|
. |
CĂN BẢN THUYẾT
NHẤT THẾ HỮU BỘ
TỲ NẠI DA
Hán
dịch: Ðường Tam Tạng NGHĨA TỊNH
Việt dịch: Tỳ-kheo TÂM HẠNH
(PL 2545 - TL 2001)
--- o0o ---
AN CƯ
SỰ
(No. 1445)
Một quyển
-ooOoo-
Thành kính đảnh lễ đức Thế tôn,
Ứng cúng, Chánh biến tri.
Phật ở thành Thất La Phiệt, rừng
Thệ Ða, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế tôn cùng chúng
Bí-sô an cư ba tháng mùa mưa tại trú xứ này. Khi ấy, có nhiều chúng Bí-sô ngay
trong hạ này đi đến xứ khác, du hành trong nhân gian, không khéo hộ trì thân,
sát hại côn trùng. Các ngoại đạo phát sinh sự chê bai, phát biểu:
- Sa môn Thích tử này không có
từ bi, du hành trong mùa hạ, sát hại các loại côn trùng, không khác gì người thế
tục. Các cầm thú trong bốn tháng còn ở trong hang ổ, không đi ra bên ngaòi,
nhưng các Sa môn trọc đầu này không chịu an cư, không biết thu nhiếp ở yên một
chỗ. Họ đã không có phép tắc, ai lại đem y thực bố thí cho bọn họ.
Các Bí-sô đem sự việc này bạch
Phật, Phật dạy:
- Nay Ta nhân sự việc này, chế
định các Bí-sô tác pháp an cư, ngay trong ba tháng ở yên một trú xứ.
Các Bí-sô nghe lời dạy này,
không biết làm thế nào tác pháp an cư. Phật dạy:
- Trước hết, vào ngày mười lăm
tháng năm, ngay tại trú xứ nên quét dọn thanh tịnh, dùng phân bò đắp nền, tập
hợp tất cả ngọa cụ hiện có lại một chỗ, kể cả bồn rửa chân.
Sau khi đại chúng tập hợp, nên
sai một Bí-sô làm người chấp chưởng ngọa cụ. Nếu người nào có năm việc thì không
được sai.
Thế nào là năm? - Nghĩa là: có
ái, nhuế, bố, si và không biết ngọa cụ nào nên chia hay không nên chia.
Người nào ngược với năm điều
trên thì nên sai vị ấy.
Nên sai như thế này:
- Trải tòa, đánh kiền chùy, đại
chúng tập họp, nói lên vấn đề, trước hết hỏi Bí-sô... có thể vì Tăng già an cư
mùa hạ phân ngọa cụ không?
Vị kia đáp:
- Ðược.
Thứ đến, một Bí-sô trước tiên
tác bạch rồi sau đó Yết-ma:
- Ðại đức Tăng già lắng nghe:
Bí-sô này tên... vui lòng phân ngọa cụ cho Tăng già an cư mùa hạ. Nếu thời gian
thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng già sai Bí-sô tên... vì Tăng già
an cư mùa hạ làm Bí-sô phân ngọa cụ. Ðây là lời tác bạch.
Ðại đức Tăng già lắng nghe, Bí
sô này tên... vui lòng phân ngọa cụ cho Tăng già an cư mùa hạ. Nay Tăng già sai
Bí-sô tên... vì Tăng già an cư mùa hạ làm Bí-sô phân ngọa cụ. Nếu các cụ thọ
đồng ý Bí-sô tên... làm người phân ngọa cụ cho Tăng già an cư mùa hạ thì im
lặng. Nếu người nào không đồng ý, nói ra.
Tăng già đã đồng ý vị tên... vì
Tăng già an cư mùa hạ làm Bí-sô phân ngọa cụ. Tăng già đã đồng ý vì im lặng. Nay
tôi thọ trì như vậy.
Phật dạy:
- Nay Ta vì các Bí-sô chế ra
pháp phân ngọa cụ: Người thọ sự trước tiên vì Tăng già sắm thẻ. Sau đó, vào sáng
hôm sau, trải tòa, đánh kiền chùy, trình bày vấn đề với chúng. Hai đầu thẻ nên
cột hoa, rắc bột thơm, đặt trong hộp bằng tre, xông băng hương thơm, phủ vải
trắng quý lên trên. Thẻ dài một gang tay, đặt trước Thượng tọa. Sau đó, tuyên bố
pháp lệnh: Ðại đức Tăng già lắng nghe! Ngay tại trú xứ này có chế pháp lệnh. Nếu
các đại đức vui lòng an cư ở đây, không được vi phạm.
