Àvàsapalibobdhupacchedo: cách dứt bỏ sự bận
trong tịnh thất(chùa).
2. Thìmamiddhappanudanam: cách dứt trừ sự lường biếng trong thân tâm
3. Nissangatà: trạng thái người không bận lòng vì sự lo gìn giữ chỗ ở.
4. Catuddisatà: trạng thái người đi đến 4 phương được, không có sự trở ngại,
vì khỏi lo sợ không có chỗ ngủ.
5. Appicchatàdinam anulomavuttità: Trạng thái người có sự hành vừa theo các
đức tánh, nhất là không tham hay ít tham.
Ấy là 5 quả báo trong đầu đà này mà Tỳ-khưu thọ
trì được chín chắn.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ
NGỤ TRONG KHOẢNG TRỐNG.
Anagàriyabhàvassa anurùpe adullabhe tàràmani
vìtanamhi candadi pappabhàsite abbhotàse vasam bhikkhu migabhutena cetasà
thinamiddham vinodetvà bhanamàràmatam sito pavivekarasassàdam nacirasseva
vidatiyasmà tasmàhisappanno obhokàse ratosiyà.
Nghĩa là: Hành giả không gìn giữ chỗ ở, ví như
thú rừng hằng nương theo trạng thái vui thích trong phép thiền định, tìm kiếm
chỗ ngụ trong khoảng trống, là nơi vừa cho hàng xuất gia, lấy các ngôi sao làm
trần, có ẩn dạng ngọc mã não, lấy mặt trăng làm đèn để soi sáng, có thể dứt trừ
sự lười biếng trong thân tâm và không bao lâu sẽ được hưởng điều vui thích trong
hương vị của pháp yên lặng.
Cho nên hành giả là người có trí tuệ nên ưa
thích khoảng trống như thế.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
1) Tôi xin ngăn chỗ không có mồ mã (sasusànam
patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người thường có phẩm cách thường nương
trong nơi mộ địa (Sosànikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Nơi thiêu người hoặc chôn tử thi đầu đà là họ
còn đương thiêu hoặc chôn thường ngày hay là đã bỏ từ 12 năm rồi, cũng gọi là mộ
địa. Những nơi nào họ nói là mộ địa mà chưa từng thiêu hoặc chôn tử thi, không
gọi là mộ địa được.
Thật vậy, Tỳ-khưu ngụ trong mộ địa không nên bảo
người làm chỗ đi kinh hành, chỗ để giường chõng, không nên chứa nước uống, tắm,
rửa hoặc dạy người học kinh luật. Vì đầu đà này trọng lắm, cần phải ngừa sự rủ
ro. phải trình cho vị trưởng lão trong chùa và các viên chức trong làng, tổng
hay trước, rồi mới được phép vào ngụ, không nên dễ duôi. Khi đi vào, phải theo
đường lộ, đến khi đi kinh hành phải iếc mắt xem chỗ thiêu hoặc chôn tử thi. Ban
ngày nên phân biện cho rồi chỗ có cây, đá, gốc cây. Nếu có phi nhơn [*] kêu la
trong ban đêm, không nên dùng vật chi để đánh, đập, đuổi xô đâu. Cần đi đến mộ
địa mỗi ngày, nếu đi vào nơi ấy lúc nữa đêm, khuya rồi trở về cũng được. Không
nên ăn mè, bột trộn, với đậu rajamàsa, cá, thịt, hoặc bánh trộn với sữa tươi,
dầu và đường mía, là vật vừa miệng của hành phi nhơn. Chẳng nên đi vào đình,
miếu cất trong nơi ấy.
[*] phi nhơn là ngạ quỉ mà người thường gọi là
chư vị.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
- Bậc thượng: nên ở trong nơi nào mà họ thường
chôn tử thi hoặc thường đến chôn ấy mà than khóc
- Bậc trung: nơi nào thường chôn hoặc thiêu tử
thi cũng ở được.
- Bậc hạ: nơi nào có chôn hoặc thiêu tử thi
một đôi lần, cũng ở được
Ba bậc này nếu lúc canh 5 (là canh chót, ít hơn
hết) mà chẳng vào ở nơi mồ mã gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
10 quả báo trong Sosànikanga:
1. Maranassatipatilàbho: phương pháp đắc phép
niệm sự chết do được thường thấy tử thi.
2. Appamadavihàratà: trạng thái người không dễ duôi, nhờ cách đắc phép niệm về
sự chết.
