Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo - 2002
CƯƠNG
YẾU GIỚI LUẬT
Thích Thiện Siêu
---o0o---
10
THỌ
GIỚI LÀ LÀM CHO PHẬT PHÁP
MIÊN
TRƯỜNG GIỮA THẾ GIAN
Các vị giới tử,
Hôm nay các vị đến đây để lãnh thọ
giới pháp của Phật. Đó là một việc làm có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ sự thọ
giới mà chúng ta trở thành một Phật tử chân chính, lợi mình, lợi người, lợi tất
cả chúng sinh và làm cho Phật pháp miên trường giữa thế gian. Vì lẽ đó quý vị
nên lắng hết tâm thành để lãnh thọ những lời Phật dạy qua sự giáo giới của chư
Tăng.
Ngày nay Phật tử đến với giáo pháp
của Phật là cốt tìm một phương pháp giải thoát an lạc; cũng như ngày xưa Phật
còn tại thế, các vị cư sĩ cũng đi đến với Ngài để cầu mong sự chỉ giáo nơi Ngài,
hầu đem lại cho họ một cuộc sống hạnh phúc an vui. Kinh Tăng chi bộ III.A ghi
lại rằng: Một hôm, một cư sĩ tại gia đệ tử tên là Dighajanu (đầu gối dài) đi đến
Thế Tôn, đảnh lễ và bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn, chúng con là những người gia
chủ, còn hưởng thọ các dục, sống hệ phược với vợ con, dùng các thứ hương hoa,
phấn sáp, thọ lãnh vàng bạc. Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những
người như chúng con; thuyết thế nào để những pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh
phúc an lạc ngay trong hiện tại và hạnh phúc an lạc trong tương lai”.
Ngày nay, các Phật tử tại gia đến
đây, dù không nói rõ trong tâm tư, nhưng có lẽ cũng ôm ấp một hoài bão tương tự,
ấy là làm thế nào để với tư cách một tại gia cư sĩ còn thọ hưởng dục lạc, có
được một đời sống hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và cả về tương lai.
Mặc dù vị thương gia này sống với dục
lạc thế gian, song ông nhận thấy những tài sản vật chất chỉ giúp cho ông sống
chứ không giúp cho ông an lạc. Ở giữa quyến thuộc vợ con đầy đủ, danh vọng tràn
trề, tài sản sung túc, nhưng nếu tâm tư còn trĩu nặng âu lo, sợ hãi, tham lam,
thù hận, thèm khát, thì dĩ nhiên sự sống đó chưa phải là sự sống an lạc. Cầu
mong Phật ban cho một phương pháp đem lại cho ông hạnh phúc lâu dài, ông cư sĩ
ấy còn nhấn mạnh, trong khi vẫn thụ hưởng dục lạc, chứ không phải cạo tóc xuất
gia sống đời sống thoát tục như những vị Tỳ-kheo. Đó là một lời hỏi rất chân
thành, tha thiết đồng thời cũng là một viên đá thử vàng. Đạo Phật dù cao siêu vi
diệu thật, nhưng có ích lợi gì cho cái tuyệt đại đa số người còn lăn lóc trong
thế gian hay không? Hay muốn theo Phật thì phải ly gia cát ái? Câu trả lời của
Phật sau đây cho chúng ta thấy rằng, đức Phật đặc biệt chú trọng đến đời sống
của tại gia cư sĩ biết là dường nào.
Phật dạy người ấy rằng: “Này cư sĩ,
có bốn pháp này đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho thiện nam tử.
Thế nào là bốn? Đó là 1. Đầy đủ sự tháo vát; 2. Đầy đủ sự phòng hộ; 3. Làm bạn
với thiện; 4. Sống thăng bằng điều hòa.
1. Thế nào là đầy đủ sự tháo vát? Đầy
đủ sự tháo vát nghĩa là, tại gia cư sĩ dù làm nghề nghiệp gì cũng cần phải tinh
xảo, siêng năng không biết mệt mỏi; biết suy tư, hiểu phương tiện, vừa đủ để tự
làm và điều khiển người khác làm.
2. Thế nào là đầy đủ sự phòng hộ. Đầy
đủ sự phòng hộ nghĩa là những tài sản đã do tháo vác siêng năng mà thu hoạch
được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp kiếm được phải khéo gìn giữ phòng hộ, để cho
khỏi bị vua mang đi, bị trộm cướp mang đi, bị lửa đốt, bị nước trôi, bị con hư
hỏng phá tan. Đây là những lời dạy rất thiết thực. Vì hàng tại gia không như
xuất gia khất thực để sống, mà còn phải có nhiều bổn phận đối với cha mẹ, vợ con
quyến thuộc, cho nên cần phải có một nghề nghiệp chính đáng để làm ra của cải.
Muốn thế, cần phải siêng năng, tinh xảo trong công việc, nghề nghiệp của mình.
