Kế đó người hỏi cứ hỏi tiếp:
VẤN:
Sammajjanì padìpoca, udakam àsanena ca
upothassa etàni pubbakarananti vuccati. Ukàsa sammajjanì?
Sự quét chùa, đốt đèn,
múc nước để sẳn, trải chỗ ngồi, hết thảy bốn điều này gọi là việc phải
làm trước khi làm lễ Phát Lộ.
Bạch Ngài, thế nào gọi
là việc phải quét sạch?
ÐÁP:
Sammajjanakarananca.
Sự quét sạch "trong chỗ
làm lễ này vậy."
VẤN: Padìpo ca?
Sự đốt đèn?
ÐÁP:
Padìpo ujjalananca (idàni suriya lokassa
natthitàya padìpa-kiccam atthi)
"Bây giờ không có mặt
trời nên phải đốt đèn". là sự đốt đèn cho sáng "trong chỗ này"
VẤN: Udakam àsannena
ca? Nước và chỗ ngồi thế nào?
ÐÁP: Asanena saha
pànìya paribhojanìya udakatthapananca. Là sự múc nước uống, nước xài
để sẳn và sự trải chỗ ngồi.
VẤN: Upothassa etàni
bubbakarananti vuccati? Tất cả phận sự này sao gọi là việc phải làm
của lễ Phát Lộ?
ÐÁP:
Etàni cattàri vattàni sammajjanakaranàdìni
sangha sannipàtato pathamam kattabbattà uposathassa uposathakammassa,
pubbakarananti vuccati, pubbakaranànìti akkàtàni.
Bốn phận sự này, nhất là
phải quét sạch là việc phải làm trước, vì trước khi Chư Tăng hội họp để
làm lễ Phát Lộ thì phải làm cho xong, nên gọi là việc phải làm trước của
sự làm lễ Phát Lộ.
VẤN:
Chandapàrisuddhi utukkhànam nhikkhu gananà
caovàdo uposathassa etàni pubbakiccanti vuccati; Chanda pàrisuddhi?
Các việc làm như, đem sự
ưng thuận, tỏ sự trong sạch, sự kể thời tiết, sự đếm số tăng hội, chỉ
dạy cho Tỳ Khưu ni, đều gọi là phận sự phải làm trước của lễ Phát Lộ.
Vậy chớ thế nào gọi là
sự đem sự thỏa thuận và tỏ sự trong sạch?
ÐÁP:
Chandàrahànam bhikkhùnam chandapàrisuddhi
àharananca (idha natthi).
Cách đem sự thỏa thuận
và sự trong sạch của các vị Tỳ Khưu cần phải đem đó (nơi đây không cần).
VẤN: Utukkhànam?
Sự kể mùa tiết?
ÐÁP:
Hemantàdìnam tinnam utùnam ettakam
atikkantam, etakkam avasitthanti evam utu àcikkhanam vasena tìni honti
(ayam hemanta utu, asmimutumhi attha uposathà, iminà pakkhena
ekouposatho sampatto, eko uposatho atikkanto, eha uposàthà avasitthà
(1).
Sự kể mùa tiết là: theo
Phật Giáo một năm có 3 mùa là: mùa lạnh, mùa nóng (nắng) và mùa mưa,
trong ngày làm lễ Phát Lộ ấy nhằm mùa nào, mùa ấy có mấy kỳ lễ Phát Lộ,
đã qua hết bao nhiêu, hiện tại và sẽ còn mấy kỳ nữa phải khai rõ (như
đây là mùa lạnh, trong mùa này có 8 kỳ lễ Phát Lộ, một kỳ hiện đương
làm, một kỳ đã qua rồi, còn sáu kỳ nữa sẽ tới).
VẤN: Bhikkhugananà
ca? Sự đếm số Tăng hội có bao nhiêu?
ÐÁP: Imasmin
uposathagge, sannipatitànam bhikkhùnam gananà, (...) (1) bhikkhu honti,
Trong chỗ làm lễ Phát Lộ
đây, số Chư Tăng hội họp được...... vị (1)
VẤN: Ovàdo? Sự
chỉ dạy cho Tỳ Khưu ni thế nào?
ÐÁP:
Bhikkhuninam ovàdo dàtabbo (idànipna tàsam
natthitàya, so ca ovàdo idha natthi).
Thầy Tỳ Khưu phải chỉ
dạy cho các vị Tỳ Khưu ni (bây giờ sự chỉ dạy ấy không còn nữa, vì không
cỏn Tỳ Khưu ni).
VẤN:
Uposathassa etàni pubbakiccanti vuccati?
Các việc này sao gọi là
phận sự phải làm trước lễ Phát Lộ?
ÐÁP:
Etàni panca kammàni chandàharanadìni
patimokkh'uddesato pathamam kattabbattà, uposathassa uposathakammassa
pubbakiccanti vuccati, pubbakiccànìti akkhatàni.
Hết thảy 5 công việc,
nhất là đem sự trong sạch, gọi là phận sự phải làm trước, vì trước khi
Chư Tăng làm tăng sự là đọc giới bổn Ba la đề mộc xoa, các phận sự ấy
phải làm cho xong.
VẤN:
Uposatho yâvatikà ca bhikkhù kammappàttà
sabhàg'àpattiyo cana vijjanti, vajjanùya capuggalà tasmim nahomti,
pattakallanti vuccati. Uposatho?