3. Asubhanimittàdhigamo: phương pháp tham thiền thấy cảnh tử thi, do được xem
tử thi bỏ trong mộ địa
4. Kàmaràgavinodanam: cách dứt giảm tình dục về sự tham thiền thấy cảnh tử thi
ấy.
5. Abhinham kàyasabhàvadassanam: cách thường thấy trạng thái của thân thể
không sạch.
6. Samvegabahulatà: trạng thái người có nhiều sự cảm sợ (samvega) do đắc phép
niệm về sự chết.
7. Àrogyamadàdippahànam:: cách dừt bỏ sự say mê, do được thấy người bịnh trong
nơi ấy.
8. Bhayabheravasahanatà: trạng thái người kiên nhẫn trong điều kinh sợ đáng
ghê gớm vì quen gặp cảnh đáng ghê tởm.
9. Amanussànam garubhàvaniyatà: trạng thái người có phẩm cách đáng cho phi
nhơn tôn trọng và ngợi khen.
10. Appicchatàdinam anulomavuttità: trạng thái người có sự hành vừa theo các
đức tánh, nhất là không tham hay là ít tham.
Ấy là 10 quả báu trong đầu đà này mà Tỳ-khưu thọ
trì được chín chắn
KẾT LUẬN TRONG ÐÀU ÐÀ
THƯỜNG NGỤ TRONG NƠI MỘ ÐỊA
Sosànikanhimaranànusa-dippabhàvà niddàga tampi
phusanti pamàdadosà sampassato cakunapàni bahùni tassa kàmànurà gavasagampi
nahoti cittam sam vegameti vipulam namadam upeti sammàatho ghatati
nibbutimesamàno sosànikangamitineka gunàvahattà nibbànaninnahadayena
nisevitabbam.
Nghĩa là: Tỳ-khưu là người ngụ trong mộ địa, dầu
muốn ngủ trong nơi ấy cũng trái lẽ, vì không bị các sự dễ duôi tiếp xúc do thắng
lực của phép thiền định về sự chết đã đắc trong nơi ấy. Chẳng phải có thế thôi,
tâm của Tỳ-khưu ấy khi đã thường thấy tử thi thì không sao bị tình dục lôi cuốn
mà chỉ có nhiều Samvega (dịch là "cảm sợ") không say mê.
Cho nên hành giả mong đạt đến Niết bàn là nơi
dứt khổ, phải tinh tấn hành đầu đà này, nhờ tâm chơn chánh xu hướng về phép đầu
đà thường ngụ trong mộ địa là pháp đem đến rất nhiều đức tánh như đã có giải.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
1) Tôi xin ngăn sự chọn lựa chỗ ở
(senàsanalolupam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người thường có phẩm cách thường ở trong
chỗ mà Tăng cho đầu tiên, không dời đổi (yathàsathatikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Hành giả thọ đầu đà này, nếu Tỳ-khưu thế mặt
Tăng cho chỗ ở đầu tiên thế nào, thì phải vui thích chỗ ở ấy thôi, không được
tìm hỏi, hoặc đi lựa chỗ ở nào khác.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
- Bậc thượng: chẳng nên hỏi thăm chỗ ở của
mình xa hay gần, hoặc có ma quỷ phá quấy haychăng? Giáo hội định chỗ nào phảỉ
ở nơi ấy.
- Bậc trung: được phép hỏi, nên chẳng nên đi
xem chỗ ở theo ý mình.
- Bậc hạ: được phép hỏi và đi xem chỗ ở, nếu
không vừa ý cũng không nên xin đổi chỗ.
Ba bậc này, nếu phát lòng ham muốn cũng chỗ ở
theo mình, gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 6 quả báo:
1. Ovàdakaranam: được gọi là hành theo lời dạy
của đức Thế Tôn. Ngài có giải rằng: Chỗ ở mà mình đã được rồi, thì mình phải
nên vui thích theo chỗ ấy, không nên dời đổi như thế
2. Sabramacàrìhitesità: trạng thái người tìm lợi ích cho hàng phạm hạnh cùng
nhau, là nhường chỗ ở khác cho vị khác.
3. Hìnapanìtavikappariccàgo: cách dứt bỏ sự phân biện, thấp hèn hay là cao
sang.
4. Anurodhavirodhappahànam: phương pháp dứt bỏ sự vừa lòng và điều trái ý
được.
5. Atricchatàyadvàrapidahanam: cách cấm ngăn sự ham muốn đã qua. [*]
6. Appicchatàdinam anulomavuttità: arạng thái người có cách hành vừa theo các
đức tánh nhất là không tham hay là ít tham.