Ngay lúc này nhận thẻ. Các chúng
Bí-sô, ở ngay trong hạ này không nên trách cứ lẫn nhau về phá kiến, phá giới,
phá chánh hạnh, phá chánh mạng. Như những vị nhân đức nào biết co người phạm thì
ngay bây giờ có thể bàn luận về việc này. Ngay trong hạ không được cùng nhau
khơi dậy việc phát sinh phiền nào, làm các Bí-sô không được sống an lạc.
Khi báo cáo như trên xong, sau
đó phân ngọa cụ. Sai một Bí-sô bưng mâm thẻ đi trước. Người thu thẻ bưng mâm
không đi sau. Ðặt một thẻ đầu tiên tại chỗ Ðại sư giáo chủ. Sau đó đi đến đứng
trước Thượng tọa. Thượng tọa phải bước ra khỏi chỗ một chút, quỳ xuống chấp tay
thọ thẻ của mình. Sau đó nhẹ nhàng đặt thẻ lên mâm không. Thứ lớp như vậy đi,
cho đến người cuối cùng. Nếu có cầu tịch tự thân không đến, thì A Giá Lợi Da, Ô
Ba Ðà Da đại diện lấy thẻ cho họ. Sau đó, lấy thẻ của thiên thần hộ chùa. Sau
khi hành thẻ tất cả xong, nên thu số thẻ ấy, bạch đại chúng rằng:
"Ngay tại trú xứ này, những
người hiện tại nhận thẻ, Bí-sô có bao nhiêu vị, cầu tịch có bao nhiêu vị?"
Bí-sô phân ngọa cụ cầm các chìa
khóa, đặt trước Thượng tọa, thưa rằng:
"Ðại đức, phòng số... có y, có
lợi, như ngài vui lòng thì nhận".
Nếu Thượng tọa không nhận phòng
này, nên chuyển cho đệ nhị Thượng tọa.
Nếu đệ nhị Thượng tọa nhận phòng
này thì giao phòng vị này đã ở trước đây cho đệ tam Thượng tọa...
Triển chuyển như vậy cho đến
người cuối cùng trong chúng Tăng.
Khi đệ nhất Thượng tọa thấy đưa
phòng cho đệ nhị Thượng tọa, liền đòi lại. Khi đòi lại lần thứ nhất, không nên
cho. Ðòi lần thứ hai cũng không nên cho. Ðòi lần thứ ba, nên cho. Nhưng Thượng
tọa bị tội ác tác.
Triển chuyển như vậy cho đến
người cuối cùng trong chúng.
Nếu xảy ra trường hợp như trên,
vị nào phạm phải bị tội vượt pháp. Căn cứ ở trên thì rõ.
Nhưng ngay tại trú xứ có phòng
xá, đều nhận hết, Bí-sô khách đến, không còn phòng để phân, Thế tôn dạy rằng:
- Nên lưu lại một phòng cùng với
ngọa cụ dự phòng cho Bí-sô khách.
Khi ấy, các Bí-sô giữ lại phòng
dưới cổng, bên dưới hiên, bên thềm trước nhà, đường đi bộ... để cho Bí-sô khách,
Phật dạy:
- Không được để chỗ dưới cổng,
lối đi, v.v... cho Bí-sô khách, hay là nơi chim chóc ở, không phải chổ ở của
người.
Phật dạy:
- Nên khiến một Bí-sô biết lợi
dưỡng của Tăng già, lưu lại một phòng riêng, an trí ngọa cụ, nhưng Bí-sô này
phải tự giữ gìn vật dụng đã có. Lại nên xem xét trùng và tổ ong. Ong ra khỏi tổ
thì nên bỏ đi. Ong con còn trong tổ thì treo tổ lên, an trí nơi khác, chúng
trưởng thành tự bay đi.
Có khách Bí-sô đến, nên cấp ngọa
cụ. Nếu ít người thì mỗi người một cái. Nếu nhiều người thì hai người dùng chung
một cái. Hoặc ba người dùng một cái.
Có các Bí-sô kỳ túc, được cấp
nệm lớn, dày, di chuyển rất khó, không biết phải làm thế nào, Phật dạy:
- Nếu Bí-sô kỳ túc không thể di
chuyển, có Bí-sô trẻ nên khiến làm y chỉ.
Sau khi phân ngọa cụ xong, nên
bảo rằng:
"Không có vật lót, không nên
nằm. Cũng không nên dùng vật nhỏ, bẩn mồ hôi, hư nát, mỏng manh... để thay vào
ngọa cụ của Tăng".