Bốn điều nhất định là:
ngày làm lễ Phát Lộ I, bao nhiêu vị Tỳ Khưu hội họp để làm lễ ấy (1)
không có phạm chung một tội, trong tăng sự ấy không có người phải xa
lánh 1, như thế thì cuộc lễ Phát Lộ hợp thời nên làm, vậy chớ ngày lễ
Phát Lộ này thế nào?
ÐÁP:
Tisu uposatha divasesu, càtuddasìpannarasì
sàmaggìsu, ajj' uposatho (pannaraso) (1).
Ngày làm lễ Phát Lộ có 3
là ngày Rằm, ngày 11 và ngày 29 của tháng thiếu, và ngày Chư Tăng làm lễ
hòa hợp như ngày lễ hôm nay thuộc ngày Rằm.
VẤN:
Yâvatikà ca bhikkhù kammappattà?
Vậy chớ có mấy vị Tỳ
Khưu mới nên làm lễ Phát Lộ?
ÐÁP:
Yattakà bhikkhù tassa uposatha kammassa
pattàuttà anurùpà, sabbantimena paricchedena cattàro bhikkhù pakatattà
sanghena anukkhittà te ca kho hatthapàsam avijjàbitvà ekasìmàyam thità.
Tất cả các vị Tỳ Khưu
bao nhiêu cũng có thể làm, lễ Phát Lộ được, nhưng ít nhất là 4 vị trong
sạch, không bị Chư Tăng phạt (ngưng chức) đều ngồi gần sát nhau trong
một sìmà.
VẤN:
Sabbàg'àpattiyo ca na vijjanti?
Còn về sự phạm đồng một
tội thế nào?
ÐÁP:
Vikàlabhojan' àdivatthu sabhàg' àpattiyo ca
na vijjanti.
Sự phạm đồng một tội do
một việc làm, nhất là ăn sái giờ, không có.
VẤN:
Vajjanìyâ ca puggalà tasmimna honti.
Người mà phải tránh xa
trong khi làm lễ Phát Lộ là thế nào?
ÐÁP:
Gahatthapandak' àdayo ekavìsati
vajjanìyapuggalà, hatthapàsàto bahikarana vasena vajjetabbà, tasmimna
honti.
Người phải tránh xa có
21 hạng, nhất là người thế và người lại cái, không có ngồi gần sát với
Chư Tăng trong khi làm lễ Phát Lộ đâu.
VẤN:
Pattakallanti vuccati?
Thế nào gọi là lúc nên
làm lễ Phát Lộ?
ÐÁP:
Sanghassa uposathakammam imehi catùhi
lakkhanchi sangahitam, pattakallanti vuccati, pattakàlavantanti
akkhàtam.
Sự nhất định trong 4
điều này gọi là lúc nên làm lễ Phát Lộ của Chư Tăng vậy, như thế là thì
giờ nên làm.
* * *
Hỏi xong vị Tỳ Khưu vấn
luật ấy nên đọc thỉnh như vầy:
Pubbakarana pabbakiccàni
samàpetvà, desitàpattikassa samaggassa bhikkhusanghassa anumatiyâ,
pàtimokkham uddisitum àràdhanam karomi.
Theo sự bằng lòng của
Chư Tăng, vì đã làm các việc và phận sự trước khi làm lễ, đã sám hối tội
lỗi rồi, và đều bằng lòng ưng thuận với nhau, vậy tôi xin thỉnh Ngài đọc
giới bổn.
-ooOoo-
BHIKKHUPPÀTIMOKKHA
Namo tassa Bhagavato
Arahato Sammà Sambhuddhassa.
Sunàtu me bhante sangho,
ajj'uposatho (pannaraso) yadi sanghassa pattakallam, sangho uposatham
kareyya pàtimokkham uddìseyya.
Kim sanghassa
pubbakiccam? pàrisuddhim àyasmanto àrocetha, pàtimokkham uddisissàmi,
tam sabbeva santà sàdhukam sunoma manasikaroma, yassa siyâ àpatti, so
àvikareyya asantiyâ àpattiyâ tunhì bhavitabbam, tunhìbhàvena, khopan
àyasmante parisuddhàti vedissàmi; yathà khopana pacceka putthassa
veyyàkaranam hoti.
Evameram evarùpàya
parisàya yâvatatiyam anussàvitam hoti, yo pana bhikkhu yâvatatiyam
anussàviyamàne saramàno santim àpattim nàvikareyya sampajànamusàvàdassa
hoti, sampajàna musàvàdo kho pan' àyasmanto antorayiko dhammo vutto
bhagavatà, tasmà saramànena bhikkhunà àpannena visuddha pekkhena santì
àpatti avitabbà, àvikatà hissa phàsu honti.
Uddittham kho àyasmonto
nidànam.
Tatth' àyasmante pucchà,
kaccittha parisuddhà?
Dutiyampi pucchàmi
kaccittha parisuddhà?
Tatiyampi pucchàmi
kaccittha parisuddhà?
Parisuddhetth'
àyasmanto, tasmà tunhi, evametam dhàrayâmi.
Nidanuddeso nitthito.
GIỚI BỔN BA ÐỀ MỘC XOA CỦA TỲ KHƯU
Tôi xin đem hết lòng
thành kính làm lễ đến đức Bhagavà Ngài là bậc Araham cao thượng, được
đắc quả Chánh Biến Tri (Tam diệu tam bồ đề).
