Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo - 2002
CƯƠNG
YẾU GIỚI LUẬT
Thích Thiện Siêu
---o0o---
09
KHAI
ĐẠO GIỚI TỬ THỌ BỒ TÁT GIỚI
Chư vị Giới tử,
Chư vị đã thọ Sa-di giới, đã thọ
Tỳ-kheo giới; chư vị sắp sửa thọ Bồ-tát giới. Bồ-tát giới nói cho đủ là Đại thừa
Bồ-tát tâm địa giới. Danh từ Bồ-tát nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa; nghĩa là Giác
hữu tình. Một chúng sinh, một hữu tình đã có sự giác ngộ, đồng thời phát nguyện
giác ngộ cho kẻ khác gọi là Bồ-tát. Danh từ Bồ-tát đó chẳng những hôm nay các vị
được mang, mà trước đây những vị thọ giới Bồ-tát cũng đã được mang và mười
phương Bồ-tát mà chúng ta hằng kính lễ cũng được mang.
Cùng một danh từ Bồ-tát, nhưng phân
biệt ra có: Sơ phát tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa thượng Bồ-tát, Địa hậu
Bồ-tát khác nhau. Như hôm nay, các vị phát tâm thọ giới Bồ-tát, là chỉ mới phát
tâm thôi, chưa làm gì xứng đáng với sự phát tâm ấy, chưa hoàn thành những giới
hạnh của một vị Bồ-tát thì chỉ được gọi là Sơ phát tâm Bồ-tát. Từ đó, tu tập
trải qua các giai đoạn Tín, Trụ, Hạnh, Hướng, tu luyện theo những pháp môn Đại
thừa mà đức Phật đã chỉ dạy thì gọi là Gia hạnh Bồ-tát. Nhờ sự gia hạnh đó mà vô
minh sẽ diệt bớt, chân như sẽ được chứng thành, dần dần nhập vào Sơ địa, Nhị
địa, Tam địa, Tứ địa, cho đến Thập địa. Những Bồ-tát ở địa vị này được gọi là
Địa thượng Bồ-tát.Các vị ấy, sau khi đã thành tựu Đắng giác, Diệu giác, vẫn tùy
duyên hóa độ chúng sinh dưới nhiều hình thức, dưới nhiều căn cơ, dưới nhiều
phương tiện. Tính cách tùy duyên hóa độ, không trú Niết-bàn của các đức Phật,
gọi là Địa hậu Bồ-tát. Vậy cùng một danh từ Bồ-tát nhưng có Sơ phát tâm Bồ-tát,
Gia hạnh Bồ-tát, Địa thượng Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Hiểu rõ như thế
chúng ta mới có một ấn tượng rõ rệt để phát tâm một cách vững chắc, tu hành một
cách sáng suốt. Địa vị đã khác nhau như thế, thì tại sao chúng ta cũng được gọi
là Bồ-tát, các vị Gia hạnh, Địa thượng, Địa hậu cũng gọi là Bồ-tát cả? Bởi vì
tuy cấp bậc khác nhau, nhưng có mộl điểm đồng nhất, đó là Bồ-đề tâm. Bắt đầu
phát Bồ-đề tâm là phát tâm thượng cầu hạ hóa (trên cầu được giác ngộ, dưới cầu
hóa độ chúng sinh). Tâm đó phát ra giờ phút nào thì chính giờ phút đó, chúng ta
được gọi là Bồ-tát. Tâm ấy bền chắc mãi mãi, suốt thời gian không gian không bao
giờ lay chuyển, cho đến khi trải qua các địa vị Gia hạnh, Địa thượng, Địa hậu
vẫn một tâm Bồ-đề ấy, không khác gì một sợi chỉ xuyên các hột chuỗi. Nhìn vào
địa vị thì có Sơ phát tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa thượng Bồ-tát, Địa hậu
Bồ-tát khác nhau. Chúng ta không thể nào sánh bằng đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế
Chí; chúng ta cũng không thể nào sánh bằng những vị Bồ-tát trên các địa vị Tín,
Trụ, Hạnh, Hướng ở Thập địa... nhưng bên trong vẫn là một tâm Bồ-đề xuyên suốt
tất cả. Vì cái tâm Bồ-đề xuyên suốt tất cả đó mà tất cả đều được mang danh từ
Bồ-tát, căn cứ vào sự phát Bồ-đề tâm. Như đức Bổn sư Thích-ca của chúng ta, lúc
ban sơ cũng là một chúng sinh lăn lộn trong vòng luân hồi đau khổ. Một hôm nọ,
như bao nhiêu chúng sinh khác trong cảnh địa ngục, phải vất vả kéo xe mà còn bị
ngục tốt hành hạ, Ngài phát tâm mong sao cho mình được mạnh khỏe để kéo thay cho
tất cả những chúng sinh khác để họ khỏi bị hành hạ. Bắt đầu từ đó, Ngài phát một
tâm lợi tha. Tâm ấy là căn bản, rồi từ đấy chuyển nghiệp tiến tu, cho đến khi
thành Phật, tâm Bồ-đề ấy vẫn không dứt đoạn. Cũng vì sự phát lâm ấy là một sự
phát tâm rộng lớn, căn cứ vào Đại thừa tánh, nên Kinh thường tán thán rằng những
người nào phát Bồ-đề tâm tức là đã thành giác ngộ, không cần trải qua các địa
vị, vì đã cầm chắc trong tay quả vị giác ngộ rồi. Bởi thế, sự phát Bồ-đề tâm trở
thành Bồ-tát là một điều hết sức quan trọng.
Khi đức Phật dạy các giới pháp Sa-di
và Tỳ-kheo, khi chúng ta lãnh thọ các giới pháp ấy, là chúng ta đã trở thành
những người xuất gia với những giới luật và tư cách đã đầy đủ lắm rồi. Nhưng còn
phương diện lợi tha, hành đạo rộng rãi vô biên nữa nên Phật mới căn cứ vào tâm
địa giác là giác tánh có sẵn ở trong tất cả chúng sinh cũng như nơi đức Phật và
Bồ-tát. Tất cả đều có tâm địa giác, nhưng ở chúng ta thì không thành tâm địa
giới, bởi vì tâm địa giác ở chúng ta không được để ý, không được khai thác,
không được khuếch truơng, không được hiểu biết. Tâm địa giác nơi chúng ta luôn
bị vùi lấp dưới những hành vi sai quấy, những nghiệp chướng nặng nề, những tâm
niệm ích kỷ, nên không thành Đại thừa tâm địa giới. Phật thấy chúng sinh đã có
tâm địa giác nhưng chưa có tâm địa giới, nên mới căn cứ vào tâm địa giác đó mà
chế ra những điều mục tu hành để thành tựu tâm địa giới. Tâm địa giới ấy gọi là
Đại thừa Bồ-tát tâm địa giới mà hôm nay các vị sắp thọ. Tâm địa chúng ta vốn có
khả năng ngăn ngừa tất cả điều ác, Phật từ đó chế ra Nhiếp luật nghi giới. Tâm
địa chúng ta vốn đủ khả năng làm mọi điều lợi ích, chuyển nghiệp, căn cứ vào đó
Phật chế ra Nhiếp thiện pháp giới. Tâm địa chúng ta vốn là giác tánh bình đẳng,
lợi lạc hữu tình, từ bi hỉ xả, quảng đại vô biên, vô lậu, Phật căn cứ vào đó chế
ra Nhiếp chúng sinh giới (Nhiêu ích hữu tình giới). Tu tập theo Nhiếp luật nghi
giới, chúng ta ngăn ngừa mọi tội lỗi ba nghiệp thân miệng ý. Tu tập theo Nhiếp
thiện pháp giới, chúng ta làm mọi việc lành, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh
hay tám muôn bốn nghìn pháp môn mà đức Phật đã chỉ giáo cho chúng ta tu hành.
