- Phật Giáo
tại Việt Nam
Thích Nguyên Tạng
Chùa Pháp Vân, Sàigòn 1996
--o0o--
Phần A
TỔNG QUAN VỀ PHẬT
GIÁO VIỆT NAM
---o0o---
PHẦN
A
:
TỔNG
QUAN
VỀ
PHẬT
GIÁO
VIỆT
NAM
I.
PHẬT
GIÁO
DU
NHẬP
VÀO
VIỆT
NAM
1.
Phật
giáo
du
nhập
qua
con
đường
Hồ
Tiêu.
2.
Phật
giáo
du
nhập
qua
con
đường
Đồng
cỏ.
II.
PHẬT
GIÁO
VIỆT
NAM
PHÁT
TRIỂN
QUA
CÁC
THỜI
ĐẠI
1.
Phật
giáo
Việt
Nam
từ
thế
kỷ
thứ
II
đến
thế
kỷ
thứ
V,
thời
kỳ
du
nhập
và
hình
thành
Phật
giáo
Việt
Nam.
2.
Phật
giáo
Việt
Nam
từ
thế
kỷ
thứ
VI
đến
hết
thế
kỷ
thứ
IX,
thời
kỳ
phát
triển.
3.
Phật
giáo
Việt
Nam
trong
thế
kỷ
X
đến
hết
thế
kỷ
thứ
XIII,
thời
kỳ
cực
thịnh.
4.
Phật
giáo
Việt
Nam
trong
thế
kỷ
XX,
thời
kỳ
phục
hưng.
III.
NHỮNG
THÀNH
QUẢ
CỦA
PHẬT
GIÁO
VIỆT
NAM
-
Các
con
số
thống
kê
mới
nhất
về
tự
viện,
tăng
ni
Việt
Nam.
I.
PHẬT
GIÁO
DU
NHẬP
VÀO
VIỆT
NAM:
^
Ngày
nay,
căn
cứ
các
tài
liệu
(1)
và
các
lập
luận
khoa
học
của
nhiều
học
giả,
giới
nghiên
cứu
hầu
hết
đều
đồng
ý
rằng
Đạo
Phật
đã
được
truyền
vào
Việt
Nam
rất
sớm,
nhất
là
từ
cuối
thế
kỷ
thứ
II
đến
đầu
thế
kỷ
thứ
III
Tây
Lịch
qua
hai
con
đường
Hồ
Tiêu
và
Đồng
Cỏ.
1.
Phật
Giáo
du
nhập
qua
con
đường
Hồ
Tiêu:
Con
đường
Hồ
Tiêu
(Chemi
des
epices)
tức
là
đường
biển,
xuất
phát
từ
các
hải
cảng
vùng
Nam
Ấn
rồi
qua
ngã
Srilanka,
Indonesia,
Việt
Nam...lợi
dụng
được
luồng
gió
thổi
định
kỳ
vào
hai
lần
một
năm
phù
hợp
với
hai
mùa
mưa
nắng
ở
khu
vực
Đông
Nam
Á,
những
thương
nhân
Ấn
đã
tới
các
vùng
này
để
buôn
bán
bằng
những
con
thuyền
buồm.
Trong
các
chuyến
đi
viễn
dương
này,
các
thương
nhân
thường
cung
thỉnh
một
hay
hai
vị
tăng
để
cầu
nguyện
cho
thủy
thủ
đoàn
và
các
vị
tăng
này
nhờ
đó
mà
đến
truyền
bá
Đạo
Phật
vào
các
dân
tộc
ở
Đông
Nam
Á.
Giao
Châu
tiêu
biểu
bấy
giờ
là
trung
tâm
Luy
Lâu,
là
nơi
tụ
điểm
nghỉ
chân
giao
lưu
của
các
thương
thuyền.
Lịch
sử
chính
thức
xác
nhận
năm
240
trước
Tây
lịch,
Mahoda-con
vua
A
dục
(Asoka)
đã
đưa
Đạo
Phật
vào
Việt
Nam
(2).