Bạch đại đức Tăng, xin
Chư Tăng nghe tôi, ngày hôm nay là ngày lễ Phát Lộ của ngày Rằm, nếu hợp
thời nên làm, thì Chư Tăng làm lễ Phát Lộ là phải đọc giới bổn, Ba đề
mộc xoa.
Phận sự phải làm trước,
các Ngài đã làm chưa ? Thưa các vị, xin các vị phải sám hối cho trong
sạch rồi tôi mới đọc giới bổn. Chúng ta ở đây hết thảy phải thành tâm để
nghe đọc giới bổn cho được sự lợi ích. Như vị nào có phạm tội xin vị ấy
sám hối đi, còn vị nào trong sạch thì làm thinh. Tôi sẽ biết rằng vị ấy
được trong sạch do cử chỉ làm thinh ấy, cũng như người mà bị người ta
cật hỏi phải trả lời như thế nào, thì khi lời tôi tuyên bố hỏi Chư Tăng
đủ 3 lần cũng như thế ấy. Nếu khi tôi đã hỏi đủ 3 lần rồi mà vị nào nhớ
được sự phạm tội của mình, nhưng vẫn không chịu sám hối, thì vị ấy sẽ
phạm thêm một hành ác về nói láo, vì biết mình mà không chịu khai ra.
b?ch các Ngài, tội này
Ðức Thế Tôn có nói cũng là một pháp tai hại, bởi vậy cho nên, vị nào đã
phạm rồi mà nhớ lại được và muốn cho mình được trong sạch thì nên sám
hối tội ấy ra. do nhờ sự sám hối ấy mà tâm thầy Tỳ Khưu ấy được sự vui
vẻ.
Bạch các Ngài, nguyên
nhân tôi đã kể ra rồi.
Tôi xin hỏi các Ngài
trong nguyên nhân này các Ngài đã được trong sạch chưa? Tôi xin hỏi lần
thứ nhì, các Ngài đã được trong sạch chưa? Tôi xin hỏi lần thứ ba, các
Ngài đã được trong sạch chưa? Tất cả các Ngài đã được trong sạch, trong
nguyên nhân này, nên các Ngài mới làm thinh. Tôi xin chứng nhận do nơi
sự làm thinh ấy.
Dứt phần kể các nguyên
nhân.
-ooOoo-
PÀRÀJIKUDDESO
Tatrime cattàro pàràjikà
dhammà uddesam àgacchanti.
1. Yo pana bhikkhu
bhikkhùnam sikkhàsàjìvasamàpanno, sikkham appaccakkhàya, dubbalyam
anàvikatvà, methunam dhammam patisebeyyan tamaso tiracchàna gatàyapi,
pàràjiko hoti asamvaso.
2. Yo pana bhikkhu gàmà
và arannà và adinnam theyyasan khàtam àdiyeyya yathàrùpe adinnàdàne
ràjàno coram gahetvà haneyyum và bandheyyum và pabbàjeyyum và corosi
bàlosi mùlhosi thenosìti tathàrùpam bhikkhu adinnam àdiyamàno, ayampi
pàràjiko hoti asamvàso.
3. Yo pana bhikkhu
sancicca manussaviggaham jìvità voropeyya, satthahàrakam vàssa
pariyeseyya, maranavannam và samvanneyya, maranàya và samadapeyya, ambho
purisa kim tuyhiminà pàpakena dujjìvitena? matante jìvità seyyoti; iti
cittamano cittasankappo, anekapariyâyena maranavannam và samvanneyya,
maranàya và samàdapeyya, ayampi pàràjiko hoti asamvàso.
4. Yo pana bhikkhu
anabhijànam uttarimanussadhammam attùpanàyikam alamariyannànadassanam
samudàcareyya: iti jànàmi, iti passàmìti, tato aparena samayena
samanuggàhiyamàno và asamanuggàhiyamàno và àpanno, visuddhàpekkho evam
vadeyya: ajànamevam àvuso avacam jànàmi apassam passàmi, tuccham musà
vilapinti, annatra adhimànà, ayampi pàràjiko hoti asamvàso.
Uddhitthà kho àyasmanto
cattàro pàràjikà dhammà, yesam bhikkhu annataram: và annataram và
àpajjitvà, ra labbati bhikkùhi saddhim sàvamvàsam, yathà pure tathà
pacchà, pàràjiko hoti asamvàso.
Tatth' àyasmante
pucchàmi, kaccittha parisuddhà?
Dutiyampi pucchàmi,
kaccittha parisuddhà?
Tatiyampi pucchàmi,
kaccittha parisuddhà?
Parisuddhetth'àyasmnto,
tasmà tunhì evametam (dhàrayâmi)
Pàràjik'uddeso nitthito.
BẤT CỘNG TRỤ
Bốn pháp Bất Cộng Trụ
của giới bổn, phải kể ra là:
1. Thầy Tỳ Khưu nào, đã
có học hỏi và thọ trì các điều học của Tỳ Khưu rồi, chưa hoàn tục hoặc
chưa tỏ ra mình là người yếu hèn (không thể hành đạo cao thượng được) mà
hành dâm, dầu cho với loài thú cái, cũng hạm tội Bất Cộng Trụ, không
được phép ở chung với các Tỳ Khưu khác.