Người thọ sự tuần phòng xem xét,
thấy ai làm việc phi lý, căn cứ vào sự việc mà trị phạt. Nếu là người còn nhỏ,
nên nói với hai thầy của họ để khiển trách.
Bí-sô xem xét phòng xá, vào ngày
mười lăm mỗi tháng phải tuần phòng quan sát. Nếu thấy người nào thọ dụng ngọa cụ
không như pháp thì bạch đại chúng biết, thu ngọa cụ lại, lại còn trị phạt. Nếu
những người còn y chỉ thì bảo với thầy họ thu ngọa cụ lại.
Khi đại chúng hòa hợp vân tập
lại, nên bạch rằng:
- Này các cụ thọ, nay tại trú xứ
này có số người... như thế này, sẽ y cứ vị tên... làm thí chủ. Y vào thôn xóm...
làm chỗ khất thực. Lấy vị tên... làm người doanh sự, vị tên... làm người xem
bệnh. Ngay tại trú xứ này tác pháp an cư.
Khi ấy, các Bí-sô nên xem xét
những nơi thôn xóm khất thực ở lân cận. Sau khi xem xét, tâm tình vui vẻ, nên tự
nghĩ rằng: "Ta ở trú xứ này, an cư ở đây cùng với các vị đồng phạm hạnh, không
sinh ưu não; nếu có phát sinh, mau trừ diệt. Những sự an lạc chưa sinh, làm cho
sinh; đã sinh, làm cho phát triển. Những chỗ thôn phường khất thực, không sanh
lao khổ. Nếu ta bệnh hoạn có người giúp đỡ, cung cấp thuốc men cho ta. Sự cần
dùng về ăn uống đều được đầy đủ".
Sau khi suy nghĩ như thế, Bí-sô
nên vào chỗ thuận tiện, đối trước một Bí-sô đầy đủ uy nghi, tùy tuổi hạ mà làm
lễ, ngồi xổm, chắp tay nói rằng:
- Cụ thọ ghi nhớ cho, hôm nay
ngày mười sáu tháng năm, an cư mùa hạ. Tôi, Bí-sô tên... ngay trong cương giới
của trú xứ này tiền an cư ba tháng mùa hạ, lấy người tên... làm thí chủ, người
tên... làm doanh sự, người tên... làm người xem bệnh. Ngay trong hạ này, tôi an
cư ở đây.
Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói
như vậy.
Bí-sô đối thủ kia nên nói:
- Thiện.
Ðáp:
- Lành thay!
Nếu có nhân duyên không kịp tiền
an cư, cho phép hậu an cư, căn cứ tiền an cư mà tiến hành. Ðã an cư rồi, ban đêm
không được ra khỏi cương giới. Nếu có nhân duyên cần phải ra khỏi cương giới về
đêm, không được ở lại suốt đêm bên ngoài.
Bấy giờ, trong thôn Tượng có
trưởng giả tên là Ưu Ðà Diên, gia đình giàu có, tài sản rất nhiều. Khi ấy,
trưởng giả đem y phục và thức ăn trong nhà để riêng vào một kho, chuẩn bị để
cúng dường Bí-sô Tăng già.
Trưởng giả đưa tin đến thành
Thất La Phiệt thỉnh các Bí-sô Tăng già: Tại thôn tên... có trưởng giả tên... ,
thưa như thế này: "Trong gia đình của con có nhiều y phục, thức ăn, nay muốn
cúng dường Ðại đức. Ngưỡng mong từ bi thu nạp".
Các Bí-sô bảo với sứ giả:
- Nhà của trưởng giả ấy cách đây
gần hay xa?
Ðáp:
- Ðến đó xa hơn ba du-thiện-na.
Các Bí-sô đều suy nghĩ:
- Ðến đó xa quá. Chúng ta muốn
đến, không biết chiều có về kịp không?
Họ đều nói:
- Ðến đó xa quá, không thể về
kịp trong buổi chiều. Thế tôn chế định cho chúng tôi an cư, không được ở đêm bên
ngoài cương giới.
Không biết phải làm thế nào, do
đó họ không đi.
Bấy giờ, bên cạnh thôn Tượng có
Bí-sô ở riêng an cư tại nơi đó. Vị này được thọ thỉnh, vị này được nhiều y phục,
thực phẩm. Sau khi mãn an cư ba tháng mùa hạ, vị này mặc y, mang bát đến thành
Thất La Phiệt, từ từ du hành, đến một chùa trong thành. Các Bí-sô trong chùa ra
nghênh tiếp, đỡ l?y y bát an trí trong phòng.