[*] là sự ham muốn thái quá đã qua rồi như là
được một rồi còn mong được một nữa
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà thường ở chỗ mà
tăng già đã cho mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắm.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ
THƯỜNG NGỤ TRONG CHỖ TĂNG ÐÃ CHỈ CHO ÐẦU TIÊN KHÔNG DỜI ÐỔI.
Yam laddham tena santuttho yathàsan thatiko yati
nibbikappo sukkham seti seti tina santhara kesupi naso rajjàti setthamhi hìnam
laddhà na kuppati tasmà ariyatàcannam mun ipunga vavannitam anuyrujetha medhàvì
yathàsantaràmatam.
Nghĩa là: hành giả có sự tri túc trong chỗ ở,
được sao ở vậy, là người ngụ chỗ mà Tăng cho, không tìm ở chỗ cao sang, thì hằng
ngủ được an vui, dầu là nằm trên chiếu cỏ. Người không vui thích trong chỗ quí
trọng, dầu được chỗ thấp hèn cũng chẳng bất bình hờn giận, mới đáng gọi là người
tiếp độ các hàng phạm hạnh mới xuất gia cho được điều lợi ích.
Bởi cớ ấy, bậc trí tuệ nên có lòng vui thích
trong chỗ ở mà Tăng đã cho, là cổ lệ của hàng thánh nhơn, mà đức Phật đã thường
khen ngợi.
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn oai nghi nằm (seyyam
patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách ngăn oai nghi nằm
(nesajjikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu đã nguyện hành đầu đà này rồi ban đêm,
trong canh 3 đi kinh hành trọn một canh cũng được, nhưng không nên nằm [*].
[*] phương pháp niệm tất cả đề mục thiền định
đều dùng oai nghi ngồi, nếu hành đầu đà này, để tham thiền được vừa ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
- Bậc thượng: dầu dựa mình vào đâu cũng chẳng
được.
- Bậc trung: Được phép dựa.
- Bậc hạ: Nếu dùng giường ghế theo luật định
cũng được (trừ ra không nên nằm).
Ba bậc này nếu nằm trước mặt trời mọc, gọi là
phá phép đầu đà mà mình nguyện giữ.
Quả báo đầu đà Nesajjikànga (đầu tiên ngăn oai
nghi nằm) - Ðầu đà này có 5 quả báo:
1. Catasovinibandhassa upacchedanam: Phương
pháp nhất là dứt trừ cái tâm đã quen thỏa thích trong sự mê ngủ.
2. Sabbakammatthànànayogasappàyatà: trạng thái của oai nghi được sự an vui đến
phẩm cách tinh tấn trong cách thiền định .
3. Pàsadikairiyàpathatà: trạng thái người có oai nghi đem sự tín ngưỡng đến
nhiều người.
4. Viriyàrambhànukulatà: trạng thái vừa đến người có chi tinh tấn.
5. Sammàpatipattiyàsamupabrùhanam: phẩm cách phát sanh sự tu hành chơn chánh.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ
NGĂN OAI NGHI NẰM
Àbhuyitvàna pallankam panidhaya ujumtanum
nisìdànto vikampeti màrassa hàdayam yati sèyyasukham middhasukham hitvà
àraddhaviriyo nisajjà bhirato bhikkhu sabhayanto tapovanam niràmisam pìtisukham
yasmà samodhigacchati tasmà samanuyunjeyya dhìro nesajjikam vatam.
Nghĩa là: Hành giả ngồi bán già, thân hình cho
ngay thẳng, có thể làm cho tâm của Ma Vương phải rung động. Tỳ Khưu là người có
tâm tinh tấn dứt bỏ cách nằm và ngủ cho vui sướng, chỉ ưa thích trong oai nghi
ngồi, làm cho rừng, tức là tapadhamma [1] được soi sáng rõ ràng, hằng được phỉ
dạ [2] vừa lòng không có amisa [3].
[1] tapadhamma: pháp thiêu đốt các phiền não
[2] phỉ dạ (piti) là nhờ thỏa thích trong khi tham thiền mà được no lòng
[3] Chú giải: "vừa lòng không có amisa" là vừa lòng thỏa thích không nương
theo ngũ dục và đẹp ý trong sự xuất gia
Bởi cớ ấy bậc có trí tuệ nên giữ gìn phép đầu đà
Nesajjika này cho được chín chắn.
Mười ba đầu đà này nói tóm lại chỉ có tám phần:
3 phần chánh và 5 phần không chung lộn; tóm lại nữa còn 4 phần:
1) 2 đầu đà nương theo ca-sa (
cìvarapatisamyutta).