2. thầy Tỳ Khưu nào, đã
có tâm trộm cắp lấy của người, ở trong xóm hoặc ở trong rừng; các nhà
vua bắt được đạo tặc, hoặc giết hại, hoặc giam cầm, hoặc lưu đầy xứ và
cho rằng "người là kẻ đạo tặc, là người hung ác, là người ăn cắp"như thế
nào, thì thầy Tỳ Khưu lấy của mà người ta không dâng cho cũng như thế
ấy, thầy Tỳ Khưu ấy đã phạm Bất Cộng Trụ, không được phép ở chung với
các Tỳ Khưu khác.
3. Thầy Tỳ Khưu nào, cố
ý giết hại mạng sống con người hoặc kiếm khí giới biểu cho kẻ khác giết
hại, hoặc khen sự nên chết hoặc nói dắc dẫn cho người nên chết cho rồi
như vầy: "Này người ơi ! Mạng sống của người rất xấu xa có lợi ích chi
đâu, vậy người nên chết đi còn tốt hơn là sống".
Thầy Tỳ Khưu suy nghĩ
tính toán trong tâm như thế ấy, rồi nói khen ngợi dắc dẫn chỉ bảo người
sự chết đủ cách, thầy Tỳ Khưu ấy đã phạm Bất Cộng Trụ không được phép ở
chung với các vị Tỳ Khưu khác.
4. Thầy Tỳ Khưu nào biết
rõ, nhưng nói khoe khoan rằng: Mình đã đắc được pháp của bậc cao nhơn là
pháp phải thấy rõ bằng trí tuệ cao thượng, như vầy: "Tôi biết như thế
này, tôi thấy như thế này". Sau khi ấy, dầu có ai hỏi lại hoặc không có
ai hỏi lại chẳng hạn cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Mặc dầu sau lại muốn
được trong sạch là khỏi tội bèn nói sửa trở lại như vầy: "Nầy người, tôi
không biết như thế này, tôi không thấy như thế này, nhưng tôi nói biết
và thấy, nói như vậy là tôi nói láo. Thầy Tỳ Khưu ấy đã phạm tội Bất
Cộng Trụ, không được phép ở chung với các vị Tỳ Khưu khác. trừ ra tưởng
rằng mình đã đắc đạo của bậc cao nhơn.
Bạch các Ngài, 4 pháp
Bất Cộng Trụ tôi đã kể ra rồi, thầy Tỳ Khưu nào đã phạm tội một trong
bốn pháp này, thì không còn được phép ở chung với các vị Tỳ Khưu khác,
trước kia người ấy thế nào thì sau này phạm tội Bất Cộng Trụ rồi cũng
không được ở chung với các vị Tỳ Khưu như thế ấy.
Tôi xin hỏi các Ngài,
trong bốn pháp Bất Cộng Trụ này, các Ngài có trong sạch không? Tôi xin
hỏi lần thứ nhì, các Ngài có được trong sạch không? Tôi xin hỏi lần thứ
ba, các Ngài có được trong sạch không? Các Ngài đã trong sạch nên mới
làm thinh, tôi xin chứng nhận sự trong sạch các Ngài, do nơi sự làm
thinh ấy.
Dứt phần kể các pháp Bất
Cộng Trụ.
-ooOoo-
SANGHADISES'UDDESO
Ime kho pan'àyasmanto
terasa sanghàdisesà dhammà uddesani àgacchanti.
1. Sancetanikà
sukkavisatthi, annatra supinantà, sanghàdiseso.
2. Yo pana bhikkhu
otinno viparinatena cittena, màtugàmena saddhim kàyasamsaggam
samàpajjeyya, hatthaggàham và veniggàham và annata và annatarassa và
angassa parà masanam, sanghàdiseso.
3. Yo pana bhikkhu
otinno viparinatena cittena màtugàmam dutthullàhi vàcàhi obhàseyya
yathàtam yuvà yuvatim methùnupasanhitàhi, sanghàdiseso.
4. Yo pana bhikkhu
otinno viparinatena cittena, màtugamassa santike attakàma pàricariyâya,
vannam bhàseyya: Etadaggam bhagini pàricariyânam, yâ madisam sìlavantam
kalyanadhammam brahmacàrim etana dhammena, paricareyyàti
methunupasanhitena, sanghàdiseso.
5. Yo pana bhikkhu
sancarittam samàpajjeyya, itthiyâ và purisamatim, purisassa và
itthìmatim, jàyattane và jàrattane và, antamaso tamkhanikàyapi,
sanghàdiseso.
6. Sannàcikàya pana
bhikkhunà kutim kàrayamànena assàmikam att'uddesam, pamànikà kàretabbà,
tatridam pamànam dìghaso dvàdasavidatthiyo. Sugatavidatthiyâ, tiriyam
sattantà: bhikkhù abhinetabbà, vatthudesanàva: Tehi bhikkhùhi vatthum
desetabbam anàrambham saparikkamanam sàrambhe ce bhikkhu vatthusmim
aparikkamane sannàcikàya kutim kàreyya, bhikkhù và anabhineyya
vatthudesanàya, pamànam và atikkàmeyya, sanghàdiseso.
7. Mahallakam panà
bhikkhunà vihàram kàrayamànena sassàmikàm att'uddesam, bhikkhù
abhinetabbà vatthu desanàya, tehi bhikkhùhi vatthum desetabbam
anàrambham saparikkamanam; sarambhe ce bhikkhu vatthusmim aparikkamane
mahallakam vihàram kàreyya, bhikkhù và anabbineyya vatthudesanàya,
sanghàdiseso.