Chủ nhân hỏi:
- Thầy từ đâu đến? An cư ở đâu?
Ðáp:
- Chúng tôi ở bên cạnh thôn
Tượng, an cư xong ba tháng, từ đó đi đến đây.
Chủ nhân hỏi:
- Quý thầy an cư có được hòa
hợp, khất thực được dễ dàng không?
Ðáp:
- Chúng tôi an cư ở đó rất là an
lạc; y phục, thực phẩm rất đầy đủ, không khổ cực gì cả.
Hỏi:
- Tại sao quý thầy an cư ở đó có y thực đầy đủ, không thiếu
thốn vậy?
Ðáp:
- Bên cạnh trú xứ ấy có một tụ
lạc, gọi là Tượng thôn. Trong thôn có trưởng giả tên Ưu Ðà Diên rất giàu có. Với
tín tâm sâu, làm phước nghiệp ấy, mang nhiều thức ăn uống và y phục đến cúng
dường, vì vậy nên rất đầy đủ.
Khi ấy, các Bí-sô nói rằng:
- Nhưng trưởng giả kia cũng từng đến đây thỉnh.
Lại hỏi Bí-sô khách:
- Ðến đó xa bao nhiêu?
Ðáp:
- Ba du-thiện-na.
Họ tự nghĩ: "Nếu đến chỗ kia, sợ
đêm không trở lại được. Thế tôn không cho phép trong an cư được ở đêm bên ngoài
cương giới". Do đó họ không đi.
Các Bí-sô đem việc này bạch
Phật, Phật tự nghĩ: "Ðệ tử Thanh văn của Ta tuy không có tâm tham trước đối với
y thực, nhưng để cho họ an trú lợi lạc, lại làm cho thí chủ được thọ hưởng phúc,
nên cho phép ra ngoài bảy ngày để dự việc mời thỉnh".
Nhân đó, Phật tập hợp Tăng già,
bảo các Bí-sô rằng:
- Trong thời gian an cư, nếu có
việc cần phải ra ngoài cương giới, nên cho phép đi từ một ngày đến bảy ngày.
Phật cho phép đi, nhưng Bí-sô
không biết những việc gì được đi, đem sự việc bạch Phật, Phật dạy:
- Ðây là việc thuộc cận sự nam,
cận sự nữ, Bí-sô, Bí-sô ni, Thức xoa ma na, cầu tịch nam, cầu tịch nữ...
Các Bí-sô không biết thế nào là
các việc thuộc cận sự nam, v.v... , Phật dạy:
- Nếu trong nhà cận sự nam có
việc, họ mặc y phục, sắp đặt thức ăn uống, sai người đến mời các Bí-sô:
"Ngưỡng mong Thánh giả đến thọ
cúng dường".
Ðây gọi là cận sự nam sự. Nên
đối trước một Bí-sô, ngồi xổm, chắp tay thọ trì pháp đi bảy ngày. Ðây là duyên
sự thuộc cận sự nam.
Nếu cận sự nam muốn cúng dường
các Bí-sô ngọa cụ các vật và các loại y thực, gọi Bí-sô:
"Ngưỡng mong Thánh chúng từ bi
thọ y thực của con".
Phật dạy:
- Bí-sô nên thọ trì pháp đi bảy
ngày ra ngoài cương giới. Ðây gọi là duyên sự thuộc cận sự nam.
Nếu có cận sự nam vì các Bí-sô
không có ẩm thực nên làm ra các món ăn uống ngon, đến mới Bí-sô, Phật dạy:
- Ðược thọ trì pháp đi ra ngoài
cương giới trong bảy ngày. Ðây gọi là cận sự nam sự
Lại có cận sự nam xây cất tháp,
muốn đặt đà-đô (?) và sắp đặt các loại hương hoa, đến thỉnh Bí-sô:
"Ngưỡng mong Ðại đức hỗ trợ công
đức của con".
Phật dạy:
- Bí-sô nên thọ trì pháp bảy
ngày để đi. Ðây gọi là vì cận sự nam cùng Phật sự.
Lại có các cận sự nam xây cất
tháp, an trí tướng pháp luân, hoặc tràng phan, lọng, hoặc đem các loại đàn
hương, uất hương, v.v... cúng dường tháp, cùng đem ẩm thực, y phục cúng dường,
đến thỉnh Bí-sô. Phật dạy:
- Nên thọ trì pháp bảy ngày để
đi. Ðây gọi là cận sự nam sự.
