CĂN BẢN THUYẾT
NHẤT THẾ HỮU BỘ
TỲ NẠI DA
Hán
dịch: Ðường Tam Tạng NGHĨA TỊNH
Việt dịch: Tỳ-kheo TÂM HẠNH
(PL 2545 - TL 2001)
--- o0o ---
BÍ-SÔ
GIỚI KINH
(No. 1454)
Một quyển
-ooOoo-
Thành kính đảnh lễ đức Thế tôn,
Ứng cúng, Chánh biến tri.
Bài tựa giới kinh:
Kinh Biệt giải thoát khó được
nghe
Trải qua vô lượng, vô số kiếp
Khó được đọc tụng và thọ trì
Hiểu được, thực hành thật khó thay!
Vui thay! Có chư Phật ra đời
Vui thay! Pháp vi diệu được giảng
Vui thay! Tăng già cùng hiểu biết
Vui thay! Hòa hợp và tiến tu
Vui thay! Ðược gặp bậc Thánh nhân
Vui thay! Ðược thân cận bậc ấy
Nếu không gặp những kẻ ngu si
Ðó thật chính là vui mãi mãi
Vui thay! Ðược thấy người trì giới
Vui thay! Ðược gặp bậc đa văn
Gặp bậc La-hán là vui thật
Vì không còn tạo nghiệp luân hồi
Vui thay! Ðược bước sang bờ kia
Vui thay! Chiến thắng bằng chánh pháp
Chứng đắc chánh tuệ, sinh quả Thánh
Trừ hết ngã mạn là vui nhất
Ai có năng lực ý quyết định
Hàng phục tham dục, đủ đa văn
Từ trẻ đến già sống trong rừng
Ưa thích tịch tịnh nơi lan-nhã
Chư Ðại đức! Mùa Xuân sắp tàn,
đã qua... ngày. Hiện nay, với thời gian còn lại... ngày. Già chết lại xâm lấn,
mạng sống lại giảm dần. Giáo pháp của đấng Ðạo sư không bao lâu nữa sẽ không
còn.
Chư Ðại đức! Phải tinh tấn tỉnh
giác, chớ phóng dật. Nhờ không phóng dật, chắc chắn chứng được quả vị Như Lai,
Ứng cúng, Chánh đẳng giác, huống chi các giác phẩm thiện pháp khác.
Ðại đức Tăng già! Những việc gì
phải làm trước? - Chúng Thanh văn của đức Phật thì ít cầu, ít sự. Người chưa thọ
cận viên thì đi ra ngoài. Có các Bí-sô nào thuyết dục và thanh tịnh không?
(Người mang dục ra trước đây trình bày). Có vị nào sai Bí-sô-ni đến thỉnh giáo
thọ không?
Cung kính chắp hai tay
Lạy Thích Ca sư tử
Biệt giải thoát điều phục
Tôi nói, ngài khéo nghe
Nghe xong, phải làm đúng
Như Ðại tiên đã dạy
Ðối với các tội nhỏ
Cũng dõng mãnh hộ trì
Tâm ngựa khó chế ngự
Luôn quản thúc chặt chẽ
Giới luật như dàm sắt
Có trăm vuốt bén nhọn
Người làm trái giới luật
Nghe dạy liền chấm dứt
Ðại sĩ như ngựa giỏi
Sẽ thoát trận phiền não
Người nào không dàm này
Không thể được an vui
Bị trận phiền não vây
Mê chuyển trong sinh tử.
Ðại đức Tăng già lắng nghe! Hôm
nay ngày mười bốn, thuộc hắc nguyệt (hay ngày mười lăm thuộc bạch nguyệt) Tăng
già cử hành lễ Bao-sái-đà. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý
Tăng già cử hành Bao-sái-đà, thuyết giới kinh Ba-la-đề-mộc-xoa. Ðây là lời tác
bạch.
Chư Ðại đức! Tôi xin cử hành
pháp Bao-sái-đà, thuyết minh giới kinh Ba-la-đề-mộc-xoa. Quý vị hãy lắng nghe,
suy nghĩ, ghi nhớ kỹ, nếu có phạm phải phát lộ, không phạm thì im lặng. Vì im
lặng nên biết các Ðại đức thanh tịnh. Nếu khi khác được hỏi đến, quý vị phải trả
lời đúng sự thật. Trước chúng Bí-sô thù thắng này, tôi xin hỏi ba lần, phải đáp
đúng sự thật. Bí-sô nào tự biết có phạm mà không phát lộ thì mắc tội dối trá.
Chư Ðại đức! Ðức Phật dạy: cố ý
dối trá là pháp chướng ngại đạo. Vậy nên Bí-sô nào mong cầu sự thanh tịnh, cần
phải phát lộ. Phát lộ thì an lạc. Không phát lộ thì không an lạc.
Chư Ðại đức! Tôi đã thuyết phần
tựa của giới kinh. Xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?" (Hỏi ba lần).
"Chư Ðại đức! Trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy".
I.- Bốn pháp Ba-la-thị-ca
(Pàràjika)
Chư Ðại đức! Ðây là bốn pháp
Ba-la-thị-ca, mỗi nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Tụng tóm lược:
Ai làm hạnh bất tịnh
Trộm cướp và giết người
Dối chứng pháp thượng nhân
Ðều phạm bất cộng trú.
1- Giới thứ nhất: Bất tịnh hạnh
Bí-sô nào cùng thọ đắc học xứ
như các Bí-sô khác, không xả học xứ, học xứ bị yếu kém, không tự nói ra, làm
hạnh bất tịnh, giao hợp với người khác, kể cả loài bàng sinh, Bí-sô này phạm
Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
2- Giới thứ hai: Trộm cắp
Bí-sô nào tại xóm làng hay chỗ
vắng, với tâm trộm cắp cố ý lấy vật người khác không cho. Khi trộm cắp như vậy,
bị vua hay quan lớn bắt giữ, hoặc giết, trói, đuổi đi, trách mắng: "Này người
kia, ngươi là kẻ giặc ngu si không biết gì nên trộm cắp như vậy". Bí-sô trộm cắp
như vậy phạm Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
3.- Giới thứ ba: Giết người
Bí-sô nào đối với người hay thai
nhi, cố ý tự tay giết chết, hoặc cầm dao đưa cho họ, hoặc nhờ người khác cầm dao
giết, hoặc khuyến khích họ chết, tán thán học hết, nói rằng: "Này người kia, với
tội lỗi này còn hy vọng gì nữa, bị chìm trong bất tịnh, ác xấu, vậy sống làm
gì?! Ngươi nên chết đi! Chết hay hơn là sống". Tùy theo tâm niệm của mình, dùng
những lời khác nhau nói, khuyến khích họ chết. Người kia chết vì những lý do ấy,
Bí-sô này phạm Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
4.- Giới thứ tư: Ðại vọng ngữ
Bí-sô nào thật không biết không
hiểu, hoàn toàn tự biết rõ mình không chứng pháp thượng nhân là tri kiến an lạc
thù thắng mà bậc Thánh giả tịch tịnh chứng ngộ, lại tự tuyên bố: "Ta thấy, ta
biết". Vị ấy vào một lúc khác, hoặc bị hỏi, hoặc không bị hỏi, muốn tự thanh
tịnh, tự nói lên: "Này các cụ thọ, tôi thật không thấy, không biết, lại tự nói
có thấy, có biết". Nói lời dối trá vọng ngữ, trừ tăng thượng mạn, Bí-sô này phạm
Ba-la-thị-ca, không được sống chung.
Phần kết:
Các Ðại đức! Tôi đã thuyết minh
bốn pháp tha thắng, Bí-sô nào phạm vào một tội nào trong bốn pháp thì không được
sống chung với các Bí-sô khác. Cũng như trước kia, sau khi phạm tội tha thắng
cũng vậy, không được sống chung.
Nay tôi xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?" (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức! Trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy".
II.- 13 pháp
Tăng-già-phạt-thi-sa
(Sanghadisesa)
Chư Ðại đức! Ðây là 13 pháp
Tăng-già-phạt-thi-sa, mỗi nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Tụng tóm lược:
Tiết xúc bỉ cúng môi
Tiểu phòng đại tự báng
Phi phần phá Tăng sự
Tùy tùng ô mạn ngữ.
1. Giới thứ nhất:
Bí-sô nào cố ý thủ dâm, trừ mộng
tinh, Tăng-già-phạt-thi-sa.
2. Giới thứ hai:
Bí-sô nào với tâm ô nhiễm, xúc
chạm thân người nữ, hoặc vịn tay, nắm tay, vuốt tóc, xúc chạm một phần nào trên
thân với tâm thíchh thú, Tăng-già-phạt-thi-sa.
3. Giới thứ ba:
Bí-sô nào với tâm ô nhiễm nói
với người nữ bằng những lời thô tục, không lễ pháp, lời tương ứng với dâm dục,
như vợ chồng nói với nhau, Tăng-già-phạt-thi-sa.