8. Yo pana bhikkhum
duttho doso appatìto, amùlakena pàràjikena dhammena anuddhamseyya:
appeva nàma nam imamhà brahmacariyâ càveyyanti tato aparana samayana
samanuggàhiyamano và asamanuggàhiyamàno và, amùlakanceva tam.
Adhikaranam hoti,
bhikkhu ca dosam patitthàti, sanghàdiseso.
9. Yo pana bhikkhu
bhikkhum duttho doso appatìto, annabhàgiyassa adhikaranassa kinci desam
lesamattam upàdàya, pàràjikena dhammena anuddhamseyya: appeva nàma nam
imamhà brahmacariyâ càveyyanti, tato aparena samayena samanuggàhiyamano
và asamanuggàhiyamàno và, annabhàgiyanceva tam adhikaranam hoti koci
desolesamatto upàdinno, bhikkhu ca dosam patitthàti sanghàdiseso.
10. Yo pana bhikkhu
samaggassa sanghassa bhesàya parakkameyya, bhedanasamvattanikam và
adhikaranam samàdàya paggayha tittheyya; so bhikkhu bhikkhùhi evamassa
vacanìyo mà àyasmà samaggassa sanghassa bhedàya parakkami,
bhedanasamvattanikam và adhikaranam samàdàya paggayha atthàsi;
samet'àyasmà sanghena samaggohi sangho sammodamàno avivadamàno ek'uddeso
phàsu viharatìti, evanca so bhikkhu bhikkhùhi vuccamàno tatheva
pagganheyya; so bhikkhu bhikkhùhi yâvatatiyam samanubhàsitabbo tassa
patinissaggàya.
Yøavatatiyance
samanubhàsiyamànà tam patinissajjeyya, iccetam kusalam; no ce
patinissajjeyya, sanghàdiseso.
11. Tass'eva kho pana
bhikkhussa bhikkhù honti anuvattakà vaggavàdakà eko và dve và tayo va,
te evam vadeyyum; maa2yasmanto etam bhikkhum, kinci avacuttha dhammavàdì
ceso bhikkhu, vinayavàdì ceso bhikku, ambàkanceso bhikku chandanca
rucinca àdàya voharati, jànàti no bhàsati, amhàkampetam khamatìti; Te
bhikkù bhikkhùhi evamassu vacanùyâ; mà àyasmanto evam avacuttha na ceso
bhikkhu dhammavàdì, na ceso bhikkhu vinayavàdi mà àyasmantànampi
sanghabhedo rucitthà samet'àyasmantànam sanghena, samaggo hi sangho
sammodamàno avivadamàno ek'uddeso phàsu viharatìti; evanca te bhikkhù
bhikkhùhi vuccamànà, that'eva pagganheyyum te bhikkhù bhikkhùhi
yâvatatiyam samanubhàsitabbà tassa patinissaggàya.
Yâvatatiyance
samanubhàsiyamànà tam patinissajjeyyum, iccetam kusalam no ce
patinissajjeyum, sanghàdiseso.
12. Bhikkhu pan'eva
dubbacajàtiko hoti, uddesa pariyâpannesa sikkhàpadesu bhikkhùhi,
sahadhammikam vuccamàno, attanam avacanìyam karoti: mà mam àyasmanto
kinci avacuttha kalyânam và pàpakam và ahamp' àyasmante na kinci
vakkhàmi kalyânam và pàpakam và viramath' àyasmanto mama vacanàyâti.
So bhikkhu bhikkhùhi
evamassa vacanìyo, mà àyasmà attànam avacanìyam akàsi, vacanìyam' eva
àyasmà attànam karotu, ayasmàpi bhikkhù vadetu sahadhammena, bhikkhùpi
àyasmantam vakkhanti sahadhammena; evam samvaddhàhi tassa bhagavàto
parisà, yadidam annamannavacanena annamanna vutthàpanenàti.
Evanca so bhikkhu
bhikkhùhi vuccamàno that' evapagganheyya, so bhikkhu bhikkhùhi
yâvatatiyam samanubhàsitabbo tassa patinissaggàya.
Yâvatatiyance
samanubhàsiyamàno tam patinissajjeyya iccetam kusalam no ce
patinissajjeyya, sanghàdiseso.
13. Bhikkhu pan'eva
annataram gàmam và nigamam và upanissàya viharati kuladùsako
pàpasamàcàro, tassa kho pàpakà samàcàrà dissanti e' eva suyyanti ca,
kulàni ca tena dutthàni dissanti e' eva suyyanti ca.
So bhikkhu bhikkhùhi
evamassa vacanìyo: àyasmà kho kuladùsako pàpasamàcàro, àyasmato kho
pàpakà samàcàrà dissanti e' eva suyyanti ca kulàni e ' àyasmatà dutthàni
dissanti e' eva suyyanti ca, kulàni e' àyasmatà dutthàni dissanti e' eva
suyyanti ca, pakkamat ' àyasmà imamhà àvàsà alante idha vàsenàti.
Evancà so bhikkhu
bhikkhùhi vuccamàno, te bhikkhù evam vadeyya: chandagàmino ca bhikkhù,
dosagàmino ca bhikkhù, mohagàmino ca bhikkhù, bhayagàmino ca bhikkhù,
tàtisikàya apattiyâ ekaccam pabhàjenti ekaccam na pabhàjentìti.