Nếu không siêng năng tháo vác thì đã bị lôi cuốn vào những việc bất chính để
kiếm tiền. Một khi mạng sống không chính đáng như vậy, của cải làm được do nghề
nghiệp bất lương sẽ bị vua chúa tịch thâu. Vậy, cách giữ gìn cửa cải khỏi bị vua
mang đi là phải có nghề nghiệp chính đáng. Nhưng tài sản đã do mồ hôi kiếm được
một cách khó khăn như thế cần phải đề phòng các tai nạn nước, lửa, trộm và nhất
là con hư phá tán. Đây là lời dạy rất thiết thực. Có nhiều nhà giàu có, vì quá
thương con mà để chúng xài phí của cải không tiếc vào những cuộc cờ bạc rượu chè
say sưa, như vậy là dung dưỡng những kẻ bất lương phá của, hại cho gia đình, xã
hội và quốc gia. Vì khi nó đã phá của cha mẹ hết rồi sẽ đi phá làng xóm láng
giềng, hại cả mọi người. Bởi thế, Phật dạy có tiền cần phải phòng hộ, đừng để
lọt vào tay những đứa con hư hỏng. Nghĩa là ngoài việc làm giàu, cần nên giáo
dục con cái cho cẩn thận nữa.
3. Thế nào là làm bạn với thiện? Làm
bạn với thiện nghĩa là, tại nơi mình sống, làng hay thị trấn, mà có những người
gia chủ hay con trai gia chủ có giới đức, đầy đủ lòng tin, bố thí, trí tuệ thì
nên làm quen nói chuyện, thảo luận với họ. Từ những người đầy đủ lòng tin, hãy
học tập lòng tin; từ những người đầy đủ giới đức, học tập giới đức; từ những
người đầy đủ bố thí, học tập bố thí; từ những người đầy đủ trí tuệ học tập trí
tuệ. Đây là làm bạn với thiện. Hai lời dạy đầu là dạy làm ra của cải vật chất và
giữ gìn nó. Đến điều thứ ba này là dạy về pháp tài đức, của cải, tinh thần, tâm
linh để thế gian khỏi chê cười là nhà giàu có của mà vô lương tâm. Vậy, người
tại gia phải trau dồi Phật pháp để có những ngôn ngữ, hành động, ý nghĩ phù hợp
với giáo lý để trở thành một nhân cách cao thượng.
4. Thế nào là sống thăng bằng điều
hòa? Sống thăng bằng điều hòa nghĩa là: Sau khi làm ra của cải, cần phải chi
dùng một cách thích ứng, nghĩa là không quá phung phí mà cũng không quá bỏn xẻn.
Nếu số xuất quá số nhập là người tiêu pha quá rộng rãi, thì dễ bị phá sản và còn
hỏng mất cả tâm tư. Ngược lại, quá bỏn xẻn, không dám tiêu tiền thì trở thành nô
lệ cho của cải. Người làm chủ của cải vật chất thì sống an lạc, mà bị vật chất
làm chủ thì đó là người nô lệ, khổ sở. Làm chủ vật chất là cần phải tiêu dùng
thì cứ tiêu dùng, không cần tiêu dùng thì giữ lại. Người bị của cải làm chủ thì
có tiền cứ giữ bo bo, tiêu dùng cho bản thân cũng không dám, nói gì đến gia
quyến, vợ con và bố thí cho người ngoài.
Như vậy, sống thăng bằng có nghĩa là
không phung phí cũng không hà tiện. Phật dạy đến bốn nguyên tắc để sống điều hòa
là, cần phải đóng bốn cửa ngõ cho tài sản khỏi đi ra: một là đam mê sắc dục, hai
là đam mê rượu chè, ba là đam mê cờ bạc, và bốn là giao du kẻ ác. Nếu đóng bốn
cửa ấy lại thì tài sản không bị thất thoát vô ích, gia chủ sẽ được sống hạnh
phúc, an lạc.
Khi Phật dạy làm bạn với thiện để
trau dồi lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ, chính là bốn điều để sống an lạc
trong tương lai. Phật tử quy y Tam Bảo là thực hiện đầy đủ lòng tin. Hôm nay,
quý Phật tử đến thọ giới chính là để thực hiện điều thứ hai: đầy đủ giới đức. Là
Phật tử mà không giữ gìn giới hạnh, hành động tà vạy, không xứng đáng lời dạy
của đức Thế Tôn, thì dù có xưng là Phật tử cũng không phải là Phật tử. Cho nên
có đầy giới đức mới xứng đáng là con Phật.