Tư
liệu
trong
Lĩnh
Nam
Chính
Quái
cho
biết
một
dữ
kiện
chứng
tỏ
sự
có
mặt
của
Đạo
Phật
vào
đời
Hùng
Vương
thứ
3
(triều
đại
thứ
18
Vua
Hùng
kể
từ
trước
công
nguyên
2879-258).
Đó
là
câu
chuyện
công
chúa
Tiên
Dung,
con
gái
vua
Hùng
Vương
thứ
3
lấy
Đồng
Tử.
Chuyện
kể
rằng
Đồng
Tử
và
Tiên
Dung
lập
phố
xá
buôn
bán
giao
thiệp
với
người
nước
ngoài.
Một
hôm
Đồng
Tử
theo
một
khách
buôn
ngoại
quốc
đến
Quỳnh
Viên
và
tại
đây
Đồng
Tử
đã
gặp
một
nhà
sư
Ấn
Độ
ở
trong
một
túp
lều.
Nhờ
đó
mà
Đồng
Tử
và
Tiên
Dung
đã
biết
đến
Đạo
Phật
(3).
Qua
dữ
kiện
này
ta
thấy
sự
hiện
diện
của
Phật
Giáo
do
các
tăng
sĩ
Ấn
Độ
truyền
vào
Việt
Nam
khá
lâu
trước
Tây
lịch.
Một
bài
nghiên
cứu
của
Ngô
Đăng
Lợi,
viện
nghiên
cứu
khoa
học
Hải
Phòng
viết:
"Vùng
Đồ
Sơn
mà
có
nhà
nghiên
cứu
khẳng
định
chính
là
thành
Nê
Lê
nơi
có
bảo
tháp
của
vua
Asoka.
Nếu
quả
vậy
thì
từ
thế
kỷ
thứ
ba
trước
Tây
lịch,
Đạo
Phật
đã
được
trực
tiếp
truyền
vào
nước
ta"
(4).
Và
Thiền
Uyển
Tập
Anh
cũng
ghi
nhận
cuộc
đàm
luận
giữa
thiền
sư
Thông
Biện
và
Thái
Hậu
Phù
Thánh
Linh
Nhân
(Ỷ
Lan)
(khi
bà
hỏi
về
nguồn
gốc
Đạo
Phật
Việt
Nam
vào
dịp
các
cao
tăng
trong
nước
tập
hợp
tại
chùa
Khai
Quốc
(nay
là
chùa
Trấn
Quốc
-
Hà
Nội)
vào
ngày
rằm
tháng
2
năm
1096)
Thông
Biện
dẫn
chứng
lời
pháp
sư
Đàm
Thiên
(542-607
TL)
đối
thoại
với
Tùy
Cao
Đế
(?-604
TL):
"Một
phương
Giao
Châu,
đường
sang
Thiên
Trúc,
Phật
pháp
lúc
mới
tới,
thì
Giang
Đông
(Trung
Hoa)
chưa
có,
mà
Luy
Lâu
lại
dựng
chùa
hơn
20
ngôi,
độ
tăng
hơn
40
người,
dịch
kinh
được
15
quyển,
vì
nó
có
trước
vậy,
vào
lúc
ấy
thì
đã
có
Khâu
Đà
La,
Ma
Ha
Kỳ
Vực,
Khương
Tăng
Hội,
Chi
Cương
Lương,
Mâu
Bác
tại
đó"
(5).
Ma
Ha
Kỳ
vực,
Khâu
Đà
La
(188
TL)
người
Ấn
Độ
hay
Trung
Á;
Mâu
Bác
(165-170
TL)
người
Trung
Hoa;
Khương
Tăng
Hội
(200-247
TL)
người
Ấn
Độ;
Chi
Cương
Lương
(?-264
TL)
người
xứ
Nhục
Chi,
theo
sử
chép
đó
là
các
vị
sư
có
mặt
sớm
nhất
ở
Giao
Châu
vào
khoảng
thế
kỷ
thứ
hai
đến
thế
kỷ
thứ
ba.