Nhiếp luật nghi giới là 10 giới trọng cấm và 48 giới khinh mà kinh Phạm Võng đã
đề ra và lát nữa đây các vị sẽ thọ. Tám vạn bốn nghìn pháp môn là những pháp môn
phụng thờ Tam Bảo, thừa sự Như Lai, không phải một hai đức Phật mà vô lượng đức
Phật. Với một tâm Đại thừa quả cảm, dõng mãnh tinh tấn phụng thờ Tam Bảo mà khi
gặp đức Phật Đề-sa đi ngang qua, Ngài (Bồ-tát Thích-ca văn) đã say sưa chiêm
ngưỡng đức Phật trong bảy ngày; một cái chân giơ lên, không để xuống mà không
biết; mắt không nháy mà không hay. Lúc đó Ngài chỉ thấy việc tán dương đức Phật
là sung sướng, quý báu hơn tất cả, thời gian không có nữa đối với Ngài. Nhiếp
thiện pháp giới có vô số phương pháp tu tập, nhưng nói tóm Tứ nhiếp, Lục độ là
những phương pháp viên mãn nhất để lợi lạc chúng sinh. Cuối cùng, vượt lên trên
tất cả Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới là Nhiếp chúng sinh giới. Đây
là một điều nhằm vào sự cứu độ chúng sinh, lợi lạc hữu tình. Trong Sa-di giới,
Tỳ-kheo giới, sự cứu độ này được coi nhẹ, nhưng ở Bồ-tát giới thì rất trọng. Vì
lẽ, một tâm Bồ-đề “thượng cầu hạ hóa” là một tâm nhìn xa, thấy rộng, biết sâu
không phải là một tâm còn hạn cuộc trong một chúng sinh, trong một thân ngũ uẩn.
Tâm đó vượt ngoài biên cương của một thể xác để nhìn khắp tất cả chúng sinh cùng
chung một tâm địa giác như mình, khổ đau như mình, cùng chung một khả năng giác
ngộ như mình, để theo niệm đại bi đồng thể đó mà cứu độ tất cả. Tu tập theo đó
là Nhiếp chúng sinh giới.
Nói tóm lại, Bồ-tát giới chia ra từng
đề mục, 10 giới trọng, 48 giới khinh, nhưng tóm tắt có ba mục chính yếu gọi là:
1. Nhiếp luật nghi giới: ngăn ngừa
tất cả tội lỗi.
2. Nhiếp thiện pháp giới: làm tất cả
việc lành.
3. Nhiếp chúng sinh giới: làm những
việc ích lợi chúng sinh.
Trong Tỳ-kheo hay Sa-di giới, đức
Phật dạy chúng ta chú trọng vào việc giải thoát sinh tử luân hồi. Sự giải thoát
sinh tử này nhằm vào bản thân, nên giới cấm đầu tiên, đức Phật răn chúng ta bất
dâm, rồi mới đến bất đạo, bất sát, bất vọng. Dục là căn bản của vô lượng sinh tử
luân hồi. Còn nước ái dục thì gốc luân hồi còn sinh mãi; nước ái dục hết thì gốc
luân hồi sẽ phải cháy khô. Thấy rõ như vậy, nên đức Phật dạy người xuất gia,
muốn cầu giải thoát thì phải chú trọng đến việc diệt trừ ái dục. Do đó, giới
trọng đầu tiên của Tỳ-kheo là bất dâm, rồi mới đến bất đạo, bất sát, bất vọng.
Trong Bồ-tát giới, không phải chỉ ngó vào mình mà xoay cái nhìn vào chúng sinh,
cho nên giới trọng đầu tiên là bất sát rồi mới đến bất đạo, bất dâm, bất vong.
Trong Tỳ-kheo thì bất dâm đứng đầu, trong Bồ-tát giới thì bấl sát đứng đầu, vì
Bồ-tát xem việc cứu chúng sinh trọng hơn việc giải thoát luân hồi sinh tử của
bản thân. Vì sự sai biệt ấy, nên nếu muốn hoàn thành cả hai khía cạnh tự giác
giác tha, tự lợi lợi tha thì phải thọ cả giới Sa-di, Tỳ-kheo và Bồ-tát. Cũng
chính vì lẽ đó, mà sau khi thọ Sa-di giới, Tỳ-kheo giới, các vị đã hăng hái thọ
thêm Bồ-tát giới.