2) 5 đầu đà nương theo sự khất thực ( pindapàtapatisamyutta).
3) 5 đầu đà nương theo chỗ ở ( senàsanapatisamyutta).
4) 1 đầu đà nương theo sự tinh tấn ( viriyapatisamyutta).
tóm lại nữa có 2 phần :
1) Ðầu đà nào, hành giả đã thọ rồi, mà thiền
định được tiến hóa thì phải thọ.
2) Đầu đà nào hành giả phải thọ mà thiền định không phát sanh thì không nên
thọ.
Nhưng đầu đà nào mà hành giả không thọ hoặc đã
thọ mà thiền định vẫn được tiến hóa không tiêu hoại, cũng gọi là thọ, là phải
thọ để làm khuôn mẫu cho kẻ hậu lai; hoặc đầu đà nào mà hành giả thọ hay không
thọ mà thiền định vẫn không phát sanh cũng gọi là thọ, là phải thọ như thường để
làm gương đến người hậu tấn.
Tóm lại nữa, chỉ còn một, là nơi nói về tác ý
thọ trì cả 13 đầu đà ấy.
Hỏi: - Chia đầu đà ra làm 3 phần chánh và 5 phần
không chung lộn ấy như thế nào ?
Đáp: - 1. Sapadànacàrikanga, 2. Ekàsanikanga, 3.
Abbokàsikanga, cả ba đầu đà ấy gọi là đầu đà chánh. Nghĩa là: Khi đã thọ
sapadànacàrikanga rồi thọ luôn pindapàtikanga cũng được, nếu đã thọ ekàsanikanga
rồi thọ luôn pattapindikanga và khalupacchàbhattikanga cũng được, nếu đã thọ
khalupacchàbhattikanga cũng được, nếu đã thọ abbokàsikanga rồi không lẽ không
thọ rukkhamùlikanga, yâthàsanthatikanga nữa thế nào được.
Àrannikanga, pamsukùkikanga, tecìvarikanga,
nesajjikanga, sosànikanga, cả 5 đầu đà ấy gọi là 5 đầu đà không chung lộn nhau,
vì không mường tượng với đầu đà khác.
Hỏi: - Chỗ nói tóm lại, còn 4 phần ấy như thế
nào ?
Đáp: - Pamsukùlikanga, tecìvarikanga - cả hai
đầu đà này gọi là nương theo ca-sa vì dính dấp cùng nhau trong cách dùng ca-sa.
Pindapàtikanga, sapadànacàrikanga, ekàsanikanga,
pattapindikanga, khalupacchàbhattikanga, cả 5 đầu đà này gọi là nương theo thọ
thực vì dính dấp cùng trong cách thọ thực.
Àrannikanga rukhamùlikanga, abbhokàsikanga,
sosànikanga, yathàsanthatikanga, cả 5 đầu đà này gọi là nương theo chỗ ở vì có
sự dính dấp cùng nhau trong chỗ ở.
Nesajjikanga gọi là nương theo tinh tấn vì dính
dấp cùng nhau trong sự tinh tấn.
Hỏi: - Chỗ nói tóm lại, còn 2 phần ấy như thế
nào ?
Đáp: - 12 đầu đà trên gọi là nương theo vật
dụng. một đầu đà Nesajjikanga sau cuối cùng gọi là nương theo tinh tấn.
- Tỳ Khưu nên thọ trì cả 13 đầu đà.
- Tỳ Khưu ni chỉ nên thọ trì 8 đầu đà ( vì khó
giữ).
- Sa-di không có luật buộc phải adhitthàna tam
y, rút tecìvatikanga ra chỉ còn 12 đầu đà.
- Sikkhamànà và Sa-di ni không bị buộc phải
adhitthàna tam y như sadi và phận sự phụ nữ như Tỳ Khưu ni nên bỏ àrannikanga,
khalupacchàbhattikanga, abbhokàsikanga, rukkhamùlikanga sosànikanga,
tecìvarikanga ra còn lại 7 đầu đà.
Cận sự nam và cận sự nữ [*] nên thọ trì 2 đầu đà
là ekàsanikanga và pattapindikanga.
[*] cận sự nam và cận sự nữ là người nam hoặc
người nữ đem cả thân tâm lo cho Tam bảo hết lòng hành theo giáo pháp của đức
Phật.
--- o0o ---
Mục
Lục [01]
[02]
[03] [04]
[05]
--- o0o ---
Source:
BuddhaSasana website (
By Binh Anson)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-11-2002