4. Giới thứ tư:
Bí-sô nào với tâm ý ô nhiễm,
trước người nữ tự khen mình: "Này cô, Bí-sô nào giống như tôi đầy đủ giới luật,
có thiện pháp thù thắng, là người tu phạm hạnh, cô nên đem pháp dâm dục đến cung
dưỡng cho vị ấy". Bí-sô nào nói như vậy, Tăng-già-phạt-thi-sa.
5. Giới thứ năm:
Bí-sô nào làm mai mối, lấy ý
người nam đến nói với người nữ, lấy ý người nữ đến nói cho người nam. Nếu họ
thành vợ chồng hay tư thông được với nhau, dù chỉ trong thời gian ngắn,
Tăng-già-phạt-thi-sa.
6. Giới thứ sáu:
Bí-sô nào tự xin vật liệu làm
phòng nhỏ cho mình, không có thí chủ cúng, phải làm đúng kích thước quy định.
Kích thước quy định là: chiều dài mười hai gang, rộng bảy gang tay Phật. Bí-sô
này phải mời chúng Bí-sô đến xem chỗ làm. Chúng Bí-sô đến nơi, nên xem xét chỗ
xây cất phòng xá phải là tịnh xứ đúng pháp, không phải là nơi xảy ra tranh đấu,
là nơi dễ tiến tu.
Bí-sô nào làm phòng ở nơi không
đúng pháp, nơi bất tịnh, nơi tranh cãi, nơi không tiến tu được, tự ý làm phòng
cho mình, không có thí chủ cúng, lại không mời chúng Bí-sô đến xem xét chỗ định
làm phòng, ngay tại chỗ ấy, làm phòng vượt quá kích thước quy định,
Tăng-già-phạt-thi-sa.
7. Giới thứ bảy:
Bí-sô nào làm chùa lớn, có thí
chủ cúng, làm cho Tăng, Bí-sô này phải mời chúng Bí-sô đến nơi định làm để xem
xét. Chúng Bí-sô phải xem xét chỗ định xây cất phải là nơi tịnh xứ đúng pháp,
nơi không tranh cãi, nơi tiến tu được. Bí-sô nào ngay tại nơi không đúng pháp,
nơi bất tịnh, nơi tranh cãi, nơi không thể tiến tu lại làm chùa lớn có thí chủ
cúng, làm cho chúng Tăng, không mời chúng Tăng đến xem xét nơi định xây cất,
ngay tại nơi ấy xây chùa lớn, Tăng-già-phạt-thi-sa.
8. Giới thứ tám:
Bí-sô nào vì lòng sân hận, cố ý
đối với Bí-sô thanh tịnh vu báng vị ấy phạm pháp Ba-la-thị-ca không căn cứ, vì
mục đích phá phạm hạnh của vị ấy. Bí-sô ấy vào lúc khác, dù được hỏi hay không
được hỏi, biết rõ đây là sự vu báng Bí-sô kia không căn cứ, do lòng sân hận nên
nói ra lời ấy, Tăng-già-phạt-thi-sa.
9. Giới thứ chín:
Bí-sô nào vì lòng sân hận, cố ý
đối với Bí-sô thanh tịnh dùng một phần khác không phải pháp Ba-la-thị-ca để vu
báng vì muốn phá hoại thanh tịnh của vị ấy. Vào lúc khác, vị ấy được hỏi hay
không được hỏi, biết rõ đây là pháp thuộc phần sự khác, dùng chút ít pháp tương
tự để vu báng, Bí-sô kia vì sân hận nói ra lời ấy, Tăng-già-phạt-thi-sa.
10. Giới thứ mười:
Bí-sô nào tạo điều kiện để phá
hòa hợp Tăng, đối với việc phá Tăng này, vị ấy cương quyết không bỏ, các Bí-sô
phải nói với Bí-sô ấy:
"Này cụ thọ, đừng nên phá Tăng
hòa hợp với cương quyết như vậy nữa. Này cụ thọ, nên hòa hợp sống chung với
chúng Tăng, hoan hỷ không tranh cãi, một lòng một lời như nước hòa với sữa, làm
cho giáo pháp bậc Ðại sư được sáng chói, an lạc, trụ thế lâu dài. Này cụ thọ,
thầy nên từ bỏ việc phá Tăng đi".
Khi các Bí-sô can gián như vậy,
vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ thì phải ba lần ân cần can gián nghiêm
chỉnh, làm đúng theo giáo pháp để sửa trị vị ấy từ bỏ hành động phá Tăng. Vị ấy
từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
11. Giới thứ mười một:
Bí-sô nào cùng một, hai, hay
nhiều người kết bè đảng với nhau, làm việc tà, nghịch việc chánh, tùy thuận với
nhau, Bí-sô này nói với chúng Bí-sô:
"Ðại đức, đừng cùng nhau nói
chuyện với Bí-sô kia, dù tốt hay xấu. Tại sao? - Vì Bí-sô kia tùy thuận pháp
luật, y pháp luật, nói lời không hư vọng. Vị ấy ưa thích việc gì, tôi cũng ưa
thích việc ấy".
Các Bí-sô nên nói với vị ấy
rằng:
"Cụ thọ, đừng nói: Bí-sô kia tùy
thuận pháp luật, y pháp luật, lời nói không hư vọng, vị ấy ưa thích gì tôi cũng
ưa thích việc ấy. Tại sao? - Vì Bí-sô kia không tùy thuận pháp luật, không y cứ
pháp luật, lời nói đều hư vọng, thầy đừng nên ưa thích việc phá Tăng, phải ưa
thích hòa hợp Tăng, phải cùng Tăng hòa hợp, hoan hỷ không tranh cãi, một lòng
một lời như nước hòa với sữa, làm cho giáo pháp của bậc Ðại sư được sáng chói,
an lạc lâu dài ở thế gian. Này cụ thọ, hãy nên từ bỏ ác kiến phá Tăng, thuận tà
nghịch chánh, sách động việc tranh chấp, cố chấp không bỏ".
Khi các Bí-sô can gián như vậy,
vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ thì phải ba lần can gián nghiêm chỉnh, làm
đúng theo giáo pháp để sửa trị vị ấy từ bỏ hành động phá Tăng. Vị ấy từ bỏ thì
tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
12. Giới thứ mười hai:
Nhiều Bí-sô ở tại xóm làng,
thành phố, gây tiếng xấu ở nhà người, hành động xấu. Gây tiếng xấu ở nhà người,
mọi người đều thấy, nghe, hay biết. Hành động xấu mọi người đều thấy, nghe, hay
biết. Các Bí-sô phải bảo với các Bí-sô kia rằng:
"Này cụ thọ, các thầy gây tiếng
xấu ở nhà người và hành động xấu. Gây tiếng xấu ở nhà người, mọi người đều thấy,
nghe, hay biết. Hành động xấu, mọi người đều thấy, nghe, hay biết. Các thầy nên
đi nơi khác, không nên ở đây nữa".
Bí-sô kia nói với chúng Bí-sô:
"Ðại đức có thiên vị, giận hờn,
sợ hãi, bất minh. Ðồng phạm tội như vậy, có Bí-sô bị đuổi, có Bí-sô không bị
đuổi".
Khi ấy, các Bí-sô nên nói với
Bí-sô kia:
"Cụ thọ, đừng nói các Ðại đức có
thiên vị, giận hờn, sợ hãi, bất minh. Phạm tội như vậy mà có Bí-sô bị đuổi,
Bí-sô không bị đuổi. Tại sao? - Các Bí-sô không có ý thiên vị, giận hờn, sợ hãi,
bất minh. Các thầy gây tiếng xấu ở nhà người và hành động xấu. Gây tiếng xấu ở
nhà người, mọi người đều thấy, nghe, hay biết. Hành động xấu mọi người đều thấy,
nghe, hay biết. Này cụ thọ, các thầy nên từ bỏ lời nói cho rằng thiên vị, giận
hờn, sợ hãi, bất minh".
Khi các Bí-sô can gián như vậy,
nếu Bí-sô kia từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ thì chúng Bí-sô phải ba lần ân cần
can gián nghiêm chỉnh, làm đúng theo giáo pháp, sửa trị vị ấy từ bỏ việc này. Vị
ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
13. Giới thứ mười ba:
Bí-sô nào có tánh xấu không nghe
lời khuyên can của vị khác. Như khi các Bí-sô - những lời Phật dạy trong giới
kinh, như pháp như luật để khuyến hóa vị ấy. Vị ấy không nghe lời khuyên bảo,
nói với chúng Bí-sô:
"Các Ðại đức đừng nói với tôi
nữa, việc ấy tốt hay xấu tôi vẫn không nghe. Tôi cũng không nói với các Ðại đức
về việc tốt hay xấu. Thôi đi các Ðại đức, đừng khuyên bảo tôi nữa, đừng luận
thuyết với tôi nữa".