Thứ ba, đầy đủ bố thí. Bố thí là hạnh
đầu tiên mà đức Phật dạy cho tất cả những ai đến với Ngài. vì lòng tham ô đứng
đầu mọi tệ ác cần phải được điều phục bằng hạnh bố thí. Bố thí là san sẻ vật
chất, khả năng, công lực, hiểu biết, tình cảm, giáo lý v.v... tất cả những gì
mình có mà người khác không có. Một nụ cười với người đang sợ hãi cũng là một sự
bố thí, đôi khi có tác dụng rất lớn lao. (Có người lắm khi chỉ một nụ cười mà
người ta cũng ngăn lại không cho mở ra?). Bố thí cao nhất là mở rộng lòng, mở
rộng tâm tư. Nếu chỉ biết thu mà không biết xuất thì người ấy là một người bỏn
xẻn, ích kỷ. Xã hội mà gồm những người như vậy thì không hạnh phúc. Một gia đình
ai cũng chỉ nghĩ cho bản thân thì gia đình ấy không hạnh phúc. Bố thí trước hết
là để dứt lòng tham, dứt tính bỏn xẻn và dứt lòng ganh tị. Có của, có quyền, có
danh đều nên bố thí, san sẻ. Bố thí, san sẻ danh dự như thế nào? Khi được người
trân trọng mà mình đối lại bằng khiêm cung thì đó chính là bố thí danh dự của
mình. Như vậy chẳng những tạo được hạnh phúc cho mình mà còn đem lại an vui hạnh
phúc cho người. Bởi thế nên, không phải chỉ có tiền của mới bố thí, mà hễ có
thân, có tâm là có thể bố thí được cả. Nếu trong tâm mọì người đều luôn nghĩ đến
bố thí thì sự đua tranh, ganh tị sẽ giảm bớt rất nhiều.
Điều thứ tư là đầy đủ trí tuệ. Người
Phật tử là con đấng Đại giác. Ngài đã chứng ngộ tất cả vũ trụ, tâm tánh chúng
sinh, nên dạy giáo pháp phù hợp với căn cơ, trình độ để chúng sinh nhờ đó nuôi
lớn tâm hồn. Là con đấng Giác ngộ mà u mê thì thật không xứng, nên cần phải trau
dồi trí tuệ. Phật dạy: “Mọi sự tuần hoàn trong nhân duyên nhân quả”. Nghe như
vậy, chúng ta cần phải suy xét ra như thế nào? Nghe là văn tuệ; suy xét là tư
tuệ. Như nghe cho đúng, có đầu có đuôi rõ ràng mới là văn tuệ. Có người đi nghe
pháp về, có ai hỏi chỉ biếl trả lời: “Hay lắm mà không nhớ gì cả”. Vậy cần phải
ghi nhớ mỗi khi một ít, để tư duy rồi tu tập theo đó, tức là tu tuệ. Có thực
hành giáo lý bằng kinh nghiệm bản thân thì mới hiểu thấu lời Phật dạy.
Như ngày xưa, có lần Phật đi giữa
đồng, tay chỉ vào một bụi rậm bảo “Độc xà, A-nan?”. Tôn giả A-nan nhìn vào, cũng
nói “Đại độc xà, Thế Tôn”. Tình cờ một nông phu đi sau lưng nghe lén, bèn vào
xem là cái gì, anh ta khám phá thấy một hủ đầy vàng ròng, vô cùng mừng rỡ, bảo
thầm: “Nghe đồn Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí, cái gì cũng biết, vậy mà vàng
đây, ổng lại bảo là rắn độc?”. Anh liền khiêng vàng về, tậu mãi nhà cửa, ruộng
đất, xe cộ... Xóm giềng thấy anh lâu nay nghèo kiết xác, ăn bữa hôm lo bữa mai,
nay bỗng dưng phál giàu, thì không khỏi nghi ngờ, lên trình quan. Quan gọi lên
tra hỏi và về nhà lục xét, lấy hết vàng bạc và bắt anh bỏ tù. Ngồi trong ngục
tối anh mới thấm thía lời Phật dạy. Anh tưởng là từ nay sẽ được ăn cao lương mĩ
vị, thì ngược lại bị giam đói Anh tưởng từ nay được ở nhà cao cửa lớn, hóa ra
lại nằm trong ngục. Cảm khích, anh ta kêu to: “Độc xà, A-nan! Đại độc xà, Thế
Tôn!”. Quan giữ ngục nghe, hỏi lý do, anh ta kể đầu đuôi câu chuyện rồi kết
luận: “Giờ phút này ở trong tù, con mới tỉnh ngộ, tin hiểu
lời Phật dạy thật sâu xa vô cùng”.
