Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo - 2002
CƯƠNG
YẾU GIỚI LUẬT
Thích Thiện Siêu
---o0o---
06
BỒ-TÁT GIỚI
Bồ-tát giới là thông giới, khác với
Tỳ-kheo giới là biệt giới. Bồ-tát giới thì chỉ cần nghe hiểu là thọ được, còn
Tỳ-kheo giới thì phải lục căn hoàn bị mới thọ được.
Bồ-tát dịch từ chữ Buddhisattva
(Buddhi: giác ngộ; sattva: hữu tình, chúng sinh, tức một chúng sinh có thể giác
ngộ thành Phật). Trong kinh Phạm Võng nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật
tính. Nhữ thị đương thành Phật, ngã thị dĩ thành Phật, thường tác như thị tín,
giới phẩm dĩ cụ túc”. Hết thảy chúng sinh đều có thể thành Phật. Ta là Phật đã
thành, các ngươi là Phật sẽ thành. Ai mà tin ở điều đó thì giới phẩm đã thành
tựu rồi, còn về giới tướng là để thực thi tâm Bồ-đề này mà thôi. Giới Bồ-tát
được nói trong Phạm Võng.
I. Phạm Võng.
Vì sao gọi là Phạm Võng? Vì Phật
nhìn lên trên lưới của trời Đế-thích như cái võng có nhiều mắc. Chính lưới có
mắc ấy nó đang chiếu phản ánh lẫn nhau thành vô tận. Kinh Hoa Nghiêm ví cho lý
trùng trùng duyên khởi cũng như lưới Đế-thích.
Một mặt gương phản chiếu ánh sáng
qua trăm ngàn cái gương khác. Trăm ngàn cái gương khác chiếu lại trong một cái
gương này, như vậy là trùng trùng vô tận, không biết bao nhiêu cái gương, bao
nhiêu ánh sáng chiếu qua chiếu lại; nhân đó Phật nói kinh Phạm Võng. Kinh này ý
nghĩa đồng như kinh Hoa Nghiêm, gồm 61 phẩm. Phẩm Bồ-tát tâm địa giới là do Ngài
La-thập dịch.
II. Tâm địa giới.
Thế nào là tâm địa giới?
1. Pháp môn thì nhiều nhưng không ra
ngoài tâm. Cho nên nêu tâm là nêu đủ các pháp. Tâm là bổn nguyên của thánh và
phàm. Ngộ được bổn nguyên đó là thành Phật, thành Bồ-tát; không ngộ thì thành
chúng sinh lưu chuyển. Bồ-tát vốn ngộ tâm đó cho nên mới thọ Bồ-tát giới này và
y theo giới tâm địa mà làm. Nhân thì giống như đại địa. Đại địa có hai tính
cách:
a. Muôn vật muôn thú từ nơi đó mà
phát sinh; muôn giới muôn đức cũng từ đó mà phát sinh.
b. Tâm Bồ-tát như đất, không phân
biệt tịnh uế; đổ nước hoa cũng được, nước thối cũng xong, với một tâm bình đẳng
với tất cả chúng sinh; ai khen cũng được, ai chê cũng không sao, cốt làm thế nào
tự lợi lợi tha, không vì tiếng tốt xấu khen chê mà bỏ mất tự lợi lợi tha. Tâm
Bồ-tát cũng như đất, không có hiềm chuyện tốt xấu, khen chê, sạch nhớp nên gọi
là tâm địa.
Phẩm này có hai phần thượng và hạ.
Phần thượng là hóa thân đức Thích-ca hỏi đức Lô-xá na, do nhân duyên gì mà
Bồ-tát thành tựu được Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác Phật? Ngài Lô-xá-na vì đại
chúng mà nói: Thập phát thú tâm, Thập trưởng dưỡng tâm, Thập hồi hướng tâm.
Thanh văn có 4 quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Còn Bồ-tát biệt
giáo thì có 52 vị: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng
giác và Diệu giác.