Cái nhìn đã khác, mục đích đã khác,
cho nên những điều mục tu hành ở Bồ-tát giới cũng khác. Chẳng hạn, ở giới Sa-di,
uống rượu là một trọng tội, nhưng qua giới Bồ-tát, bán rượu là một trọng tội,
đem ruợu mời kẻ khác là một trọng tội, vì lẽ trong khi uống rượu, mình chỉ mất
phần tự lợi, còn bán rượu hay mời rượu là làm hại bao nhiêu người khác. Đó là
cách phân biệt để thấy rõ sự khác biệt, sự liên hệ giữa hai giới. Vậy nhằm vào
việc giải thoát bản thân, chúng ta nên giữ giới Tỳ-kheo, nhằm mục đích lợi tha
thì nên giữ giới Bồ-tát.
Giới Bồ-tát luôn luôn nhìn đến chúng
sinh dưới những khía cạnh đau khổ mà chúng sinh phải gánh chịu. Chính những đau
khổ đó, mình cũng mắc phải, nhưng kẻ không có Bồ-đề tâm thì không bao giờ biết.
Bằng vào sự khổ của mình mà thông cảm với nỗi khổ của người khác; bằng vào sự ưa
muốn của mình mà cảm thông sự ưa muốn của kẻ khác; do đó, cứ muốn chúng ta sống
mà không biết đến kẻ khác chết, cứ muốn chúng ta vui mà không kể gì đến kẻ khác
khổ. Vì thiếu tâm Bồ-đề nên không bao giờ có được sự thông cảm đại đồng đó mà
thuật ngữ Phật giáo gọi là đồng thể đại bi. Người thọ giới Bồ-tát luôn luôn đem
tâm Bồ-đề thông cảm với mọi chúng sinh qua những cạnh khía an lạc, khổ đau để
cứu giúp tất cả Đó là yếu điểm của tâm Bồ-đề, của giới bổn Bồ-tát.
Giới Bồ-tát muốn thọ trì, truớc hết
phải phát Bồ-đề tâm, vì đây là giới mà đức Phật đã căn cứ vào tâm địa giác để
chế ra. Có Bồ-đề tâm thì giới ấy mới được thành tựu; mất Bồ-đề tâm thì giới ấy
không thể hành trì. Bồ-đề tâm là tâm viên mãn, tâm giải thoát, tâm giác ngộ, tâm
vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, như trong kinh Kim Cang Phật dạy:
“Dĩ vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, tu nhất thiết thiện pháp tức đắc
A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề; nhược hữu ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, tức
thị ma nghiệp”.
Nhờ phát Bồ-đề tâm mà chúng ta có thể
thành tựu được trí giác sáng suốt, không bị vô minh mù quáng che lấp. Cho nên
những vị Bồ-tát có khi làm những việc long trời lở đất mà chúng ta không thể
làm, nếu không sáng suốt. Và giả như có nhắm mắt làm càn cho long trời lở đất
thì lại thành ra tai nạn. Bởi thế, phát Bồ-đề tâm cũng là tôi luyện trí Bát-nhã
để có thể nhìn thấy mọi khía cạnh của việc làm lợi lạc chúng sinh. Phát Bồ-đề
tâm, hành Bồ-tát giới là phát bốn hoằng thệ nguyện:
– Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
– Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
– Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
– Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành.
Bốn đại nguyện là duyên theo Bốn đế
mà phát ra. Một người muốn giữ trọn Bồ-tát giới phải phát Bồ-đề tâm, lập bốn đại
nguyện. Từ căn bản đó mới phát sinh, thành tựu các giới đức viên mãn.
(Khai đạo Giới tử thọ Bồ-tát giới tại
giới đàn Vĩnh Gia, năm 1970).
--- o0o ---
Mục Lục >
01 >
02 >03
> 04
> 05
> 06 >
07 >
08 >
09 > 10
--- o0o ---
Nguồn: Thư Viện Hoa Sen.
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-8-2007