Hoặc có cận sự nam ghi chép kinh
để tu học, hoặc chép luận để tu học và những lời Phật dạy. Khi chép xong, muốn
thiết cúng dường, đến thỉnh Bí-sô, Phật dạy:
- Nên thọ trì pháp bảy ngày để
đi. Ðây gọi là cận sự nam sự.
Nếu cận sự nam đối với giáo pháp
tóm lược, có các nghi ngờ không quyết đoán được, muốn hỏi Bí-sô về ý nghĩa các
câu pháp, họ xếp đặt món ăn uống, đến mời Bí-sô để trừ sự nghi ngờ. Bí-sô được
thọ trì bảy ngày ra ngoài cương giới. Ðây gọi là cận sự nam sự và pháp sự.
Nếu cận sự nam bỗng nhiên sinh
tà kiến, không tin nhân quả, đến thỉnh Bí-sô để trừ tà kiến. Phật dạy:
- Bí-sô nên thọ trì pháp bảy
ngày ra ngoài cương giới. Ðây gọi là cận sự nam sự.
Nếu cận sự nam vợ có thai, sợ
sinh tai nạn, muốn cho mẹ con được bình an, đến thỉnh Tăng già đ? bát cúng
dường. Phật dạy:
- Bí-sô nên thọ trì pháp bảy
ngày ra ngoài cương giới. Ðây gọi là cận sự nam sự.
Nếu cận sự nam vì bệnh hoạn, xếp
đặt các món ăn uống và bố thí y phục, đến thỉnh Bí-sô, bạch rằng:
"Con bệnh, sợ phải chết, xin
cúng dường Tăng già những sự việc như vậy".
Phật dạy:
- Bí-sô được thọ trì bảy ngày ra
ngoài cương giới. Ðây gọi là cận sự nam sự.
Thế nào là cận sự nữ sự? - Rộng
như cận sự nam sự.
Thế nào là Bí-sô sự?
- Như có Bí-sô sáng tạo trú xứ
cùng viên lâm cúng dường cho tứ phương Tăng già. Nhân khi khánh thành, xép đặt
thức ăn uống và y phục cúng dường Tăng già. Khi họ sai người mời các Bí-sô đến,
các Bí-sô nên thọ trì pháp bảy ngày ra ngoài cương giới. Ðây gọi là duyên sự
thuộc Bí-sô.
Lại có duyên sự do Bí-sô sau khi
cúng dường các Bí-sô vườn, lại cúng dường ngọa cụ, thường thỉnh và cúng dường.
Hoặc vì xá lợi nên xây tháp. Hoặc vì các loại bột thơm đồ đàn, uất kim. Hoặc bố
trí tướng pháp luân, tràng phan, bảo cái và xếp đặt cúng dường bốn bộ chúng,
v.v... ghi chép kinh điển... Do các duyên sự trên, đến thỉnh. Bí-sô nên thọ trì
bảy ngày ra ngoài cương giới. Ðây gọi là Bí-sô duyên sự.
Lại có Bí-sô muốn trị phạt người
ác, tiến hành các pháp Yết-ma, đến thỉnh Bí-sô Tăng già đến hỗ trợ. Bí-sô Tăng
già nên thọ trì bảy ngày ra ngoài cương giới. Ðây gọi là Bí-sô duyên sự.
Nếu Tăng già Bí-sô muốn trị phạt
người ác nên làm Yết-ma. Họ đến thỉnh Bí-sô:
"Thầy hãy đến giúp tôi".
Bí-sô nên thọ trì pháp đi bảy
ngày. Ðây gọi là Bí-sô Tăng già duyên sự.
Nếu có Bí-sô bị bệnh nặng, đau
đớn, sai người đ?n thỉnh Bí-sô:
"Hãy thuyết pháp cho tôi" , và
thỉnh cùng nhau chăm sóc, Phật dạy:
- Bí-sô nên thọ pháp đi bảy
ngày. Ðây gọi là Bí-sô duyên sự.
Thế nào là các duyên sự thuộc
Bí-sô ni?
- Bí-sô ni duyên đồng Bí-sô,
trong đó có sự khác biệt như: cúng dường Bí-sô Tăng già, cúng dường pháp, khi bố
thí vật và học Phật pháp, cùng với khi Thức xoa ma na nữ muốn thọ cận viên, đến
thỉnh Bí-sô cùng Bí-sô ni:
"Ngưỡng mong đến cùng tôi truyền
thọ cận viên cho họ".
Khi ấy, hai chúng nên thọ trì
pháp đi bảy ngày. Ðây gọi là Bí-sô ni và Thức xoa ma na các duyên.