1. Thập tín: Phật
dạy: Thập tín chỉ mới là bước đầu, tâm cùng lý hợp, lòng tin đối với lý không có
ngại. Ví dụ, đối với lý Tứ đế hay lý “hết thảy chúng sinh là Phật sẽ thành”, có
những người họ không tin, nhưng đối với chúng ta nghe lý Tứ đế, Phật tính là
tin. Trong Bồ-tát, cái lòng tin đó tương đương với Thập tín. Nghĩa là “tâm dữ lý
hợp” (tâm của mình đối với lý Tứ đế, Phật tính nó hợp chứ không chống trái). Nói
Khổ đế là mình tin, cho đến Tập, Diệt, Đạo cũng đều tin như vậy. Nói cách khác,
tâm với lý khế hợp chứ không chống trái nhau. “Tâm dữ lý hợp” chứ không có nghi
ngờ gì hết. Đó là bước đầu để “tùng phàm nhập thánh”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói:
“Phật pháp như biển cả, do lòng tin mà được vào” (Phật pháp như đại hải, do tín
năng nhập). Lòng tin đó là bước đầu tiên để đi lên bậc thánh. Đối với lý Tứ đế
thì có tin mới học, mới tu. Có tin rồi mới giải, mới hành, mới chứng; nếu không
tin thì tìm hiểu lý Tứ đế làm gì; nếu không hiểu thì làm sao mà tu,. không tu
thì làm sao mà chứng? Cho nên phải tin. Tin là bước đầu tiên để vào đạo.
2. Thập trú: Khi đã
tin thì khởi tâm quyết liệt, dứt khoát để đi vào diệu đạo. Do tâm dứt khoát nên
lòng tin đứng yên, bất động không xao lãng nên gọi là trú. Thập trú trong Phạm
Võng có một từ khác là Thập phát thú, Thập giải; tức là mười lòng tin hướng tới
đạo.
3. Thập hạnh: Từ Thập
trú bước lên Thập hạnh, mà Thập trụ đã là Phật tử rồi, bởi lòng tin đã đứng yên
lrên lý của Phật rồi. Như vậy là đã đầy đủ phần tự lợi, nhưng còn phải hướng tới
phần lợi tha nữa, nên phải từ Thập lrụ hướng đến Thập hạnh. Hạnh là hành mọi
điều thiện để lợi tha. Thập hạnh cũng có một từ khác là Thập trưởng dưỡng.
Trưởng dưỡng là gì? Vì lên địa vị này là cứ Tăng tấn tu các điều thiện, làm cho
điều thiện Tăng mãi lên, gọi là trưởng dưỡng. Tức mười bậc trưởng dưỡng các hạnh
lợi tha, để từ đây bước lên Thập hồi hướng.
4. Thập hồi hướng:
Trong Phạm Võng cũng có một từ khác là Thập Kim cang, kiên cố bất động; cũng gọi
là Thập nguyện. Ở Thập tín, Thập hạnh, tâm muốn thoát tục thì nhiều, nhưng tâm
đại bi, lợi tha thì ít. Đến Thập hồi hướng là hướng tâm thoát tục trở về với tâm
đại bi lợi tha để hòa quang đồng trần, cứu độ chúng sinh, lợi lạc hữu tình. Chữ
“hồi hướng” là hồi chơn hướng tục–Khi kia tâm xuất tục là hồi tục hướng chơn,
bây giờ hồi chơn hướng tục, tức là từ nơi tâm xuất tục nhiều, hướng nó về cái
tâm đại bi, lợi tha nhiều hơn nữa. Hồi trí hướng bi– khi kia là nặng về trí, bây
giờ hướng về bi. Trí là tự lợi, bi là lợi tha. Trí là chứng Bồ-đề, bi là lợi
tha. Bây giờ hồi trí hướng bi, chơn tục viên dung, bi trí bất nhị, đầy đủ thần
thông; đến địa vị này gọi là hồi hướng, tức là hồi chuyển mười thiện hạnh hướng
tới ba chỗ:
a. Hướng tới chơn như thật tế (lý),
tức hồi sự hướng tới diệu lý.
b. Hướng tới Vô thượng Bồ-đề (hướng
tới trí giác), (bên kia là lý, bên này là trí, nhưng trí Vô thượng), tức hồi
nhân hướng quả.
c. Hướng tới tất cả chúng sinh, tức
hồi tự hướng tha.