So bhikkhu bhikkhùhi
evamassa vacanìyo: mà àyasmà evam avaca, na ca bhikkhù chandagàmino na
ca bhikkhù dosagàmino, na ca bhikkhù mohagàmino, na ca bhikkhu
bhayagàmino àyasmà kho kuladùsako pàpasamàcàro. Aøyasmato kho pàpakà
sàmacàrà dissanti e'eva suyyanti e' eva auyyanti ca; pakkamat'àyasmà
imamhà àvàsà alante idha vàsenàti. Evanca so bhikkhu bhikkhùhi vuccamàno
that ' eva pagganheyya, so bhikkhu bhikkhùhi yâvatatiyam
samanubhàsitabho tassa patinissaggàya. Yâvatatiyance samanubhàsiyamàno
tam patinìssajjeyya, iccetam kusalam, no ce patinissajjeyya
sanghàdiseso. Udditthà kho àyasmanto terasa sanghàdisesà dhammà, nava
patham àpattikà, cattàro yâvatatiyakà; yesam bhikkhu annataram và
anntaram và àpajjittvà yâvatiram và annataram và àpajjittvà yâvatiham
jànam paticchàteti, tàvatiham tena bhikkhunà akàmà parivatthabbam
parivutthaparivàsena bhikkhunà uttarim ehàrattam bhikkhumànattàya
patipajjitabbam. Cinnamànatto bhikkhu, yattha siyâ vìsatigano bhikkhu
sangho, tattha so bhikkhu abbhetabbo.
Ekenapi ce ùno
vìsatigano bhikkhusangho tam bhikkhum abbheyya, so ca bhikkhu anbbhito,
te ca bhikkhù gàrayhà. Ayam tattha sàmìci.
Tatth ' àyasmante
pucchàmi, kaccittha parisudhà?
Dutiyampi pucchàmi,
kaccittha parisudhà?
Tutiyampi pucchàmi,
kaccittha parisudhà?
Parisudhetth' àyasmanto,
tasmà tunhì.
Evametam dhàrayâmi.
Sanghàdises ' uddeso
nitthito.
PHẦN KỂ RA TĂNG TÀNG
(1)
1. Thầy Tỳ Khưu nào cố ý
làm cho tinh khí xuất ra thì phạm tội tăng tàng, trừ phi nằm chiêm bao.
2. Thầy Tỳ Khưu nào tâm
thay đổi, bị tình dục đè nén, rờ rẩm vào mình phụ nữ, hoặc nắm tay, hoặc
rờ đầu tóc, hoặc rờ trong mình bất luận chỗ nào, thì phạm tội tăng tàng.
3. Thầy Tỳ Khưu nào tâm
thay đổi, bị tình dục đè nén, nói trêu ghẹo phụ nữ bằng lời tục tĩu cũng
như người trai tơ nói trêu ghẹo cô gái bằng lời nói có tánh cách dâm dục
thì phạm tội tăng tàng.
4. Thầy Tỳ Khưu nào tâm
thay đổi, bị tình dục đè nén, nói lời có tánh cách dâm dục là khen ngợi
ân đức của sự cho mình hành dâm với phụ nữ rằng: "Này cô, người phụ nữ
nào hầu hạ là cho sự hành dâm đến người tu hành cao thượng có giới hạnh,
có nhiều đức tánh như tôi đây, sự hầu hạ ấy là cao thượng hơn tất cả các
sự hộ độ khác", thì phạm tội tăng tàng.
5. Thầy Tỳ Khưu nào làm
mai mối là đem ý muốn của người nam nói với phụ nữ, của phụ nữ nói với
người nam, làm cho hai bên thành vợ chồng hoặc kết tình với nhau, dầu
nói một lúc cho mấy cô gái giang hồ, cũng phạm tội tăng tàng.
6. Thầy Tỳ Khưu khi làm
tịnh thất riêng cho mình, mà không có thí chủ đứng cất cho, tự mình đi
xin vật liệu để cất thì phải cất cho đúng luật là: bề dài 12 gan, bề
ngang 7 gan của Ðức Phật (1) do từ phía trong vách và phải dẫn Chư Tăng
đến để chỉ chỗ cho. Chỗ ấy không có sự hoài nghi (là nhầm ổ mối, kiến
v.v..) và có chỗ trống chung quanh (cho xe bò đi được). Nếu thầy Tỳ Khưu
làm cốc liêu, đi xin vật liệu của người. Cất trong chỗ có sự hoài nghi
và trống chung quanh, không dẫn Chư Tăng đến chỉ chỗ hoặc cất quá luật
định thì phạm tội tăng tàng.
7. Khi nào thầy Tỳ Khưu
làm chỗ ở lớn cho mình, do có thí chủ đứng cất cho, thì phải dẫn Chư
Tăng chỉ chỗ cho, chỗ ấy không có sự hoài nghi và chung quanh có chỗ
trống. n?u thầy Tỳ Khưu cho làm chỗ lớn ở riêng cho mình nơi chỗ có sự
hoài nghi, không có khoảng trống chung quanh hoặc không dẫn Chư Tăng đến
chỉ chỗ cho thì phạm tội tăng tàng.