Thế nào là cầu tịch duyên?
- Ðồng như pháp ở trước.
Thế nào là cầu tịch nữ duyên?
- Ngoài các điều đồng như trước,
có sự khác biệt như: nếu phụ nữ đã từng có chồng - tuổi đủ mười hai và đồng nữ
tuổi mười tám - thỉnh Bí-sô Tăng già:
"Xin truyền thọ sáu pháp và sáu
tùy pháp cho con"
Bí-sô nên đi.
Ðây là duyên sự cầu tịch nữ.
Nếu Bí-sô an cư xong, hoặc tự
nghĩ: "Ta an cư chỗ này không người cung cấp thức ăn cho ta, có thể bị chết".
Hoặc có người chưa từng học kinh, cần phải học; chưa từng tập định, cần phải tư
duy. Hoặc người chưa chứng, cần chứng; chưa thấy, cầu thấy; chưa đắc, cầu đắc.
Nếu có các duyên trên, muốn rời trú xứ, Phật dạy:
- Không phạm, cũng không phá an
cư.
Sau khi đã tác pháp an cư, bỗng
nhiên sinh bệnh chết, biết không có thầy thuốc và thuốc nên vẫn ở lại, sợ mạng
sống không bảo đảm. Ðây là các duyên thuộc mạng nạn để đi ra ngoài. Phật dạy:
- Không phạm, cũng không phá an
cư.
Nếu Bí-sô đã tác pháp an cư, có
bệnh phát sinh, tuy có thuốc thang nhưng không có người xem bệnh, sợ bị chết,
Phật dạy:
- Cho phép đi, không phá an cư.
Nếu Bí-sô tác pháp an cư xong, có người nữ đến chỗ ở của
Bí-sô, nói rằng:
"Tôi có phụ nữ trẻ và nô tỳ,
muốn cúng dường cho Ðại đức".
Bí-sô tự nghĩ: "Nếu ta không bỏ
đi, sợ mất phạm hạnh và mạng nạn,.v.v... sẽ phát sinh".
Ðâylà các duyên thuộc phạm hạnh
nạn.v.v. Phật dạy:
- Không phạm, cũng không phá an
cư.
Nếu có các duyên thuộc đàn ông,
huỳnh môn, căn cứ trên thì rõ.
Nếu Bí-sô đã tác pháp an cư,
thấy có nữ nhân, sinh dục tưởng, không thể ngăn chận phiền não, sợ mất phạm
hạnh, cũng nên bỏ đi nơi khác.
Nếu Bí-sô tác pháp an cư xong,
thấy có vật ở chỗ kín, liền tự nghĩ: "Ta ở đây sợ sẽ không giữ được tâm mình, sẽ
lấy vật kia" , Phật dạy:
- Ði chỗ khác không có tội.
Nếu Bí-sô trong lúc an cư, bỗng
nhiên có bà con quyến thuộc đến can ngăn Bí-sô ở đây, Bí-sô cơ hiềm, đi ở nơi
khác. Như ở trước, không có lỗi.
Lại nữa, Bí-sô có nam nữ, bán
trạch ca, v.v... đến thỉnh an cư, sau khi đã thọ thỉnh, nhưng thí chủ này - hoặc
mắc nợ vật của người khác, hoặc sát hại người khác, hoặc cướp tài vật của người
khác, hoặc ở ngay tại trú xứ có cọp, sói, sư tử, các loài ác thú, các nạn.v.v...
đến khủng bố thí chủ, thí chủ hoặc bỏ chạy, hoặc bị chết, khi ấy Bí-sô kia tự
nghĩ: "Thí chủ này thỉnh ta an cư, lại phát sinh các tai nạn như trước. Nay ta ở
đây, hoặc mất phạm hạnh, hoặc mất mạng, v.v...", vị này rời bỏ chỗ cũ, đi đến
nơi khác an cư, đồng như trước, không phạm.
Nếu gặp lúc trong trú xứ sinh ra
nhiều bệnh hoạn, Bí-sô trú ở đây không được an lạc, Phật d?y:
- Dời đến nơi khác an cư. Ðồng
như trước không phạm.
Lại có nam nữ, bán trạch
ca,v.v... đến thỉnh Bí-sô cùng tập hợp lại an cư. Nếu có vua đến bắt thí chủ
kia, hoặc giết, hoặc chiếm tài vật, bấy giờ thí chủ chạy đến chỗ khác, Bí-sô tự
nghĩ: "Thí chủ này gặp phải sự khủng bố, đã chạy trốn. Nếu ta ở đây, hoặc bị mất
mạng, hoặc bị mạng nạn các duyên, v.v...", vị này đi đến chỗ khác, đồng như
trước không phạm.