Không dễ gì ngày nay: Phật tử chúng ta đã tỉnh ngộ, tin theo lời dạy của Thế
Tôn. Giả sử một sớm mai đẹp trời, đi giữa đường gặp thỏi vàng như vậy, chúng ta
có mang về không? Chắc cũng mang về cho nên, lắm lúc người ta bảo Phật dạy không
thực tế, viển vông, nhưng hàng Phật tử cần nhận thức cho rõ có phải lời Phật là
chí lý hay không? Chẳng qua: vì lòng tham của chúng ta còn quá nặng, nên không
làm ngơ được. Nhưng khi chưa nghe lời Phật dạy thì chúng ta sử dụng vàng một
cách khác, khi đã nghe, sử dụng cách khác. Nghĩa là, phải biết bắt rắn như thế
nào cho nó khỏi cắn. Ở đây, là đừng vị kỷ, vì tất cả việc làm vị kỷ đều xấu, vị
tha đều tốt. Nếu đem vàng về mà làm việc lợi tha thì đó là biết cách bắt rắn.
Không những vàng mà mọi chuyện khác cũng đều như vậy. Nếu thiếu trí tuệ, thì
chúng ta làm sao hiểu rõ lời dạy thâm thúy và hạnh phúc mà lời dạy ấy sẽ mang
lại cho ta? Vàng mà bảo là rắn độc, thì cũng không khác gì nói “đời là đau khổ”!
Nếu không có trí tuệ, chúng ta cũng sẽ bảo như anh nông phu kia rằng: “Thật là
viển vông? Nào xi-nê, nào hát bội, nào cải lương... bao nhiêu chuyện vui như vậy
mà lại nói là đau khổ!” Có trí tuệ là có nhận thức, biết được sự việc trước khi
nó xảy đến, chứ không phải chờ nó xảy ra rồi mới biết. Trí tự giác là một ngọn
lửa sáng từ trong tâm khiến cho chư Phật và Bồ-tát, Tổ sư thấy ngay được chân
lý, không cần thầy dạy, đó cũng gọi là vô sư trí, vô sư tự ngộ hay tự giác Thánh
trí. Nhưng đó cũng là do công phu lâu đời lâu kiếp mới có được.
Nếu là Phật tử mà lấy tà làm chánh,
không biết phân biệt phải trái hay dở thì không phải có trí tuệ và dễ trở thành
mê tín, dị đoan, tin theo là sư ngoại đạo. Do đó, điều thứ tư Phật dạy cho các
Phật tử tại gia là phải trau giồi trí tuệ để được hạnh phúc trong hiện tại và
tương lai.
Tóm lại, Phật dạy cho người tại gia
bốn pháp an lạc cho hiện tại là: tháo vác, phòng hộ của cải đã kiếm được bằng
nghề chân chính; làm bạn với thiện và sống thăng bằng điều hòa. Và bốn pháp tạo
hạnh phúc cho tương lai, đời sau là: lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ. Có
đủ tám điều như vậy, thì giờ phút nào, ở đâu, chúng ta cũng xứng đáng là Phật
tử, không những lợi ích cho chính mình mà còn cho nhiều người khác. Nếu không có
trí tuệ hiểu rõ chánh pháp, chúng ta sẽ đi lạc vào đường tà. Như một Phật giáo,
mà không biết bao nhiêu là hình thức, nếu Phật tử không nhận thức, thiếu trí tuệ
thì không thể biết được chơn, giả. Cho nên, có trí tuệ là điều cần thiết để hộ
trì chánh pháp.
Xưa, hiền triết Socrate đã hỏi và đã
được một thanh niên trả lời rành rọt các nơi dạy may áo, đóng dày, làm mũ nón,
nhưng đến khi nhà hiền triết hỏi anh có biết ở đâu dạy làm người không thì anh
ta ngơ ngác. Áo, giày, mũ nón thật sang trọng nhưng nó không phải là người! 'Nếu
không biết cách làm người thì dù có mang đầy các thứ đó cũng không thể làm người
được. Nếu chúng ta học được đạo làm người thì giày ấy, mũ nón ấy, y phục ấy mới
gọi là của người.
Hôm nay quý vị đến thọ giới cũng là
để học cái đạo làm người, căn bản của tất cả Thánh vị; đạo ấy gồm trong ba đức
Bi, Trí, Dũng, nên đức Phật được tôn xưng là Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi.
Mong rằng quý vị sẽ đem hết tâm thành
để lãnh thọ giáo pháp. Cuốỉ cùng xin nhắc lại câu của đạo hữu Tâm Minh Lê Đình
Thám, một vị cư sĩ có công lớn đối với sự phục hưng Phật giáo Việt Nam để quý vị
tinh tiến theo đó tu học:
Vui theo tham dục, vui là khổ,
Khổ để tu hành, khổ hóa vui.
(Khai đạo Giới tử thọ Thập thiện giới
và Bồ-tát tại gia, chùa Già lam, 10-1982, PL.2526)
--- o0o ---
Mục Lục >
01 >
02 >03
> 04
> 05
> 06 >
07 >
08 >
09 > 10
--- o0o ---
Nguồn: Thư Viện Hoa Sen.
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-8-2007