Có
lẽ
đây
chỉ
là
những
vị
được
sử
ghi
lại
tên
tuổi,
kỳ
thực
đây
không
phải
là
phái
đoàn
truyền
bá
đầu
tiên
đến
Việt
Nam,
vì
từ
thế
kỷ
thứ
ba
trước
Tây
lịch
đến
thế
kỷ
thứ
hai
sau
Tây
Lịch
chắn
chắc
đã
có
nhiều
tăng
sĩ
đặt
chân
đến
hoằng
Pháp
tại
Việt
Nam,
cho
nên
Pháp
sư
Đàm
Thiên
chỉ
dẫn
phần
giới
hạn
và
căn
cứ
vào
sự
có
mặt
của
tác
phẩm
Lý
hoặc
Luận
của
Mâu
Bác.
Qua
nhiều
tài
liệu
lịch
sử
và
dựa
vào
địa
lý,
thiên
nhiên,
cư
dân,
lịch
sử
có
thể
cho
chúng
ta
một
kết
luận
chắn
chắc
rằng
Đạo
Phật
đã
được
truyền
trực
tiếp
vào
Việt
Nam
chứ
không
thông
qua
Trung
Hoa
bằng
con
đường
Hồ
Tiêu.
Tuy
nhiên,
cũng
có
nhiều
cứ
liệu
lịch
sử
chứng
minh
rằng
Đạo
Phật
đồng
thời
được
truyền
vào
Việt
Nam
qua
con
đường
Đồng
Cỏ.
2.
Phật
Giáo
du
nhập
qua
con
đường
Đồng
Cỏ:
Con
đường
Đồng
Cỏ
(Chemin
des
Steppes)
tức
là
đường
bộ
còn
gọi
là
con
đường
tơ
lụa
(6)
con
đường
này
nối
liền
Đông
Tây,
phát
xuất
từ
vùng
Đông
Bắc
Ấn
Độ,
Assam
hoặc
phía
Trung
Á,
một
nhánh
của
đường
tơ
lụa
đi
từ
Châu
Âu
qua
các
vùng
thảo
nguyên
và
vùng
sa
mạc
ở
Trung
Á
tới
Lạc
Dương
bằng
phương
tiện
lạc
đà.
Cũng
có
thể
các
thương
nhân
và
tăng
sĩ
qua
vùng
Tây
Tạng
và
các
triền
sông
Mekong,
sông
Hồng,
sông
Đà
mà
vào
Việt
Nam.
Cuốn
Lịch
sử
Phật
Giáo
Việt
Nam
(Hà
Nội,
1988)
có
nói
rõ:
"Các
thương
nhân
xuất
phát
từ
Trung
Ấn
có
thể
dùng
tuyến
đường
bộ
ngang
qua
đèo
Ba
Chùa
và
theo
sông
Kanburi
mà
xuống
Châu
Thổ
Mênam,
bằng
tuyến
đường
hiện
nay
vẫn
nối
liền
cảng
Moulmein
với
thành
phố
Raheng,
nằm
trên
một
nhánh
của
con
sông
Mênam
(…)
chính
tuyến
đường
này
dẫn
tới
vùng
Bassak
ở
trung
lưu
sông
Mekong,
địa
bàn
của
vương
quốc
Kambijan.
Vương
quốc
này
có
thể
là
do
những
di
dân
Ấn
Độ
thành
lập
trước
công
nguyên.
Rất
có
thể
các
tăng
sĩ
Ấn
Độ
vào
đầu
công
nguyên
đã
theo
con
đường
này
mà
đến
đất
Lào,
rồi
từ
đây
vượt
Trường
Sơn
sang
Thanh
Hóa
hay
Nghệ
An".