8. Thầy Tỳ Khưu nào, sân
hận, hung dữ, phiền phức, cáo gian thầy Tỳ Khưu khác phạm tội Bất Cộng
Trụ mà không có nguyên nhân chi, với sự cố ý rằng: "Ta làm thế nào ! cho
vị Tỳ Khưu đó phải xa lìa sự đạo hạnh cao thượng"(là phải hoàn tục) sau
khi ấy, dầu có ai hỏi lại hoặc không ai hạch hỏi lại, nếu sự tố cáo rõ
ràng là không có nguyên nhân chi, dầu cho thầy Tỳ Khưu tiên cáo ấy có
nhìn nhận tội của mình cũng phạm tội tăng tàng.
9. Thầy Tỳ Khưu nào, sân
hận, hung dữ, phiền phức, nhân một nguyên nhân nhỏ mọn nào khác để làm
bằng cớ, rồi tố cáo vị Tỳ Khưu khác phạm tội Bất Cộng Trụ với sự cố ý
rằng: "Ta làm thế nào, cho vị Tỳ Khưu đó phải xa lìa sự hành đạo cao
thượng". Sau khi ấy dầu có ai hỏi lại hoặc không ai hỏi lại, nếu sự tố
cáo ấy là một việc khác, mà thầy Tỳ Khưu ấy dựa vào một nguyên nhân nhỏ
mọn để làm bằng cớ, dầu thầy Tỳ Khưu ấy có thú nhận tội lỗi của mình,
cũng phạm tội tăng tàng.
10. Thầy Tỳ Khưu nào,
Chư Tăng đang hòa thuận nhau mà cố gắng làm cho chia rẽ, hoặc chấp lấy
một sự tranh luận nào mà làm cho Chư Tăng chia rẽ nhau ở riêng biệt
nhau. Thì các vị Tỳ Khưu khác nên khuyên vị Tỳ Khưu ấy rằng: "Này đạo
hữu, không nên cố gắng làm cho Chư Tăng đang hòa hiệp nhau phải chia rẽ,
và cũng không nên chấp lấy một bằng cớ nào mà làm cho Chư Tăng chia rẽ ở
riêng nhau, xin đạo hữu nên hòa thuận nhau, vui vẻ nhau, không cải cọ
nhau, có sự sum hợp nhau, thì thường được an vui". Khi các vị Tỳ Khưu
nói như thế ấy, nhưng thầy Tỳ Khưu ấy cũng vẫn chấp như cũ các vị Tỳ
Khưu phải hợp lại "Tụng tuyên ngôn ngăn cản trong 3 lần"cho vị ấy dứt bỏ
sự chia rẽ tăng chúng ấy đi. Khi các Tỳ Khưu đã "Tụng tuyên ngôn ngăn
cản 3 lần rồi"mà thầy Tỳ Khưu ấy chịu dứt bỏ sự làm cho tăng chúng chia
rẽ ấy ra, sự dứt bỏ ấy rất tốt vậy, nếu không chịu dứt bỏ thì phạm tội
tăng tàng.
11. Các thầy Tỳ Khưu,
hoặc 1 vị, 2 vị, 3 vị, xu hướng theo vị làm cho chia rẽ tăng chúng và
chấp theo phe đảng. các vị Tỳ Khưu khác nên ngăn cản khi các vị Tỳ Khưu
ấy ngăn cản thì các vị kia nói như vầy: "Xin các đạo hữu đừng nói lời
chi với vị Tỳ Khưu ấy, bởi vì vị ấy nói đúng theo kinh, nói đúng theo
luật, hơn nữa vị ấy chấp lấy việc mà chúng tôi vừa lòng đẹp ý nên mới
nói. Vị ấy biết rõ sự bằng lòng của chúng tôi nên mới nói". Các vị Tỳ
Khưu khác nên nói lại với các vị kia rằng: "Các đạo hữu không nên nói
như vậy, vì thầy Tỳ Khưu này, không phải là người nói đúng theo kinh,
theo luật đâu, xin các vị đừng vui thích việc làm chia rẽ tăng chúng và
nên hòa hợp với Chư Tăng đi. "Bởi vì Chư Tăng hòa thuận nhau, vui vẻ với
nhau, không cãi cọ nhau, sum hợp nhau lại làm một thì thường được sự an
vui". Khi các vị Tỳ Khưu ấy nói như thế mà các vị kia cứ chấp như cũ thì
Chư Tăng nên đọc "Tuyên ngôn để ngăn cản các vị kia trong 3 lần"để dứt
bỏ sự chấp nhứt ấy đi. Khi Chư Tăng đã tụng ""Tuyên ngôn 3 lần để ngăn
cản", như các vị đó dứt bỏ sự chấp ấy đi, sự dứt bỏ ấy là một việc rất
tốt nếu không chịu dứt bỏ, thì phạm tội tăng tàng.
12. Nếu thầy Tỳ Khưu có
tánh nết khó dạy, khi có các vị Tỳ Khưu khác khuyên giải đúng theo giáo
pháp và theo như các điều học trong giới bổn, lại tỏ ra mình là người
cứng đầu và nói rằng: "Xin các vị đứng nói lời gì tới tôi hết thảy, mặc
dầu xấu hay tốt gì thây kệ tôi". Còn phần tôi, cũng vậy, tôi không nói
gì dầu tốt dần xấu gì tới các vị xin các vị đừng có giảng dạy cho tôi
nữa".