Các Bí-sô nên nói với Bí-sô kia:
"Cụ thọ, thầy không nên không
nghe lời khuyên can. Khi các Bí-sô đã căn cứ giới kinh như pháp như luật khuyến
hóa, thầy nên nghe lời khuyên can. Cụ thọ! Thầy như pháp để khuyên can các
Bí-sô, các Bí-sô đã theo đúng pháp ấy để khuyên can thầy. Vậy, chúng Thanh văn
của đức Như Lai, Ứng cúng Chánh đẳng giác sẽ được tăng trưởng vì cùng can gián
sám hối với nhau. Này cụ thọ, thầy nên từ bỏ việc ấy".
Khi các Bí-sô can gián như vậy,
vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, các Bí-sô phải ba lần ân cần can gián
nghiêm chỉnh, làm theo đúng giáo pháp để sửa trị, để vị ấy từ bỏ việc này. Vị ấy
từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, Tăng-già-phạt-thi-sa.
Chư Ðại đức, tôi đã thuyết xong
mười ba pháp Tăng-già-phạt-thi-sa. Chín giới đầu, làm thì phạm. Bốn giới sau
phải ba lần can gián mới phạm. Bí-sô nào phạm một trong mười ba giới này mà cố ý
che dấu, tùy theo số ngày che dấu, chúng Tăng phải bắt vị ấy hành Ba-lị-bà-sa.
Sau khi làm Ba-lị-bà-sa, chúng Tăng phải cho vị ấy thêm sáu đêm ma-na-đỏa. Sau
khi hành ma-na-đỏa, vị ấy còn phải xuất tội.
Xuất tội vị Bí-sô này, cần phải
giữa Tăng đủ hai mươi vị. Nếu Tăng thiếu một vị, không đủ hai mươi thì tội Bí-sô
không được trừ. Các Bí-sô tác pháp bị mắc tội.
Nay tôi xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?" (Hỏi ba lần).
"Các Ðại đức, trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy".
III.- Hai pháp
bất định: (Aniyatta)
Các Ðại đức, đây là hai pháp bất
định, mỗi nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Kệ tóm lược:
Nếu ở tại chỗ khuất
Chỗ có thể hành dâm
Và tại nơi trống vắng
Không có người thứ ba.
1- Bí-sô nào ngồi một mình cùng
với người nữ tại chỗ kín có thể hành dâm được, có vị chánh tín Ô-ba-tư-ca nói vị
ấy phạm một trong ba pháp: Ba-la-thi-ca, Tăng-già-phạt-thi-sa hoặc Ba-dật-để-ca.
Vị Bí-sô ấy phải tự trình bày về việc này. Ðối với ba pháp trên, phạm pháp nào,
trị phạt theo pháp ấy, hoặc Ba-la-thi-ca, hoặc Tăng-già-phạt-thi-sa, hoặc
Ba-dật-để-ca, hoặc căn cứ sự trình bày của vị chánh tín Ô-ba-tư-ca để trị phạt
vị Bí-sô ấy. Ðây gọi là pháp bất định.
2- Bí-sô nào ngồi một mình cùng
người nữ ở chỗ không thể hành dâm, có vị chánh tín Ô-ba-tư-ca nói vị ấy phạm một
trong hai pháp: Tăng-già-phạt-thi-sa hoặc Ba-dật-để-ca. Vị Bí-sô ấy phải tự
trình bày về việc này. Ðối với hai pháp trên, phạm pháp nào trị phạt theo pháp
ấy, hoặc Tăng-già-phạt-thi-sa, hoặc Ba-dật-để-ca, hoặc căn cứ sự trình bày của
vị chánh tín Ô-ba-tư-ca để trị phạt vị Bí-sô ấy. Ðây gọi là pháp bất định.
Các Ðại đức, tôi đã thuyết xong
hai pháp bất định. Nay xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?" (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức, trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy".
IV.- 30 pháp
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca: (Nissaggiya Pàcittita)
Các Ðại đức, đây là ba mươi pháp
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca, mỗi nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Tụng tóm tắt một:
Giữ, lìa, chứa, giặt y
Lấy y, xin, nhận nhiều
Ðồng giá và khác chủ
Sai người nói giá y.
1.- Bí-sô nào làm y đã xong,
thời gian y Yết-sĩ-na đã hết, nếu được thêm y, không làm pháp phân biệt, chỉ
được chứa trong phạm vi mười ngày. Nếu chứa cất y dư quá thời hạn này,
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
2.- Bí-sô nào làm y đã xong,
thời gian y Yết-sĩ-na đã hết, nếu lìa một trong ba y, ra ngủ ngoài cương giới,
dù chỉ một đêm, trừ khi được Tăng Yết-ma cho phép, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
3.- Bí-sô nào làm y đã xong,
thời gian y Yết-sĩ-na đã hết, được cúng y phi thời theo nhu cầu cần phải nhận,
đã nhận phải may thành y cho xong. Nếu hy vọng có chỗ cúng cho đủ số vải, nếu
không đủ vải thì được chứa trong thời gian một tháng để chờ đủ số. Nếu quá thời
gian này, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
4.- Bí-sô nào bảo Bí-sô ni không
phải thân thuộc giặt y dơ, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
5.- Bí-sô nào xin y từ Bí-sô ni
không phải thân quyến, trừ trao đổi, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
6.- Bí-sô nào xin y từ cư sĩ hay
vợ cư sĩ không phải thân quyến, trừ trường hợp đặc biệt, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Trường hợp đặc biệt là khi Bí-sô
bị đoạt y, mất y, cháy y, gió bay y, nước trôi y.
7.- Bí-sô nào bị đoạt y, mất y,
cháy y, gió bay y, nước trôi y, nên xin y từ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân
quyến. Họ cúng nhiều y, nếu cần Bí-sô chỉ được nhận hai y thượng và hạ. Nếu nhận
quá nhiều y, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
8.- Bí-sô nào có cư sĩ hay vợ cư
sĩ không phải thân quyến cùng góp tiền sắm y, sẽ mua y thanh tịnh với giá trị đã
góp để cúng cho Bí-sô... sẽ sử dụng đúng lúc. Bí-sô này không được thỉnh trước,
lại được người khác mách cho biết về việc này. Bí-sô này liền đến nhà sắm y nói:
"Lành thay! Nhân giả vì tôi góp
tiền sắm y! Quý vị nên sắm y thanh tịnh như vậy... và cúng cho tôi đúng lúc".
Bí-sô này vì muốn y tốt, khi
được y, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
9.- Bí-sô nào, có hai nhà cư sĩ
hay vợ cư sĩ không thân quyến, riêng mỗi nhà góp tiền để sắm y, dự định sẽ mua y
thanh tịnh với giá trị như vậy để cúng cho Bí-sô... Bí-sô này không được thỉnh
trước, lại được người khác mách cho biết về việc này, liền đến những nhà kia bảo
với họ:
"Lành thay nhân giả! Quý vị cùng
có ý định sắm y cho tôi, quý vị nên góp chung giá trị lại để sắm y thanh tịnh
như vậy và đúng lúc cúng cho tôi".
Bí-sô ấy vì muốn y tốt, nếu được
y, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
10.- Bí-sô nào, hoặc vua, đại
thần, Bà la môn, hoặc cư sĩ.v.v... sai sứ mang tiền đến cúng Bí-sô ấy để sắm y.
Sứ giả mang tiền đến Bí-sô ấy, bảo rằng:
"Ðại đức, vật này là của vua...,
đại thần..., Bà la môn... , cư sĩ... , sai tôi mang đến đây. Xin Ðại đức từ mẫn
tiếp nhận".
Bí-sô này nói với sứ giả ấy:
"Này nhân giả, số tiền sắm y này
tôi không được nhận. Tôi chỉ được nhận tịnh y đúng lúc".
Sứ giả thưa rằng:
"Ðại đức, ngài có người chấp sự
không?"
Bí-sô cần y nói có. Hoặc là tịnh
nhân của Tăng, hoặc là Ô-ba-sách-ca (nam Phật tử). Ðấy là người chấp sự của
Bí-sô. Sứ giả đến chỗ người chấp sự, đưa tiền và nói rằng:
" Ông hãy dùng số tiền này đúng
lúc sắm y thanh tịnh cho Bí-sô... và đưa cho vị ấy sử dụng".
Sứ giả khéo léo dặn bảo người
chấp sự xong, trở lại gặp Bí-sô ấy và thưa rằng:
"Ðại đức, tôi đã đưa tiền sắm y
cho người chấp sự để được y thanh tịnh".
Vị Bí-sô được nhận y, khi cần y
nên đến chỗ người chấp sự, hoặc nói hai hay ba lần cho vị ấy nhớ lại, bảo rằng:
"Tôi cần y"
Ðược y thì tốt. Nếu không được,
thì vị ấy phải bốn, năm, sáu lần đến chỗ ấy, đứng im lặng. Ðến bốn, năm, sáu lần
để đòi mà được y thì tốt. Nếu không được y, mà đòi quá số lần quy định này để
được y, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Nếu cuối cùng không được y,
Bí-sô này nên đến chỗ cúng tiền sắm y, hoặc tự mình, hoặc nhờ người đáng tin cậy
đến bảo với người cúng y:
"Nhân giả, ngài vì Bí-sô... gửi
tiền cúng y đến. Cuối cùng Bí-sô... không được y. Nhân giả nên biết, đừng để bị
mất".