Đó là bốn gia hạnh. Qua khỏi Thập hồi
hướng là tu bốn gia hạnh: Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất. Thập địa–cuối Thế đệ
nhất, đoạn trừ kiến hoặc, chứng lý Nhị không, bước lên Kiến đạo sở hoan hỉ địa,
tu tập thành tựu Giới Ba-la-mật. Tiếp theo là Ly cấu địa, từ kiến đạo vị tiến
lên địa này, y theo chơn lý nhị không đã chứng được mà tu tập đoạn trừ tu hoặc,
cho đến địa thứ mười là Pháp vân địa, tất cả vô minh lậu hoặc hai chướng hiện
hành và chủng tử đều dứt sạch, thành tựu trọn vẹn mười Ba-la-mật, đủ vô biên
công đức, như đám mây lđn, mưa pháp cam lồ tưới mát chúng sinh. (Xem rõ Mười địa
trong luận Thành duy thức). Bồ-tát tâm địa giới phẩm thượng–nói cách khác, ở
Bồ-tát tâm địa giới phẩm thượng thuyết minh về hàng Bồ-tát do sức định tuệ tu
chứng tam hiền, thập thánh. Còn ở Bồ-tát tâm địa giới phẩm hạ là thuyết minh
thập trọng tứ thập bát khinh giới, để cho hàng Bồ-tát y theo tâm địa giới đó mà
tu tập Giới, Định, Tuệ. Thành ra. thượng phẩm chỉ cho quả vị Bồ-tát tu chứng tam
hiền thập thánh–còn phẩm hạ chỉ về thánh nhân, tức chỉ về giới; tức phẩm hạ nói
về nhân, phẩm thượng nói về quả.
Kết luận: Học giới là để cho chúng ta
thấy có những lời dạy của Phật rất hay để mà tu thân, khẩu, ý. Ví dụ, Phật dạy
những lời “ác sự hướng tự kỉ, hảo sự dữ tha nhân”; hoặc “Không được khen mình
chê người” thật đơn sơ nhưng rất cao thượng và khó thực hành. Chúng sinh thì
luôn luôn vị ngã, có khi không tán thán mình một cách trực tiếp, nhưng tự tán
thán mình bằng cách hủy tha, khẩu xuất đao kiếm, chê tất cả, trừ mình. Học như
vậy để biết ai giữ giới ai không, ai tu ai không tu. Nếu không nhờ những lời dạy
ấy, ta dễ trở nên người nhỏ mọn, hẹp hòi. Khen mình, chê người là chuyện rất dễ
làm, nhưng so với đạo lý là thật còn rất xa, đó là làm theo hạnh chúng sinh chứ
không phải theo Phật, Bồ-tát.
III. Tam tịnh giới.
Giới Bồ-tát gồm trong ba tụ tịnh giới
là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình
giới.
Một là gom tất cả gọi là “nhiếp”. Nếu
có luật nghi gì thì luật này đều gom hết, gọi là Nhiếp luật nghi giới.
Hai là nhiếp thiện pháp giới, là có
bao nhiêu điều thiện thì giới này gom hết; lục độ vạn hạnh đều nằm trong đó.