Những
dữ
kiện
về
con
đường
Hồ
Tiêu
và
con
đường
Đồng
Cỏ
có
liên
quan
đến
sự
giao
lưu
của
Việt
Nam
tuy
chưa
nhiều
chứng
minh
có
những
chứng
tích
mà
lịch
sử
còn
để
lại,
dù
lịch
sử
truyền
miệng
hay
thành
văn,
theo
lịch
sử
Phật
Giáo
Việt
Nam
thì
vào
thế
kỷ
thứ
II
trước
Tây
lịch,
vua
Ấn
Độ
Asoka
sau
cuộc
đại
hội
kết
tập
kinh
điển
lần
thứ
ba,
vua
và
trưởng
lão
Tissa
Moggaliputta
đã
gởi
nhiều
phái
đoàn
Như
Lai
sứ
giả
lên
đường
truyền
bá
chánh
pháp
cho
các
nước
thuộc
vùng
viễn
đông,
trong
đó
có
đoàn
của
hai
vị
cao
tăng
là
Uttara
và
Sona
được
phái
đến
Suvana
-Bhumi,
xứ
Kim
Địa.
Tuy
có
nhiều
ý
kiến
khác
nhau
về
vùng
Kim
Địa
nhưng
ý
kiến
trong
quyển
lịch
sử
Phật
Giáo
Thế
Giới
(7)
thì
cho
rằng
vùng
Kim
Địa
này
là
bán
đảo
Đông
Dương
từ
Miến
Điện
kéo
dài
đến
Việt
Nam.
Vấn
đề
này
được
sách
Lịch
Sử
Phật
Giáo
Việt
Nam
(sđđ)
viết:
"sử
liệu
Phật
Giáo
Miến
Điện
chép
rằng
hai
vị
cao
tăng
đó
(Uttara
và
Sona)
đã
đến
Miến
Điện
truyền
giáo
nhưng
sử
liệu
Phật
Giáo
tại
Thái
Lan
cũng
ghi
là
hai
cao
tăng
Uttara
và
Sona
có
đến
Thái
Lan
truyền
giáo.
Có
học
giả
dựa
vào
một
tài
liệu
Trung
Hoa
nói
rằng
ở
Giao
Châu
tại
thành
Nê
Lê,
có
bảo
tháp
của
vua
Asoka,
và
học
giả
đó
xác
định
thành
Nê
Lê
chính
là
Đồ
Sơn
hiện
nay
(cách
Hải
Phòng
khoảng
12km)".
Nói
chung
căn
cứ
theo
các
tư
liệu
trên
thì
chúng
ta
có
thể
khẳng
địng
rằng
Phật
Giáo
truyền
vào
Việt
Nam
khoảng
đầu
kỷ
nguyên
Tây
lịch
bằng
những
phương
tiện
hòa
bình
và
vì
thế
không
một
giọt
máu
nào
đã
chảy,
không
một
giọt
lệ
nào
rơi
vì
sự
truyền
bá
Đạo
Phật
vào
Việt
Nam.
II.
PHẬT
GIÁO
VIỆT
NAM
PHÁT
TRIỂN
QUA
CÁC
THỜI
ĐẠI:
^
1.
Phật
Giáo
Việt
Nam
từ
thế
kỷ
thứ
II
đến
hết
thế
kỷ
thứ
V,
thời
kỳ
du
nhập
và
hình
thành
Phật
Giáo
Việt
Nam:
Không
bao
lâu
khi
Phật
Giáo
được
truyền
vào
đất
Việt,
nhờ
sự
nổ
lực
hoạt
động
truyền
giáo
của
các
tăng
sĩ
Ấn
Độ,
tại
Luy
Lâu,
thủ
phủ
của
Giao
Chỉ
lúc
bấy
giờ
đã
trở
thành
một
trung
tâm
Phật
Giáo
lớn
nhất
trong
vùng.
Tại
đây,
với
những
sinh
hoạt
hoằng
pháp
của
ngài
Khâu
Đà
La
(người
Ấn
Độ
đến
Luy
Lâu
khoảng
năm
168-169)
đã
xuất
hiện
một
mô
hình
Phật
Giáo
Việt
Nam
hóa
đầu
tiên
qua
hình
tượng
Thạch
Quang
Phật
và
Man
Nương
Phật
Mẫu
(hình
tượng
Phật
Nữ).