Như vậy là đúng pháp.
Tụng tóm tắt hai:
Tơ tằm, lông dê đen
Phần sáu, ny-sư-đàn
Mang lông, giặt, vàng bạc
Ðổi chác và buôn bán.
11.- Bí-sô nào dùng tơ tằm mới
làm phu cụ, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
12.- Bí-sô nào dùng lông dê toàn
màu đen làm phu cụ mới, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
13.- Bí-sô nào làm phu cụ mới
bằng lông dê, phải dùng hai phần lông đen, phần thứ ba lông trắng, phần thứ tư
lông xám. Nếu Bí-sô không dùng hai phần lông đen, phần thứ ba lông trắng, phần
thứ tư lông xám để làm phu cụ mới, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
14.- Bí-sô nào làm phu cụ mới,
dù tâm không ưa thích cũng phải sử dụng đủ sáu năm. Chưa đủ sáu năm, nếu không
xả cái cũ, làm thêm phu cụ nới, trừ trường hợp Tăng cho phép,
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
15.- Bí-sô nào làm ny-sư-đản-na
mới, phải lấy một mảnh ny-sư-đản-na cũ còn sử dụng được, dài rộng vừa bằng một
gang tay Phật đắp lên trên cái mới, vì để hoại sắc. Nếu Bí-sô làm ny-sư-đản-na
mới, không dùng một mảnh cũ đắp lên để cho hoại sắc, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
16.- Bí-sô nào đi trên đường
được lông dê, cần dùng thì lấy. Nếu không người thì được phép tự cầm đi xa đến
ba du-thiện-na. Nếu đi xa hơn, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
(Du-thiện-na: do-tuần)
17.- Bí-sô nào bảo Bí-sô ni
không phải thân quyến giặt nhuộm, chải lông dê, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
18.- Bí-sô nào tự tay cầm vàng
bạc, tiền.v.v... hay bảo người cầm, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
19.- Bí-sô nào đổi chác các thứ
để cầu lợi, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
20.- Bí-sô nào buôn bán các thứ,
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Tụng tóm tắt ba:
Hai bát, hai thợ dệt
Ðoạt y và cấp thí
A-lan-nhã, vũ y
Hồi tăng thuốc bảy ngày.
21.- Bí-sô nào chứa bát dư quá
bảy ngày, không tác pháp phân biệt, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
22.- Bí-sô nào có bát lũng dưới
năm chỗ, còn có thể dùng được, vì muốn tốt nên cầu bát khác, được bát,
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Bí-sô này phải đem bát này ra xả
giữa chúng Tăng, tuần tự đem bát của vị Bí-sô nh? hạ nhất trao cho Bí-sô ấy, nói
rằng:
"Bát này trả lại cho thầy, không
nên tác pháp thọ, không nên tác pháp phân biệt, cũng không nên cho người khác,
nên cẩn thận giữ gìn chu đáo, từ từ thọ dụng, giữ cho đến khi nào vỡ mới thôi".
Ðây chính là đúng pháp.
23.- Bí-sô nào tự mình xin chỉ
sợi, bảo thợ dệt không phải thân quyến dệt y. Nếu nhận được y dệt xong,
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
24.- Bí-sô nào, có cư sĩ, vợ cư
sĩ không phải thân quyến vì Bí-sô ấy bảo thợ dệt không phải thân quyến dệt y.
Bí-sô ấy không được thọ thỉnh trước , sinh ý niệm khác , đến chỗ thợ dệt nói
rằng:
"Ông biết không, y này dệt cho
tôi. Lành thay thợ dệt! Cần phải dệt cho đẹp, cho dày, chải cho thật sạch, khéo
lựa chọn tơ, dệt thật sít chặt. Tôi sẽ lấy một ít thức ăn trong bát hoặc như
thức ăn trong bát, hoặc giá trị bằng cả bữa ăn để trả công".
Nếu Bí-sô lấy vật như vậy trao
cho thợ dệt để mong cầu và được y theo ý mình, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
25.- Bí-sô nào trước đó đã đem y
cho Bí-sô khác. Sau đó, vị ấy vì phiền não, sân hận, chửi mắng, có tâm hiềm
khích với vị kia. Nếu Bí-sô ấy tự đoạt lại hay bảo người khác đoạt, bảo rằng:
"Hãy trả y cho tôi, không cho
ngươi nữa".
Nếu lấy y ra khỏi thân vị kia và
đem sử dụng, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
26.- Bí-sô nào còn mười ngày nữa
mới hết ba tháng tiền an cư mùa mưa, được y cấp thí. Nếu cần, Bí-sô này có thể
nhận và chứa đến lúc thí y. Nếu chứa y quá thời hạn này, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
27.- Nhiều Bí-sô nào cùng ở tại
một trú xứ A-lan-nhã tác hậu an cư, chỗ có sự sợ hãi nguy hiểm. Nếu muốn, Bí-sô
có thể gửi một trong ba y trong nhà ở thôn xóm. Bí-sô có duyên sự cần ra khỏi
cương giới của A-lan-nhã, thời gian được phép ngủ lìa y là sáu đêm. Nếu quá thời
hạn này, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
28.- Nếu Bí-sô nào còn một tháng
nữa là hết mùa xuân, nên tìm y tắm mưa để vào nửa tháng cuối xuân có thể đem sử
dụng. Nếu Bí-sô chưa đến tháng cuối xuân mà tìm y tắm mưa, nửa tháng tiếp theo
đã đem sử dụng, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
29.- Bí-sô nào biết người khác
cúng lợi vật cho Tăng, tự ý xoay vật ấy về cho mình, Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
30.- Bí-sô nào, như Thế tôn dạy,
cho phép các Bí-sô bị bệnh, đối với các loại thuốc tùy ý sử dụng. Các loại thuốc
ấy là bơ, dầu, đường, mật, trong phạm vi bảy ngày được phép thủ trì, cất giữ
luôn đêm để sử dụng. Bí-sô nào cất giữ những vật ấy quá bảy ngày để sử dụng,
Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca.
Các Ðại đức, tôi đã thuyết xong
ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca. Nay tôi xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?" (Hỏi ba lần).
"Các Ðại đức, trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy".
V.- 90 pháp
Ba-dật-để-ca: (Pàcittiya)
Các Ðại đức, đây là chín mươi
pháp Ba-dật-để-ca, nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Tụng tổng quát:
Cố vọng tinh chủng tử
Bất sai tinh sác thực
Trùng thủy mạng bạn hành
Bàng sinh tặc đồ thỉnh.
Tụng thứ nhất:
Vọng hủy cập ly gián
Phát cử thuyết đồng thanh
Thuyết tội đắc thượng nhân
Tùy thân triếp khinh hủy.
1- Bí-sô nào cố ý nói dối,
Ba-dật-để-ca.
2- Bí-sô nào nói lời hủy báng,
bôi bác, Ba-dật-để-ca.
3- Bí-sô nào nói lời ly gián,
Ba-dật-để-ca.
4- Bí-sô nào biết rõ Tăng đã hòa
hợp như pháp dập tắt tránh sự rồi. Sau khi Tăng đã dập tắt tránh sự rồi, vị ấy
lại cố ý khơi lại việc Tăng Yết-ma này, Ba-dật-để-ca.
5- Bí-sô nào nói pháp cho người
nữ năm sáu câu, trừ khi có mặt người đàn ông có trí, Ba-dật-để-ca.
6- Bí-sô nào cùng người chưa thọ
cận viên cùng nhau đọc tụng, dạy bảo giáo pháp, Ba-dật-để-ca.
7- Bí-sô nào biết Bí-sô khác
phạm tội thô ác, đem nói với người chưa thọ cận viên, trừ Tăng đã Yết-ma cho
phép, Ba-dật-để-ca.
8- Bí-sô nào thật chứng pháp
thượng nhân, đem việc này nói với người chưa thọ cận viên, Ba-dật-để-ca.
9- Bí-sô nào trước đã đồng ý với
Tăng, sau lại nói:
"Các cụ thọ tùy theo chỗ thân
tình, lấy vật của Tăng xoay cho người khác" , Ba-dật-để-ca.
10- Bí-sô nào khi mỗi nửa tháng
thuyết giới, tự nói rằng:
" Các cụ thọ, cần gì phải thuyết
minh các học giới nhỏ nhặt này làm gì? Khi thuyết các giới nhỏ này, làm cho các
Bí-sô sinh tâm chán ghét, bực bội, lo buồn".
Nếu phát biểu lời khinh chê giới
như vậy, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ hai:
Chủng tử khinh não giáo
An sàng thảo nhục khiên
Cưởng trú thoát nước sàng
Nhiễu thảo ưng tam nhị.
11- Bí-sô nào tự phá hoại hạt
giống, cây sống, chỗ ở của hữu tình, hay bảo người khác phá hoại, Ba-dật-để-ca.
12- Bí-sô nào chửi rủa, khinh
khi Bí-sô khác, Ba-dật-để-ca.