Ba là Nhiêu ích hữu tình giới. Nhiếp
luật nghi là “chư ác mạc tác”, đoạn tất cả ác. Nhiếp thiện pháp là “chúng thiện
phụng hành”. Nhiêu ích hữu tình là lợi lạc chúng sinh. Hai việc nhiếp luật nghi
và nhiếp thiện pháp cũng lợi lạc chúng sinh nhưng gián tiếp, tiêu cực, còn lợi
lạc hữu tình là trực tiếp, tích cực. Ví dụ, không sát sinh thì cũng lợi lạc
chúng sinh, nhưng phóng sinh còn hơn thế, hợp với câu kệ “tự tịnh kỳ ý”. Không
làm ác cũng là tự tịnh kỳ ý nhưng còn thấy có người có ta nên chưa rốt ráo, phải
đến chỗ “tam luân không tịch”, theo tinh thần kinh Kim-cang mới là tự tịnh kỳ ý.
Nếu không có tinh thần đó thì rất dễ chán. Khi phát tâm độ chúng sinh mà chúng
sinh bạt tai mình, làm sao chịu nỗi sự ngang ngược ấy! Cũng là bố thí nhưng với
tinh thần khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Một câu kệ cũng đủ tam tụ tịnh
giới, đủ theo đó để tu hạnh Bồ-tát. Hoặc như bốn hoằng thệ nguyện, thì “Chúng
sinh vô biên thệ nguyện độ” là Nhiêu ích hữu tình giới. “Phiền não vô tận thệ
nguyện đoạn” là đoạn nhất thiết ác, là Nhiếp luật nghi giới. “Pháp môn vô lượng
thệ nguyện học” là tu nhất thiết thiện, là Nhiếp thiện pháp giới. Như vậy, bốn
hoằng thệ nguyện cũng là ba tụ tịnh giới; đó là giới thể. Còn gọi là giới tướng
thì phải là 10 giới trọng, 48 giới khinh như trong kinh Phạm Võng.
IV. Thọ giới Bồ-tát.
Có hai cách thọ: Một là tự thệ thọ,
là đối trước Tam Bảo phát bốn tâm tịnh tín, đối với Phật, Pháp, Tăng và giới
thanh tịnh bất hoại. Lòng tin thành tựu viên mãn (tứ bất hoại tín) và cầu Phật
gia hộ, khi thấy tướng hảo thì đắc giới. Hai là tùng sư thọ, là do thầy truyền
thọ giới Bồ-tát truyền lại.
V. Mất giới Bồ-tát.
Sau khi thọ giới, trường hợp mất giới
Tỳ-kheo là do năm nhân duyên: Chết, đổi hình (nam thành nữ hay ngược lại), không
tin nhân quả (đoạn thiện căn), tác pháp (nói ra lời “tôi không tu, không làm
Tỳ-kheo nữa” với bất cứ người nào nghe, hiểu được và phạm trọng). Bồ-tát giới
thì chỉ có hai trường hợp mất giới là phạm trọng do thượng phẩm phiền não trói
buộc (ví dụ, cố ý sát nhân mà tâm niệm hành động sát nhân hiện hành liên tục
không biết tàm quý, đó là thượng phẩm phiền não). Còn có trường hợp gọi là “ô
trọng giới”, như ngộ sát, thì không đến nỗi mất giới. Trường hợp hai là xả Bồ-đề
tâm, ví dụ nói: “Tôi không tin việc làm Phật, không phát tâm Bồ-đề nữa”.
Bồ-tát mệnh chung không mất giới, vì
phát nguyện thọ từ kim thân cho đến Phật thân, trừ có hai duyên cớ mất giới như
đã nói trên.
(Chú thích: Khai đạo giới tử thọ Cụ
túc giới năm 1970)
BỒ-TÁT DANH VÀ THIỆT
Thiện Sanh thưa: “Bạch đức Thế Tôn,
Phật dạy có hai hạng Bồ-tát: một là giả danh Bồ-tát, hai là thiệt nghĩa Bồ-tát”.