Một
chứng
liệu
lịch
sử
quan
trọng
khẳng
định
Phật
Giáo
Việt
Nam
đã
bắt
rễ
sớm
ở
Giao
Châu
là
sự
việc
ngài
Mâu
Bác
(sinh
cuối
thế
kỷ
thứ
II)
theo
mẹ
từ
Trung
Quốc
sang
Giao
Châu
khi
ngài
còn
rất
trẻ,
rồi
lớn
lên,
tại
đây
ngài
đã
viết
bài
"Lý
hoặc
Luận"
và
dịch
một
số
kinh
sách,
chứng
tỏ
ngài
đã
học
Phật
giáo
tại
Giao
Châu
và
như
thế
Phật
Giáo
Giao
Châu
đã
phát
triển
khá
mạnh,
ít
nhất
là
vào
nữa
đầu
thế
kỷ
thứ
III
Tây
Lịch.
Sang
thế
kỷ
thứ
III,
có
ba
nhà
truyền
giáo
nước
ngoài
đến
hoằng
Pháp
tại
Giao
Châu
là
các
ngài
Khương
Tăng
Hội
(gốc
người
Sogdiane,
Khương
Cư);
ngài
Chi
Cương
Lương
Tiếp
(người
xứ
Nhục
Chi)
và
ngài
Ma
Ha
Kỳ
Vực
(người
Ấn
Độ).
Đến
thế
kỷ
thứ
V,
có
hai
thiền
sư
xuất
hiện,
là
Đạt
Ma
Đề
Bà
(Oharmadeva,)
và
Huệ
Thắng
(người
Việt).
Thiền
sư
Đạt
Ma
Đề
Bà
là
người
Ấn
Độ
đến
Giao
Châu
vào
giữa
thế
kỷ
thứ
V
để
giảng
dạy
về
phương
pháp
thiền
học.
Thiền
sư
Huệ
Thắng
là
người
địa
phương
là
một
trong
những
học
trò
của
ông.
Cũng
do
được
truyền
bá
trực
tiếp
từ
Ấn
Độ
vào
Việt
Nam
ngay
từ
đầu
kỷ
nguyên
Tây
lịch,
nên
danh
xưng
Buddha
(Bậc
Giác
Ngộ)
tiếng
Phạn
đã
được
phiên
âm
trực
tiếp
sang
tiếng
Việt
là
Bụt
(Trung
Hoa
dịch
là
Phật).
Điều
này
trùng
hợp
với
danh
từ
Bụt
được
xuất
hiện
trong
nhiều
truyện
cổ
tích
Việt
Nam.
Theo
từ
điển
Phật
học
Việt
Nam,
(Minh
Châu
và
Minh
Chi,
Hà
Nội
1991)
có
ghi:
"Tiếng
Bụt
phổ
biến
hơn
trong
văn
học
dân
gian
và
là
dấu
hiệu
chứng
tỏ
Đạo
Phật
truyền
vào
nước
ta
sớm
lắm".
Phật
Giáo
ở
Giao
Châu
lúc
ấy
mang
màu
sắc
Nam
phương,
nhưng
trong
con
mắt
của
nền
văn
minh
nông
nghiệp,
người
Việt
Nam
lại
hình
dung
Đức
Phật
như
là
một
vị
thần
toàn
năng
có
mặt
ở
khắp
nơi,
sẵn
sàng
xuất
hiện
để
cứu
độ
mọi
người.
2.
Phật
giáo
Việt
Nam
từ
thế
kỷ
thứ
VI
đến
hết
thế
kỷ
thứ
IX,
thời
kỳ
phát
triển:
Bước
sang
thời
kỳ
này,
Phật
tử
Việt
Nam
lại
tiếp
nhận
thêm
những
đoàn
truyền
giáo
của
Trung
Quốc.
Không
bao
lâu
sau
đó,
Phật
Giáo
Bắc
phương
(Trung
Quốc)
đã
chiếm
ưu
thế
và
đã
thay
đổi
chổ
đứng
của
Phật
Giáo
Nam
Truyền
vốn
có
từ
trước.
Từ
Buddha
được
dịch
thành
chữ
Phật,
và
từ
đây
Phật
dần
dần
thay
thế
cho
chữ
Bụt
và
chữ
Bụt
chỉ
còn
giới
hạn
trong
ca
dao,
tục
ngữ,
truyện
cổ
tích
mà
thôi.