13- Bí-sô nào chống cự và gây
phiền phức cho người khuyên bảo, Ba-dật-để-ca.
14- Bí-sô nào bố trí phu cụ và
sàng tọa của Tăng ra ngoài trời, khi đi không xếp cất, không bảo người xếp cất,
gặp Bí-sô khác lại không dặn bảo nhờ thu xếp, trừ có duyên sự, Ba-dật-để-ca.
15- Bí-sô nào tự mình hay bảo
người bố trí cỏ, lá trong phòng của Tăng. Khi đi không thu dọn, không bảo người
thu dọn, gặp Bí-sô khác cũng không nhờ thu dọn, trừ có duyên sự khác,
Ba-dật-để-ca.
16- Bí-sô nào vì sân hận, lôi
kéo Bí-sô khác ra khỏi phòng của Tăng, hoặc bảo người khác lôi kéo ra, trừ có
duyên sự khác, Ba-dật-để-ca.
17- Bí sô nào ngay tại trú xứ
của Tăng biết rõ các Bí-sô đã ở chỗ ấy trước, tuy đến sau nhưng cố ý gây phiền
phức cho các vị đến trước. Ngay tại chỗ nằm của các vị trước, cố ý nằm ngồi lên,
tự nghĩ: "Nếu họ sinh tâm khó chịu sẽ bỏ đi chỗ khác, nhường chỗ này cho ta" ,
Ba-dật-để-ca.
18- Bí-sô nào ngay tại trú xứ
của Tăng biết rõ là giường hư chân trên lầu, trên gác và các vật để ngồi khác bị
hư, cố ý nằm ngồi trên ấy, Ba-dật-để-ca.
19- Bí-sô nào biết trong nước có
trùng, tự rưới nước ấy trên cỏ, trên đất, hay trộn với phân trâu bò, hoặc bảo
người khác làm, Ba-dật-để-ca.
20- Bí-sô nào làm nhà lớn, ngay
trên khung bệ cửa nên đặt cây ngang và các khung cửa sổ nên bố trí máng nước.
Khi trát tường bằng đất bùn ướt chỉ nên dày hai ba lớp, vừa bằng chỗ cây ngang.
Nếu quá mức này, Ba-dật-để-ca.
Bài tụng thứ ba:
Bất sai chí nhật một
Vị thực nhị chủng y
Ðồng lộ cập thừa thuyền
Nhị bình giáo hóa thực.
21- Bí-sô nào Tăng không sai, tự
ý đi giáo giới Bí-sô ni, trừ vị chứng đắc thắng pháp, Ba-dật-để-ca.
22- Bí-sô nào tuy được Tăng sai
đi giáo giới Bí-sô ni, nhưng giáo giới mãi đến tối, Ba-dật-để-ca.
23- Bí-sô nào nói với các Bí-sô
khác rằng: "Thầy vì việc cúng dường ăn uống nên giáo giới Bí-sô ni" ,
Ba-dật-để-ca.
24- Bí-sô nào cho y phục đến
Bí-sô ni không phải thân quyến, trừ trao đổi, Ba-dật-để-ca.
25- Bí-sô nào may y cho Bí-sô ni
không phải thân quyến, Ba-dật-để-ca.
26- Bí-sô nào cùng Bí-sô ni hẹn
cùng đi chung với đoàn buôn, trừ thời khác, Ba-dật-để-ca.
Thời khác là: đi chỗ có tai nạn
nguy hiểm đáng sợ.
27- Bí-sô nào hẹn cùng Bí-sô ni
đi chung một thuyền, hoặc đi xuôi, hoặc đi ngược, trừ đi đò ngang, Ba-dật-để-ca.
28- Bí-sô nào ngồi một mình cùng
người nữ tại chỗ khuất, Ba-dật-để-ca.
29- Bí-sô nào ngồi một mình cùng
Bí-sô ni tại chỗ khuất, Ba-dật-để-ca.
30- Bí-sô nào ăn thức ăn mà biết
rõ vật ấy do Bí-sô ni tạo điều kiện cho người khác cúng, trừ khi thí chủ có ý
cúng trước, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ tư:
Sác thực nhất túc xứ
Thọ bát bất vi dư
Túc thực biệt phi thời
Xúc bất thọ diệu thực.
31- Bí-sô nào ăn nhiều lần, trừ
lúc khác, Ba-dật-để-ca.
Lúc khác: khi bệnh, khi làm
việc, khi đi đường, khi thí y, v.v...
32- Bí-sô nào tại trú xứ của
ngoại đạo được phép ở một đêm, chỉ được ăn một bữa, trừ trường hợp vì bệnh. Nếu
vượt quá quy định này, Ba-dật-để-ca.
33- Nhiều Bí-sô đến nhà thế tục,
có Bà la môn, cư sĩ tịnh tín, ân cần mời bánh bún, thức ăn. Bí-sô nào cần, có
thể lãnh thọ hai đến ba bát. Nếu nhận quá số lượng này, Ba-dật-để-ca.
Ðã nhận xong, phải trở về trú xứ
của mình. Nếu có Bí-sô khác phải cùng chia nhau số thức ăn này.
34- Bí-sô nào đã ăn xong, không
làm pháp dư thực, lại ăn thêm nữa, Ba-dật-để-ca.
35- Bí-sô nào biết Bí-sô kia đã
ăn xong, không làm pháp dư thực, lại khuyên vị ấy ăn nữa, bảo: "Này cụ thọ, nên
ăn thức ăn này" , chỉ vì lý do là muốn cho vị kia phạm giới để sinh ra buồn khổ,
Ba-dật-để-ca.
36- Bí-sô nào ăn chúng riêng,
trừ thời khác, Ba-dật-để-ca.
Thời khác là: khi bị bệnh, khi
làm y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng ăn, khi Sa môn thí thực.
37- Bí-sô nào ăn phi thời,
Ba-dật-để-ca.
38- Bí-sô nào ăn thức ăn bị xúc
chạm đến, Ba-dật-để-ca.
39- Bí-sô nào thức ăn không được
mời, tự ý cầm đưa lên miệng nhai, nuốt ; trừ nước và tăm xỉa răng, Ba-dật-để-ca.
40- Bí-sô nào như Thế tôn dạy,
các món ăn thơm ngon như sữa, lạc, sanh tô, cá, thịt, nếu Bí-sô không vì bệnh,
tự mình đến nhà người xin các thức ăn ấy, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ năm:
Trùng thủy nhị thực xá
Vô phục vãng quán quân
Lưỡng dạ quán du binh
Ðã nghĩ phú thô tội.
41- Bí-sô nào biết nước có trùng
vẫn lấy xử dụng, Ba-dật-để-ca.
42- Bí-sô nào biết rõ đó là chỗ
thực gia, lại cố ý ngồi lâu, Ba-dật-để-ca.
43- Bí-sô nào biết rõ đó là chỗ
thực gia, lại cố ý đứng lâu ở chỗ khuất, Ba-dật-để-ca.
44- Bí-sô nào tự tay đem thức ăn
cho ngoại đạo lõa thể và nam nữ ngoại đạo khác, Ba-dật-để-ca.
45- Bí-sô nào tự ý đến xem quân
đội dàn binh, Ba-dật-để-ca.
46-Bí-sô nào có duyên sự đến
trại lính, chỉ được ở lại hai đêm, nếu ở quá hạn, Ba-dật-để-ca.
47- Bí-sô nào ở trong trại quân
đội trong thời gian hai đêm, nếu xem quân đội diễn binh, bố trận, tan trận để
chuẩn bị xuất chinh, Ba-dật-để-ca.
48- Bí-sô nào vì sân hận, không
hoan hỷ, đánh Bí-sô khác, Ba-dật-để-ca.
49- Bí-sô nào vì sân hận, không
hoan hỷ, đưa tay dọa đánh Bí-sô khác, Ba-dật-để-ca.
50- Bí-sô nào biết Bí-sô khác
phạm tội thô ác mà cố ý che dấu, Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ sáu:
Bạn não xúc hỏa dục
Ðồng miên pháp phi chướng
Vị xả cầu tịch nhiễm
Thâu bảo cực viêm thời.
51- Bí-sô nào nói với Bí-sô khác
với lời thế này:
"Cụ thọ, thầy đi cùng tôi đến
nhà cư sĩ, sẽ cho thầy thức ăn ngon để được ăn no".
Sau khi đến nhà cư sĩ, Bí-sô này
lại không cho thức ăn đến Bí-sô kia, còn nói:
"Cụ thọ, thấy đi chỗ khác đi,
tôi không thích ngồi nói chuyện với thầy, tôi thích ngồi một mình".
Khi Bí-sô này nói lời ấy vì muốn
Bí-sô kia sinh buồn bực (để bỏ đi) , Ba-dật-để-ca.
52- Bí-sô nào không vì bệnh, tự
đốt lửa hoặc bảo người khác đốt, Ba-dật-để-ca.