Nếu có thí chủ đến thỉnh Bí-sô
an cư, nhưng nhà của thí chủ này bỗng nhiên bị hỏa hoạn, có khi bị chết, có khi
phải chạy đi, Bí-sô tự nghĩ: "Thí chủ này bỗng nhiên bị hỏa hoạn, hoặc chết,
hoặc chạy đi, ta ở đây một mình, sợ bị hoạn nạn hay phạm hạnh nạn", đi đến chỗ
khác, như trước không phạm.
Nếu có thí chủ đến thỉnh Bí-sô
tác pháp an cư, tại trú xứ này ẩm thấp, nhiều nước, sợ sau này sinh bệnh, đi đến
nơi khác an cư, đồng như trước không phạm.
Nếu có thí chủ đến thỉnh Bí-sô
an cư, nhưng ở tại trú xứ này có lời nói dèm pha:
"Cần gì phải cạo đầu ở đây, chịu
các đói khổ, ở trong rừng, dưới gốc cây... Hãy trở về nhà, làm các phước nghiệp,
không cần xuất gia".
Bí-sô tự nghĩ: "Nếu ta ở đây
lâu, hoặc mất phạm hạnh". Nếu có duyên sự này, cho phép bỏ đi, không tội.
Bí-sô đang an cư, hoặc có vua ra
lệnh bốn loại binh đến trú xứ này bắt Bí-sô. Họ nói rằng: "Phải tuân theo việc
lao dịch như thế tục"
Hoặc bắt hoàn tục, hoặc bắt lấy
vợ, hoặc đoạt lấy y bát, hoặc làm các việc não hại khác... Nếu có các mạng nạn
như vậy xảy ra, được phép bỏ đi ngay lúc ấy, không phạm và cũng không phá an cư.
Bí-sô ở trú xứ của mình, có nam
tử, nữ nhân, bán trạch ca đến thỉnh Bí-sô an cư và cung cấp y phục, thực phẩm.
Sau đó, vì nạn vua đến, v.v... đều tự bỏ chạy, không người cung cấp. Do duyên sự
này, Bí-sô muốn đi đến trú xứ khác, không phạm.
Bí-sô đang an cư, có giặc đến
trộm bò, dê, v.v... và sát sinh, làm các việc phi pháp. Họ đến chỗ ở của Bí-sô,
nói rằng:
"Các người hãy đi nơi khác, ta
muốn ở đây".
Nếu có ác tặc như vậy đến ở
trong chùa, não loạn Bí-sô, nên bỏ đi ngay, không phạm.
Nếu Bí-sô y chỉ nam nữ, hoàng
môn, v.v... để an cu. Bấy giờ thí chủ kia bị người khác bắt giữ, oan gia trói
buộc, phi nhân khủng bố, nên họ chạy sang nơi khác, nhân đó họ qua đời. Khi ấy,
các Bí-sô tự nghĩ: "Ta an cư ở đây có những hoạn nạn như vậy, lại không có thí
chủ, do nhân duyên này, làm khiếm khuyết phạm hạnh của ta". Vì nạn duyên của Sa
môn, đi đến trú xứ khác, không bị tội phá an cư. Chỗ mới đến, được phép an cư
thì nên tác pháp an cư ở đấy, không nên ra ngoài cương giới.
Lại nữa, nếu trước đây là trú xứ
của phi nhân, Bí-sô tác pháp an cư ở đây, có những kẻ già trẻ không hiểu biết,
vào trong chùa phóng uế bất tịnh, không thể thân cận; lại gần sông nước, nước
lụt dâng lên cao làm tổn thất y vật, tài sản của thí chủ, hoặc chết, hoặc bỏ đi,
Bí-sô tự nghĩ: "Thí chủ này gặp phải tai nạn nước lụt. Nếu ta ở đây, tất có sinh
ra mạng nạn, phạm hạnh nạn". Bí-sô bỏ đi nơi khác, như trước không phạm.
Nếu có Bí-sô đang an cư, thấy có
Bí-sô dạy Bí-sô khác hoặc tự làm các việc phá Tăng già, hay khuyến khích mọi
người và tạo ra các phương tiện phá Tăng. Bấy giờ Bí-sô kia tự nghĩ: "Nay tại
trú xứ này hiện có việc phá Tăng già. Nếu ta an cư ở đây, nhưng Bí-sô kia muốn
phá Tăng già, hoặc ra lệnh ta phá, hoặc khuyến hóa ta phá và tạo ra các phương
tiện...".