Trong
thời
gian
này,
từ
Trung
Hoa
có
ba
tông
phái
được
truyền
vào
Việt
Nam,
đó
là
Thiền
Tông,
Tịnh
Độ
Tông
và
Mật
Tông.
a.Thiền
Tông
:
Là
tông
phái
hay
đúng
hơn
là
một
pháp
môn
tu
tập
có
từ
thời
Đức
Phật
Thích
Ca
tại
Ấn
Độ
(trong
hội
Linh
Sơn)
rồi
truyền
xuống
cho
Tôn
giả
Ca
Diếp,
lần
lượt
cho
đến
Tổ
thứ
28
Ấn
Độ
là
Bồ
Đề
Đạt
Ma
(Bodhidharma).
Đến
năm
520
Tổ
Bồ
Đề
Đạt
Ma,
vốn
là
thái
tử
thứ
ba
của
vua
Kancipura,
Nam
Ấn,
vâng
theo
lời
thầy
là
Bát
Nhã
Đa
La
(Prajnatara),
Bồ
Đề
Đạt
Ma
đến
Trung
Hoa
để
hoằng
dương
Phật
pháp.
Tại
nơi
ây,
Thiền
Tông
đã
được
hình
thành
và
nhanh
chóng
hưng
thịnh.
Thiền
hay
còn
gọi
là
tĩnh
lự,
chủ
trương
tập
trung
trí
tuệ
để
tìm
ra
chân
lý.
Tu
theo
pháp
môn
này
đòi
hỏi
hành
giả
phải
có
nhiều
công
phu
và
khả
năng
trí
tuệ,
do
vậy
chỉ
phổ
biến
ở
tầng
lớp
trí
thức
và
giai
cấp
thượng
lưu,
và
cũng
chính
nhờ
họ
ghi
chép
lại
mà
chúng
ta
ngày
nay
mới
biết
được
lịch
sử
Thiền
Tông
ở
Việt
Nam.
Dòng
thiền
thứ
nhất:
được
Tổ
Tỳ
Ni
Đa
Lưu
Chi
(Vinitaruci)
sáng
lập.
Ngài
là
người
Nam
Thiên
Trúc,
sang
Trung
Hoa
học
đạo
và
được
tổ
thứ
ba
thiền
tông
Trung
Hoa
là
Tổ
Tăng
Xán
khuyên
nên
"mau
đi
về
phương
nam
mà
tiếp
xúc
với
thiên
hạ,
không
nên
ở
lâu
tại
đây".
Ngài
từ
biệt
và
đến
Việt
Nam
vào
năm
580,
ở
tại
chùa
Pháp
Vân
(nay
là
Thuận
Thành
Hà
Bắc)
để
hoằng
pháp
và
truyền
cho
tổ
thứ
hai
là
ngài
Pháp
Hiền
(người
Việt
Nam).
Đây
là
dòng
thiền
có
tích
cách
dân
tộc
Việt
Nam,
vừa
biểu
lộ
được
sinh
hoạt
tâm
linh
siêu
việt
của
Phật
Giáo
vừa
biểu
lộ
được
đời
sống
thực
tế
và
đơn
giản
của
quần
chúng
nghèo
khổ
Việt
Nam.
Dòng
thiền
này
truyền
được
19
thế
hệ.
Dòng
thiền
thứ
hai:
là
thiền
phái
Vô
Ngôn
Thông,
do
thiền
sư
Vô
Ngôn
Thông
người
Trung
Hoa
sáng
lập
tại
chùa
Kiến
Sơ
(Phù
Đổng,
Hà
Bắc)
vào
năm
280.
Người
kế
nghiệp
ngài
là
thiền
sư
Cảm
Thành.
Đây
là
thiền
phái
chịu
ảnh
hưởng
Phật
Giáo
Trung
Hoa
sâu
đậm,
tuy
nhiên
vẫn
rất
gần
gũi
với
đời
sống
xã
hội,
hòa
nhập
vào
đời
sống
người
dân
trong
khi
vẫn
duy
trì
được
sinh
hoạt
tâm
linh
độc
lập
của
mình.