53- Bí-sô nào đã gửi dục cho
người khác rồi, sau hối hận nói lên: "Tôi lấy dục lại, không gửi dục cho ông
nữa" , Ba-dật-để-ca.
54- Bí-sô nào cùng người chưa
thọ cận viên ngủ cùng phòng hơn hai đêm, Ba-dật-để-ca.
55- Bí-sô nào nói:
"Theo tôi biết pháp Phật đã dạy:
dục là pháp chướng ngại, khi hành động theo thói quen không phải là pháp chướng
ngại". Các Bí-sô nên nói với Bí-sô ấy: "Thầy đừng nói lời: theo tôi biết pháp
Phật đã dạy: dục là pháp chướng ngại, khi hành động theo thói quen không phải là
pháp chướng ngại. Thầy đừng vu báng Thế tôn. Vu báng Thế tôn không tốt. Thế tôn
không nói lời ấy. Thế tôn dùng vô lượng pháp môn nói: các pháp, dục là chướng
ngại. Thầy nên từ bỏ các ác kiến như vậy".
Khi các Bí-sô can gián như vậy,
vị ấy từ bỏ thì tốt. Nếu không từ bỏ, phải ba lần ân cần can gián nghiêm chỉnh,
làm đúng theo giáo pháp sửa trị vị ấy từ bỏ ác kiến này. Vị ấy từ bỏ thì tốt,
nếu không từ bỏ, Ba-dật-để-ca.
56- Bí-sô nào biết vị Bí-sô đã
nói lời như trên, lại không nghe lời can gián từ bỏ ác kiến, lại cùng sống
chung, cùng thọ dụng, ở cùng phòng, cùng ngủ chung, Ba-dật-để-ca.
57- Bí-sô nào thấy vị cầu tịch
nói:
"Theo tôi hiểu lời Phật dạy, dục
là pháp chướng ngại, khi làm theo thói quen không phải là pháp chướng ngại"
Các Bí-sô phải nói với cầu tịch
ấy:
"Người đừng nói: theo tôi hiểu
lời Phật dạy, dục là pháp chướng ngại, nhưng khi làm theo thói quen, không phải
là pháp chướng ngại. Người đừng vu báng Thế tôn. Vu báng Thế tôn không tốt, Thế
tôn không nói lời này. Thế tôn dùng vô lượng pháp môn nói các dục là chướng
ngại. Người phải từ bỏ các ác kiến như vậy".
Khi các Bí-sô nói như vậy với vị
cầu tịch ấy, vị ấy từ bỏ thì tốt, nếu không từ bỏ, phải khuyên bảo nghiêm chỉnh
đến hai ba lần, giáo dục vị ấy từ bỏ ác kiến ấy. Cầu tịch này từ bỏ thì tốt, nếu
không từ bỏ thì bảo với cầu tịch ấy:
"Từ đây về sau, ngươi không được
nói: đức Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng giác là thầy tôi và không được phép đồng
hành với các vị tôn túc và các vị đồng phạm hạnh. Các cầu tịch khác được phép
ngủ chung phòng với các Bí-sô khác hai đêm, từ nay ngươi không được dự việc này.
Ngươi là kẻ ngu si, hãy mau đi đi! Hãy mau đi luôn đi!".
Bí-sô nào biết rõ vị kia là cầu
tịch bị diệt tẫn, lại nhận đem về nuôi dưỡng, cho ngủ cùng phòng, Ba-dật-để-ca.
58- Bí-sô nào được y mới, phải
nhuộm hoại sắc bằng ba cách: xanh, bùn, đỏ, tùy theo mỗi loại làm cho hoại sắc.
Nếu không làm cho y bị hoại sắc bằng ba cách trên mà đem xử dụng, Ba-dật-để-ca.
59- Bí-sô nào đối với các bảo
vật hay vật quý như bảo vật, tự tay cầm hay bảo người cầm, trừ trong chùa hay
trong nhà bạch y, Ba-dật-để-ca.
Nếu trong chùa hay trong nhà
bạch y, thấy các bảo vật hay như bảo vật, trước khi lấy nên suy nghĩ: "Khi có
người đến nhận, ta sẽ đưa cho họ".
60- Bí-sô nên nửa tháng tắm một
lần, nếu cố ý tắm thêm, trừ trường hợp khác, Ba-dật-để-ca.
Trường hợp khác: khi nóng nực,
khi bệnh, khi làm việc, khi đi đường, khi gió mưa.
Tụng thứ bảy:
Sát bàng sinh cố não
Kích lịch thủy đồng miên
Bố tàng tư ký y
Vô căn nữ đồng lộ.
61- Bí-sô nào cố ý giết hại sinh
mạng loài vật, Ba-dật-để-ca.
62- Bí-sô nào cố ý gây phiền
phức cho Bí-sô khác, dù cho vì lý do ấy làm Bí-sô kia không vui trong chốc lát,
Ba-dật-để-ca.
63- Bí-sô nào dùng tay cù-léc
Bí-sô khác, Ba-dật-để-ca.
64- Bí-sô nào đùa giỡn trong
nước, Ba-dật-để-ca.
65- Bí-sô nào ngủ cùng phòng với
người nữ, Ba-dật-để-ca.
66- Bí-sô nào tự mình hay bảo
người khủng bố Bí-sô khác, dù cho để đùa giỡn, Ba-dật-để-ca.
67- Bí-sô nào tự mình hay bảo
người cất giấu y bát, hoặc tư cụ của Bí-sô khác, Bí-sô ni, chánh học, cầu tịch,
cầu tịch nữ, trừ duyên sự khác, Ba-dật-để-ca.
68- Bí-sô nào được người khác
gửi y, sau đó không hỏi chủ, tự ý lấy xử dụng, Ba-dật-để-ca.
69- Bí-sô nào do sân nhuế, biết
Bí-sô kia thanh tịnh không phạm giới, lại vu báng vị ấy phạm
Tăng-già-phạt-thi-sa không căn cứ, Ba-dật-để-ca.
70- Bí-sô nào cùng đi chung
đường với người nữ, không có người nam, cho đến khoảng cách trong một thôn,
Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ tám:
Tặc tùng niên vị mãn
Quật địa thỉnh vi giáo
Thiết thính mặc nhiên khứ
Bất kính tửu phi thời.
71- Bí-sô nào đi chung đường với
giặc, đoàn buôn lậu cho đến khoảng cách trong một thôn, Ba-dật-để-ca.
72- Bí-sô nào biết người kia
chưa đủ hai mươi tuổi, lại cho họ thọ cận viên để thành tựu tánh Bí-sô,
Ba-dật-để-ca.
Người thọ giới không đắc cận
viên, các Bí-sô mắc tội.
73- Bí-sô nào tự mình hay bảo
người đào đất, Ba-dật-để-ca.
74- Bí-sô nào được thọ thỉnh sử
dụng những thứ cần dùng trong bốn tháng. Nếu quá hạn này mà vẫn thọ nhận những
thứ ấy, trừ thời khác, Ba-dật-để-ca.
Thời khác là: biệt thỉnh, cách
thỉnh, ân cần thỉnh, thường thỉnh.
75- Bí-sô nào nghe các Bí-sô
khác nói:
"Cụ thọ, thầy nên học tập các
học xứ như vậy".
Vị ấy nghe nói, lại đáp:
"Tôi không thể vì nghe lời nói
ngu si không phân minh, không hiểu biết của ông mà thọ hành học xứ đâu. Tôi sẽ
tìm những vị giỏi tam tạng và nghe theo lời dạy của các vị ấy để học học xứ" ,
Ba-dật-để-ca.
Bí-sô nào thật lòng muốn hiểu
biết, được phép hỏi tam tạng giáo điển.
76- Bí-sô nào biết các Bí-sô
khác có sự tranh chấp, đang tìm vạch chỗ sai lầm để gây gỗ nhau, nên lén đến
nghe những lời họ nói, nghĩ rằng: "Ta cần nghe để làm cho họ tranh chấp nhau" ,
chỉ vì mục đích ấy chứ không gì khác, Ba-dật-để-ca.
77- Bí-sô nào biết chúng Tăng
đang như pháp bình luận sự việc, lại im lặng bỏ chỗ đi ra, tuy có Bí-sô khác
nhưng cũng không xin phép, trừ các duyên sự khác, Ba-dật-để-ca.
78- Bí-sô nào không cung kính
đối với thầy bạn, Ba-dật-để-ca.
79- Bí-sô nào uống các loại
rượu, Ba-dật-để-ca.
80- Bí-sô nào phi thời đi vào
xóm làng, không báo lại cho các Bí-sô khác biết, trừ duyên sự khác,
Ba-dật-để-ca.
Tụng thứ chín:
Thực minh tướng kim tri
Châm đồng sàng cước lượng
Trữ hoa tinh ngọa cụ
San, vũ, đại sư y.
81- Bí-sô nào nhận lời mời bữa
ăn tại nhà người, trước hay sau bữa ăn lại bỏ đi sang nhà người khác, không báo
lại, Ba-dật-để-ca.