1. Thế nào là giả danh Bồ tát?
Thiện nam tử, nếu chúng sinh đã phát
Bồ-đề tâm rồi, lại còn ưa lãnh thọ, đọc tụng, ngợi khen, nhớ nghĩ các kinh điển,
pháp thuật của ngoại đạo, và lấy pháp ấy mà giáo hóa chúng sinh; hoặc chỉ vì
thân mạng mình, vui trong đường sinh tử mà không sát hại sinh mạng kẻ khác, tạo
các ác nghiệp thì không tránh khỏi quả khổ tương lai; không ưa tu từ bi, đối với
Tam Bảo lòng sinh nghi ngờ, không chánh tín, quý mến tự thân, không biết nhẫn
nhục, ăn nói sổ sàng, hối hận, buông lung không thể chứng đặng Bồ-đề, e sợ phiền
não mà không cố gắng siêng năng tu tập các phiền não phá hoại kiết sử; tâm hay
tham lam, ganh tị, giận hờn, gần gũi bạn ác, đắm chìm trong vô minh, không tin
lục độ, không ưa tu phước, không quán rõ lỗi lầm của sinh tử và ưa thọ trì những
lời hung dữ của Bồ-tát. Như thế gọi là giả danh Bồ-tát.
Và những chúng sinh đã phát tâm
Bồ-đề, mong đặng Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, nhưng khi phải khổ hạnh tu
hành trải qua vô lượng kiếp rồi mới đắc đạo, thì sinh lòng thối chí, tuy có hành
đạo mà tâm không chơn thật, không tàm quý, không thương xót, hay theo ngoại đạo
hại sinh mạng để tế trời, dẫu có chút lòng tin nhưng không vững chắc, đắm say
ngũ dục, gây nhiều điều ác, ỷ sắc lực, tài của, lòng kiêu mạn làm việc điên đảo,
không biết lợi ích cho người; vì cái vui trong sinh tử mà bố thí; vì cái vui
trong cõi trời mà thọ trì cấm giới; và vì thọ mạng lâu dài mà tu thiền định. Như
thế gọi là giả danh Bồ-tát.
2. Thế nào là thật nghĩa Bồ-tát?
Trái lại, thật nghĩa Bồ-tát là biết
gần gũi cúng dường sư trưởng, cha mẹ, thiện hữu, thọ trì đọc tụng mười bộ kinh
của Như lai; vì Phật pháp mà không tiếc thân mạng, tài sản; không tự khinh rẻ
mình, dang tay làm việc bố thí không tiếc thân mạng; thường dồi mài trí tuệ; tuy
học ngoại điển nhưng cốt để phá các tà kiến và thắng các tà kiến; khéo biết
phương tiện để điều phục chúng sinh; siêng tu tinh tấn, khi rẻ phiền não, làm
cho chúng không được tự do, về cõi Niết-bàn; giữ gìn tinh tấn, cứu hết thảy khổ
não; quán rõ hết thảy tội lỗi sinh tử, tín tâm bền chắc, tu lập từ bi mà không
trông cầu quả báo; từ bi đối với ke oán người thân, tâm vẫn không hai; khi bố
thí vẫn bình đẳng, khi xả thân cũng bình đẳng; biết tướng vô thường không tiếc
thân mạng, biết rõ thế đế nên tùy thuận chúng sinh; khi ít của cải thì cấp cho
người nghèo cùng trước, rồi sau mới cho người phước điền; trước vì người nghèo
khổ, sau mới vì người giàu có; thường khen việc lành của người và khai thị cho
họ vào Niết-bàn; có kỹ nghệ gì đều muốn cho họ học, và thấy học hơn mình thì
sinh lòng vui mừng, chẳng hề vì mình; thường vì người khác. Như thế là thiệt
nghĩa Bồ-tát.
(Lược dịch trong kinh Bồ-tát
U-bà-tắc-giới 1950)
--- o0o ---
Mục Lục >
01 >
02 >03
> 04
> 05
> 06 >
07 >
08 >
09 > 10
--- o0o ---
Nguồn: Thư Viện Hoa Sen.
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-8-2007