Vị này lại tự nghĩ: "Nay nếu ta
dùng lời lẽ thiện để khuyến hóa, họ tất không nghe theo, lại đối xử xấu với ta.
Nếu ta ở lâu tại đây, sự việc như trên sinh ra thì những điều ta đã học được
trước đây tất nhiên mất hết. Những điều ta chưa học, không thể tiến bộ được. Ta
không nên ở đây nữa, nên đi đến chỗ khác".
Vị này đến an cư chỗ khác, như
trước, không phạm.
Nếu Bí-sô đang an cư, nghe có
Bí-sô muốn làm việc phá Tăng. Bí-sô ấy lại là thân hữu tri thức của mình, vị này
tự nghĩ: "Nếu ta nhận lời họ, sợ có việc phá Tăng thì mắc tội. Nếu ta không nhận
lời, họ lại là tri thức của ta". Vị này nên thọ trì bảy ngày đi ra ngoài cương
giới. Nếu đủ bảy ngày nhưng sự việc chưa chấm dứt, quá bảy ngày ở ngoài cương
giới không bị tội. Nếu không bỏ đi, bị tội vượt pháp.
Nếu có Bí-sô nghe Bí-sô nói: trú
xứ kia ba tháng an cư được nhi?u lợi vật, Bí-sô này lại muốn an cư nơi đó. Lại
có Bí-sô nói: "Ở trú xứ này cũng có nhiều lợi dưỡng. Ðằng kia được lợi dưỡng
cũng như ở đây, không nên đến trú xứ kia làm gì". Bí-sô này an cư ở đây không
được lợi dưỡng. Bí-sô nói trước bị tội vượt pháp.
Nếu có Bí-sô nghe Bí-sô khác
nói: tại trú xứ có chỗ an cư tốt, Bí-sô này liền đến trú xứ ấy. Sau khi vị này
nhận thẻ xong nhưng không được phân lợi vật. Bí-sô nói trước bị tội vượt pháp.
Nếu có Bí-sô nghe các Bí-sô nói:
trú xứ tên... có chỗ tiền an cư ba tháng. Bí sô nghe thế, liền đến trú xứ kia.
Sau khi thọ thẻ, không được phân ngọa cụ, cũng không thể ở được, Bí-sô nói kia
bị tội đột-sắc-ngật-lý-đa.
Nếu có Bí-sô nghe Bí-sô nói: tại
trú xứ tên... có chỗ tiền an cư ba tháng. Vị này đến đó, sau khi thọ thẻ, đuợc
phân ngọa cụ xong, lại theo hành động khác, đến ở trú xứ khác, lại không chịu an
cư, bị tội ác tác, không thành an cư.
Nếu Bí-sô nghe Bí-sô nói trú xứ
tên... có chỗ tiền an cư ba tháng, vị này liền đến đó, cùng nhau thọ thẻ, phân
ngọa cụ. Tác pháp an cư xong, tự có duyên sự, không thọ trì pháp bảy ngày, tự
tiện đi ra ngoài cương giới, không thành tiền an cư, bị tội ác tác.
Nếu có Bí-sô nghe Bí-sô khác nói
rằng: "Tại trú xứ tên.... có tiền an cư ba tháng", liền đến chỗ kia. Sau khi đến
nơi, thọ thẻ, phân ngọa cụ xong, an cư ở đó; có duyên sự, thọ trì bảy ngày ra
ngoài cương giới.
Trú xứ tên... lại không chịu an
cư ba tháng.
Do vì người nói trước mắc tội
đột-sắc-ngật-lý-đa. Bí-sô thọ trì pháp bảy ngày, quá bảy ngày không trở lại, phá
an cư.
Sáu pháp tiền an cư này không
khác pháp hậu an cư, đều căn cứ tiền an cư thi hành. Chỉ nói khác đi là: hậu an
cư ba tháng. Ngoài ra như đã thuyết minh rõ trong sách Nhất Yết Ma.
CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THẾ HỮU BỘ
TỲ NẠI DA
AN CƯ SỰ
- Hết -
--- o0o ---
MỤC LỤC
|
XUẤT GIA SỰ |
AN CƯ SỰ
|
TÙY Ý SỰ
|
YẾT-SĨ-NA Y SỰ
NY-ÐÀ-NA
|
MỤC-ÐẮC-CA |
BÍ-SÔ GIỚI KINH
|
BÍ-SÔ-NI GIỚI KINH
--- o0o ---
Source:
BuddhaSasana website (
By Binh Anson)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-11-2002
|
|