82- Bí-sô nào minh tướng chưa
xuất hiện, vua quán đảnh sát đế lợi chưa thu cất các bảo vật và các loại như bảo
vật, bước vào trong cửa cung riêng của vua, trừ có duyên sự khác, Ba-dật-để-ca.
83- Bí-sô nào khi nửa tháng
thuyết giới, nói:
"Cụ thọ, đến nay tôi mới biết
những pháp này từ giới kinh nói ra".
Các Bí-sô đều biết rõ Bí-sô này
đã hai ba lần cùng dự trưởng tịnh, nào phải chỉ mới lần này, nên nói với vị ấy:
"Này cụ thọ, chẳng phải không
biết là được miễn tội đâu. Những tội thầy đã phạm phải như pháp phát lộ sám hối"
Và phải khuyên vị ấy:
"Này cụ thọ, pháp này hy hữu khó
được gặp, vậy mà khi thuyết giới ông không cung kính, không trú tâm, không tôn
trọng, không chú ý, không nhất tưởng, không lắng nghe, không chánh niệm để nghe
pháp", Ba-dật-để-ca.
84- Bí-sô nào dùng xương, ngà,
sừng làm thành ống đựng kim, phải đập vụn bỏ đi, Ba-dật-để-ca.
85- Bí-sô nào làm giường lớn hay
nhỏ, chân giường phải cao vừa bằng tám ngón tay Như Lai, trừ khoảng tra mộng
diềm giường. Nếu làm quá phải cắt bỏ bớt, Ba-dật-để-ca.
86- Bí-sô nào dùng bông gòn,
v.v... độn lót nệm giường tòa, phải lấy ra, Ba-dật-để-ca.
87- Bí-sô nào làm ny-sư-đản-na
phải làm đúng lượng. Lượng đúng là: dài hai gang tay Phật, rộng một gang tay
rưỡi Phật, mỗi bên có thể dài hơn một gang. Nếu làm quá lượng này, phải cắt bỏ
bớt, Ba-dật-để-ca.
88- Bí-sô nào làm y che ghẻ phải
đúng kích thước. Kích thước đúng là: dài bốn gang tay Phật, rộng bằng hai gang
tay Phật. Nếu quá kích thước này phải cắt bớt, Ba-dật-để-ca.
89- Bí-sô nào làm y tắm mưa phải
làm đúng kích thước. Kích thước đúng là: dài bằng sáu gang tay, rộng bằng hai
gang tay rưỡi của Phật. Nếu làm quá kích thước này phải cắt bỏ, Ba-dật-để-ca.
90- Bí-sô nào làm y, bằng hay
lớn hơn y của Phật, Ba-dật-để-ca.
Kích thước y của Phật: dài 10
gang tay Phật và rộng sáu gang tay Phật. Ðây là kích thước y của Phật.
Các Ðại đức, tôi đã thuyết xong
chín mươi pháp Ba-dật-để-ca. Nay xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?". (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức, trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy".
VI.- Bốn pháp
Ba-la-để-đề-xá-ni: (Patidesaniya)
Các Ðại đức, đây là bốn pháp đối
thuyết Ba-la-để-đề-xá-ni, mỗi nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Tụng tóm lược:
Phi thân ni tự thọ
Xá trung xử phần thực
Bất thỉnh hướng học gia
Thọ thực ư tự ngoại.
1- Bí-sô nào trên đường đi trong
làng xóm, tự tay nhận thức ăn để ăn từ Bí-sô ni không phải thân quyến. Bí-sô này
phải trở về trú xứ của mình ngoài làng xóm, đến chỗ các Bí-sô, tự mình nói với
từng vị:
"Ðại đức, tôi đã phạm ác pháp
đối thuyết. Ðây là điều không được vi phạm. Nay tôi đối thuyết để sám hối".
Ðây là pháp đối thuyết.
2- Nhiều Bí-sô đến thọ thực tại
nhà bạch y, có Bí-sô ni chỉ vào Bí-sô này:
"Nên dâng cho vị này thức ăn
thơm ngon..."
Các Bí-sô phải nói với Bí-sô ni
ấy:
"Này cô, đừng chỉ định như vậy
nữa. Hãy chờ các Bí-sô ăn xong".
Nếu không một Bí-sô nào nói như
vậy, các Bí-sô phải trở về trú xứ ngoài làng xóm, đến gặp các Bí-sô, nói với
từng vị:
"Ðại đức, tôi đã phạm ác pháp
đối thuyết. Ðây là điều không được vi phạm. Nay tôi đối thuyết để sám hối".
Ðây là pháp đối thuyết.
3- Bí-sô nào biết đó là nhà học
gia, Tăng đã tác pháp Yết-ma học gia, Bí-sô này không được thọ thỉnh trước, tự
tiện đến nhà ấy, tự tay nhận thức ăn để ăn. Bí-sô này phải trở về trú xứ ngoài
làng xóm, đến gặp các Bí-sô, nói với với từng vị:
"Ðại đức, tôi đã phạm ác pháp
đối thuyết. Ðây là điều không được vi phạm. Nay tôi đối thuyết để sám hối".
Ðây là pháp đối thuyết.
4- Bí-sô nào ở tại A-lan-nhã,
thuộc trú xứ có sự khủng bố nguy hiểm, trước không đưa người thăm dò tình hình
nguy hiểm, nếu ra bên ngoài trú xứ thọ nhận thức ăn, Bí-sô này phải trở về trú
xứ, đến gặp các Bí-sô, nói với từng vị:
"Ðại đức, tôi đã phạm ác pháp
đối thuyết. Ðây là điều không được vi phạm. Nay tôi đối thuyết để sám hối".
Ðây là pháp đối thuyết.
Chư Ðại đức, tôi đã thuyết xong
bốn pháp Ba-la-để-đề-xá-ni. Nay xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?" (Hỏi ba lần)
"Chư Ðại đức, trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy".
VII.- Pháp chúng học:
(Sekkhiyavatta)
Các Ðại đức, đây là pháp chúng
học, mỗi nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Tụng tóm lược:
Y thực hình tề chỉnh
Tục xá thiện dung nghi
Hộ bát trừ bệnh nhân
Thảo thủy quá nhân thọ.
1- Mặc quần tề chỉnh, cần phải
học.
2- Mặc quần không quá cao, không
quá thấp, không cuốn hình vòi voi, không cuốn hình đầu rắn, không xếp hình lá
đa-la, không xếp hình miếng đậu - cần ph?i học.
3- Mặc ba y tề chỉnh - cần phải
học.
4- Mặc ba y không quá cao, không
quá thấp,mặc ngay ngắn, kín đáo, không nói nhiều, không nhìn lên cao khi vào nhà
bạch y - cần phải học.
5- Không che đầu, không lật một
bên y, không lật hai bên y, không chống nạnh, không vung tay khi vào nhà bạch y
- cần phải học.
6- Không nhún nhảy, không nhón
chân, không nhảy cò cò, không đi nghiêng người, không đi hấp tấp khi đi vào nhà
bạch y, - cần phải học.
7- Không uốn éo, không vẫy tay,
không lắc đầu, không vung tay, không đánh đồng xa khi đi vào nhà bạch y, - cần
phải học.
8- Trong nhà bạch y, chưa được
mời không được tự tiện ngồi - cần phải học.
9- Trong nhà bạch y, chưa xem
xét kỹ, không được ngồi - cần phải học.
10- Trong nhà bạch y, không được
ngồi bừa bãi - cần phải học.
11- Trong nhà bạch y, không ngồi
gác chân, tréo chân, bó gối, duỗi hết hai chân, hay bày lộ thân thể - cần phải
học.
12- Cung kính nhận thức ăn - cần phải học.
13- Không được nhận cơm đầy bát,
rồi nhận canh, rau làm thức ăn tràn ra ngoài, cẩn thận dùng ngón tay giữ bát để
ăn - cần phải học.
14- Thức ăn chưa đem đến, không được hứng bát ra chờ - cần
phải học.
15-Không đặt bát trên thức ăn -
cần phải học.
16- Cung kính ăn thức ăn - cần phải học.
17-Không nắn vắt cơm quá lớn,
quá nhỏ - cần phải học.
18- Thức ăn chưa đến miệng, không há miệng chờ - cần phải
học.
19- Không ngậm thức ăn nói chuyện - cần phải học.
20- Không lấy cơm lấp trên canh,
lấy canh lấp trên cơm để mong được nhiều - cần phải học.
21- Không liếm thức ăn, không
nhai cơm có tiếng, không hà hơi trên thức ăn, không thổi thức ăn, không bươi
thức ăn, không chê thức ăn, không giữ thức ăn hai bên má, không cắn nửa miếng
ăn, không lè lưỡi ăn, không nên làm thức ăn như hình tháp - cần phải học.
22- Không liếm tay, không liếm
bát, không chấn tay, không chấn bát, thường nhìn vào bát để ăn - cần phải học.
23- Không có tâm khinh mạn, cố
nhìn vào bát vị đang ăn gần bên - cần phải học.
24- Không được dùng tay bẩn cầm
bình nước sạch - cần phải học.