Các vị kia nên nói với
vị ấy rằng: "Này đạo hữu, không nên tỏ ra người khó dạy như thế. Nên làm
cho mình là người dễ dạy". Còn đạo hữu cũng vậy, cứ chỉ dạy chúng tôi
đúng theo giáo pháp và chúng tôi cũng chỉ dạy đạo hữu đúng thoe kinh
luật vậy. Bởi vì đệ tử của Ðức Phật thường được sự tấn hóa do nhờ sự
nhắc nhở nhau những lời có lợi ích là làm cho nhau thoát khỏi những đều
tội lỗi".
Khi các vị Tỳ Khưu nói
như thế ấy mà vị kia cũng vẫn chấp như cũ thì Chư Tăng phải tụng "Tuyên
ngôn 3 lần để ngăn cản và cho dứt bỏ sự chấp ấy đi". Khi Chư Tăng đã
tụng tuyên ngôn ngăn cản 3 lần rồi mà vị ấy dứt bỏ được, sự dứt bỏ ấy
rất hợp pháp, nếu không chịu dứt bỏ thì phạm tội tăng tàng.
13. Thầy Tỳ Khưu đến cư
ngụ một xứ nào hoặc một nơi nào, là người hành động xấu xa,làm cho hư
hại gia quyến người, sự hành động ấy có người nghe và thấy rõ ràng; lại
nữa các gia quyến ấy họ cũng nghe và thấy rõ sự hành động xấu xa của vị
ấy.
Các vị Tỳ Khưu khác nên
nói với vị Tỳ Khưu ấy rằng: "Ðạo hữu là người làm hư hại gia quyến người
và hành động xấu xa rõ rệt, sự hành động xấu xa ấy có người ta nghe và
thấy, hơn nữa các gia quyến mà đạo hữu đã hãm hại ấy, người ta cũng nghe
và thấy rõ ràng. Vậy đạo hữu phải đi khỏi chỗ này đi, không nên cư ngụ
nơi đây nữa".
Khi các vị Tỳ Khưu nói
như thế ấy, thì vị kia lại trả lời rằng: "Các Ngài đều là người tây vị,
vì thương, tây vị vì ghét, tây vị vì sự si mê, tây vị vì sợ, bởi vậy các
Ngài, có người cũng đồng phạm một tội với nhau, mà kẻ bị đuổi còn người
lại không".
Các vị Tỳ Khưu khác nên
nói lại với vị ấy rằng: "Ðạo hữu không nên nói như vậy, vì Chư Tăng
không phải là tây vị vì thương, tây vị vì ghét, tây vị vì sự si mê, tây
vị vì sợ đâu. Ðạo hữu là người hành động xấu xa và hãm hại gia quyến
người, sự hành động xấu xa ấy, có người ta nghe và thấy rõ ràng; hơn nữa
những gia quyến mà đạo hữu làm hư hại, người ta cũng nghe và thấy rõ
ràng. vậy đạo hữu phải đi khỏi chỗ này đi, không nên ở đây nữa".
Khi các vị Tỳ Khưu đã
nói như thế mà vị kia cũng cứ chấp như cũ, thì các vị Tỳ Khưu nên tụng
"Tuyên ngôn ngăn cản 3 lần" đặng cho dứt bỏ sự hành động xấu xa ấy đi.
Nếu khi đã tụng "Tuyên ngôn ngăn cản 3 lần" mà vị ấy chịu sự dứt bỏ ấy
rất hợp pháp vậy, nếu không chịu dứt bỏ thì phạm tội tăng tàng.
Bạch các Ngài, 13 pháp
tăng tàng, tôi đã kể ra rồi, 9 pháp đầu gọi là "Patham ' àpattikà:
Khi hành sái thì phạm tội liền". Còn 4 pháp sau gọi là "Yâvatatiyakà:
phạm tội khi nào Chư Tăng đã đọc tuyên ngôn ngăn cản 3 lần mà không dứt
bỏ".
Tất cả 13 tội này, nếu
thầy Tỳ Khưu nào phạm một tội nào, mà biết rõ mà dấu bao nhiêu ngày thì
phải phạt tội cấm phòng bấy nhiêu ngày (là phải ở dưới sự hành phạt nhất
định của Chư Tăng ), khi hành phạt xong còn phải thực hành "Mànatta"
(là hành động cho tốt, đặng Chư Tăng ưa thích) trong 6 đêm nữa, rồi Chư
Tăng từ 20 vị trở lên ở đâu thì thầy Tỳ Khưu ấy đến xin "Abbhànakamma"
là tăng hợp lại tụng tuyên ngôn cho phéo mình nhập chúng ). Nếu Chư Tăng
không đủ 20 vị, dầu chỉ thiếu một vị mà vẫn tụng tuyên ngôn cho nhập
chúng thì tăng sự ấy cũng không thành tựu đến vị ấy. Về phần Chư Tăng
thì cũng bị Ðức Phật quở rầy. Làm như thế là việc làm hợp pháp trong
tăng sự.
Tôi xin hỏi các Ngài
trong 13 tội tăng tàng này các Ngài có trong sạch không?
Tôi xin hỏi lần thứ nhì,
các Ngài có được trong sạch không?
Tôi xin hỏi lần thứ ba,
các Ngài có được trong sạch không?
Các Ngài được trong sạch
nên mới làm thinh, tôi xin chứng nhận sự trong sạch của các Ngài, do nơi
sự làm thinh ấy.
Dứt phần kể về tăng
tàng.