25- Trong nhà bạch y, không được
đổ nước rửa bát, trừ khi hỏi chủ nhà - cần phải học.
26- Không được lấy thức ăn thừa
bỏ vào bát đựng nước - cần phải học.
27- Trên đất không có vật kê
lót, không được để bát - cần phải học.
28- Không đứng rửa bát - cần phải học.
29- Không được đặt bát chỗ dễ
rơi v?, dễ mất ; không dùng bát múc nước ngược dòng - cần phải học.
30- Người ngồi ta đứng, không được nói pháp, trừ bệnh - cần
phải học.
31- Người nằm ta ngồi, không được nói pháp, trừ bệnh - cần
phải học.
32- Người ngồi tòa cao, ta ngồi
tòa thấp, không được nói pháp, trừ bệnh - cần phải học.
33- Người đi trước, ta đi sau, không được nói pháp, trừ bệnh
- cần phải học.
34- Người đi giữa đường, ta đi
bên lề, không được nói pháp, trừ bệnh - cần phải học.
35- Không thuyết pháp cho người
che đầu, người lật y một bên, người lật y hai bên, người chống nạnh, người vẫy
tay, trừ bệnh - cần phải học.
36- Không thuyết pháp cho người đang cỡi voi, cỡi ngựa, ngồi
kiệu, đi xe, trừ bệnh - cần phải học.
37- Không thuyết pháp cho người
đang mang guốc, giày, dép - cần phải học.
38- Không thuyết pháp cho người
đang đội mũ, nón, mão như nhục đảnh Phật, người quấn đầu, đội vòng hoa, trừ bệnh
- cần phải học.
39- Không được thuyết pháp cho
người đang che dù - cần phải học.
40- Không được đứng đại tiểu tiện, trừ bệnh - cần phải học.
41- Không được đại tiểu tiện,
khạc nhổ trong nước sạch, trừ bệnh - cần phải học.
42- Không được đại tiểu tiện hay
khạc nhổ trên cỏ xanh - trừ bệnh - cần phải học.
43- Không được leo cây cao hơn
đầu người, trừ nạn duyên - cần phải học.
Các Ðại đức, tôi đã thuyết xong
các pháp chúng học, xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?" (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức, trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy".
VIII.- Bảy pháp
diệt tránh: (Adhikarana samatha)
Các Ðại đức, đây là bảy pháp
diệt tránh, mỗi nửa tháng được nói ra từ giới kinh.
Tụng tóm lược:
Hiện tiền tinh ức niệm
Bất si dữ cầu tội
Ða nhân ngữ, tự ngôn
Thảo yểm trừ chúng tránh.
1- Cần giải quyết bằng Hiện tiền
Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Hiện tiền Tỳ-nại-da.
2- Cần giải quyết bằng Ức niệm
Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Ức niệm Tỳ-mại-da.
3- Cần giải quyết bằng Bất si
Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Bất si Tỳ- nại-da.
4- Cần giải quyết bằng Cầu tội
tự tánh Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Cầu tội tự tánh Tỳ- nại-da.
5- Cần giải quyết bằng Ða nhân
ngữ Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Ða nhân ngữ Tỳ- nại-da.
6- Cần giải quyết bằng Tự ngôn
trị Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Tự ngôn Tỳ- nại-da.
7- Cần giải quyết bằng Thảo yểm
Tỳ-nại-da, nên giải quyết bằng Thảo yểm Tỳ- nại-da.
Nếu có tránh sự phát sinh, phải
dùng bảy pháp này, thuận theo lời dạy của Ðấng Ðạo sư, như pháp, như luật để
diệt trừ tránh sự ấy.
Các Ðại đức, tôi đã thuyết xong
bảy pháp diệt tránh, xin hỏi các Ðại đức:
"Trong chúng này thanh tịnh
không?" (Hỏi ba lần)
"Các Ðại đức, trong chúng này
thanh tịnh vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy".
PHẦN KẾT:
Các Ðại đức, tôi đã thuyết minh
bài tựa giới kinh, bốn pháp Ba-la-thị-ca, mười ba pháp Tăng-già-phạt-thi-sa, hai
pháp bất định, ba mươi pháp Ny-tát-kỳ-ba-dật-để-ca, chín mươi pháp Ba-dật-để-ca,
bốn pháp Ba-la-để-đề-xá-ni, các pháp chúng học, bảy pháp diệt tránh.
Các pháp này đều được giữ gìn
trong giới kinh của đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác. Nếu có những tùy
pháp khác tương ứng với những pháp này, đều phải tu học.
Các Ðại đức cùng nhau hội họp
với tinh thần hoan hỷ không tranh cãi, một lòng một lời như nước hòa với sữa,
siêng năng phát huy rực rỡ Thánh giáo của bậc Ðại sư, làm cho đời sống an lạc,
không sống phóng dật, cần phải tu học như vậy.
1- Nhẫn tinh cần bậc nhất
Ðưa đến chứng Niết-bàn
Xuất gia não hại người
Không phải là Sa môn.
Ðây là giới kinh của Tỳ-Bát-Thi
Như Lai Ðẳng chánh giác giảng dạy.
2- Mắt sáng tránh đường hiểm
Ðến được chỗ an ổn
Bậc trí sống trong đời
Tránh xa các xấu ác.
Ðây là giới kinh của đức Thi Khí
Như Lai Chánh đẳng giác giảng dạy.
3- Không hủy báng, não hại
Khéo hộ trì giới kinh
Ăn uống biết vừa đủ
Dùng ngọa cụ tầm thường
Siêng tu tăng thượng định
Là lời chư Phật dạy.
Ðây là giới kinh của đức Tỳ Xá
Phù Như Lai Chánh đẳng giác giảng dạy.
4- Như ong đến tìm hoa
Không hoại sắc và hương
Chỉ hút mật rồi đi
Bí-sô cũng như vậy.
Ðây là giới kinh của đức Câu Lưu
Tôn Như Lai Chánh đẳng giác giảng dạy.
5- Không chống phá người khác
Xét người làm, không làm
Tự xét hành động mình
Làm đúng hay không đúng.
Ðây là giới kinh của đức
Yết-Nặc-Ca Mâu-Ni Như Lai Ðẳng chánh giác giảng dạy.
6- Chớ đắm mùi vị định
Siêng tu nơi tịch tĩnh
Ðạt vậy, dứt ưu sầu
Thường giữ gìn chánh niệm.
Người nào thường bố thí
Thêm phước, oán không còn
Tu thiện, trừ các ác
Hết hoặc, chứng Niết-bàn.
Ðây là giới kinh của đức Ca
Nhiếp Ba Như Lai Chánh đẳng giác giảng dạy.
7- Không làm các điều ác
Thực hành các hạnh lành
Ðiều phục được tự tâm
Là lời chư Phật dạy.
Lành thay hộ trì thân
Lành thay hộ trì lời
Lành thay hộ trì ý
Lành thay phòng hộ hết.
Bí-sô hộ tất cả
Trừ diệt tất cả khổ
Khéo hộ trì miệng, lời
Khéo hộ trì ý tưởng
Thân không làm việc ác
Thường thanh tịnh ba nghiệp
Thế nên phải tùy thuận
Giáo pháp bậc Ðại tiên.
Ðây là giới kinh của đức Thích
Ca Như Lai Ðẳng chánh giác giảng dạy.
Tỳ-Bát-Thi, Thi Khí
Tỳ Xá, Câu Lưu Tôn
Yết Nặc Ca Mâu Ni
Ca Nhiếp, Thích Ca tôn
Bậc trời giữa các trời
BậcVô thượng Ðiều ngự
Bảy Phật đều hùng dũng
Thường cứu hộ thế gian
Ðầy đủ tiếng khen lớn
Ðều thuyết giới pháp này
Chư Phật cùng đệ tử
Ðều kính tôn trọng giới
Nhờ cung kính giới kinh
Chứng đắc quả Vô thượng
Người hãy cầu giải thoát
Siêng tu lời Phật dạy
Hàng phục quân sinh tử
Như voi xô nhà cỏ
Ngay trong pháp luật này
Thường sống không phóng dật
Tát cạn biển phiền não
Vượt qua khỏi bờ khổ
Mỗi khi thuyết giới kinh
Hòa hợp làm trưởng tịnh
Phải cùng tôn kính giới
Như trâu mao giữ đuôi
Tôi đã thuyết giới kinh
Chúng Tăng trưởng tịnh xong
Phước lợi các hữu tình
Ðều cùng thành Phật đạo.
CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THẾ HỮU BỘ
TỲ NẠI DA
BÍ-SÔ GIỚI KINH
- Hết -
--- o0o ---
MỤC LỤC
|
XUẤT GIA SỰ |
AN CƯ SỰ
|
TÙY Ý SỰ
|
YẾT-SĨ-NA Y SỰ
NY-ÐÀ-NA
|
MỤC-ÐẮC-CA |
BÍ-SÔ GIỚI KINH
|
BÍ-SÔ-NI GIỚI KINH
--- o0o ---
Source:
BuddhaSasana website (
By Binh Anson)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-11-2002