Thiền
phái
này
truyền
được
17
thế
hệ.
Dòng
thiền
thứ
ba:
là
thiền
phái
Thảo
Đường,
do
thiền
sư
Thảo
Đường
(người
Trung
Hoa)
sáng
lập,
ngài
vốn
là
tù
binh
bị
bắt
tại
Chiêm
Thành,
được
vua
Lý
Thánh
Tông
(1054-1072)
giải
phóng
khỏi
kiếp
sống
tù
đày
và
vua
cho
lập
đạo
tràng
tại
chùa
Khai
Quốc
ở
ngay
kinh
thành
Thăng
Long
(1069)
đệ
tử
theo
học
rất
đông,
trong
đó
có
cả
chính
vua
Lý
Thánh
Tông.
Thiền
phái
này
có
khuynh
hướng
thiền
tông
trí
thức
và
văn
chương,
do
đó
không
cắm
rễ
được
trong
quần
chúng
mà
chỉ
ảnh
hưởng
được
tới
một
số
trí
thức
và
vua
quan
có
khuynh
hướng
văn
học.
Dòng
thiền
này
truyền
được
6
đời.
Dòng
thiền
thứ
tư:
đó
là
thiền
phái
Trúc
Lâm
do
vua
Trần
Nhân
Tông
(1258-1368)
khai
sáng.
Vua
Trần
Nhân
Tông
học
Phật
qua
sự
hướng
dẫn
của
Tuệ
Trung
Thượng
Sĩ,
một
thiền
sư
cư
sĩ
nổi
tiếng
đời
Trần,
sau
khi
xuất
gia
vào
năm
1299
với
đạo
hiệu
là
Trúc
Lâm
Đầu
Đà,
ngài
đã
lên
tu
ở
núi
Yên
Tử
(tỉnh
Quãng
Ninh)
và
tại
đây,
ngài
đã
lập
ra
thiền
phái
Trúc
Lâm,
một
dòng
thiền
Việt
Nam
đầu
tiên,
mang
tính
chất
độc
lập
Việt
Nam
với
sự
kết
hợp
hài
hòa
của
Phật
Giáo
AᮭHoa.
Lập
ra
thiền
phái
Trúc
Lâm
này,
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
thống
nhất
được
các
thiền
phái
tồn
tại
trước
đó
và
toàn
bộ
Giáo
Hội
Phật
Giáo
đời
Trần
về
một
mối.
Nhìn
chung
thiền
phái
Trúc
Lâm
là
một
dòng
thiền
tổng
hợp
được
ba
yều
tố
đặc
thù
của
xã
hội.
Trúc
Lâm
đại
diện
cho
quý
tộc,
Pháp
Loa
đại
diện
cho
nông
dân
và
Huyền
Quang
đại
diện
cho
nho
sĩ,
tính
cách
quý
tộc,
nông
dân
và
nho
sĩ
là
thể
hiện
toàn
diện
trong
con
người
Trúc
Lâm.
Sự
tổng
hợp
đó,
đã
tạo
nên
nét
đặc
thù
của
thiền
phái
Trúc
Lâm
mà
các
thiền
phái
trước
đó
không
có
được,
kể
từ
đó
đưa
Đạo
Phật
đi
vào
xã
hội
với
tinh
thần
nhập
thế
cụ
thể,
giáo
hội
được
tổ
chức
chặt
chẽ,
cũng
cố
tinh
thần
đạo
pháp
và
dân
tộc
xây
dựng
phồn
vinh
cho
đất
nuớc.
Sau
thời
đại
Lý
Trần
các
dòng
thiền
Việt
Nam
dường
như
lu
mờ
và
tàn
lụi
hẳn,
đến
cuối
thế
kỷ
thứ
XX,
tiếp
nối
đạo
mạch
Việt
Nam,
thiền
sư
Thích
thanh
Từ
đã
phục
hưng
nền
thiền
tông
Việt
Nam
đó
là
thời
điểm
đầu
những
năm
70
tại
tu
viện
Chơn
Không
(1970-1986)
rồi
đến
Thường
Viện
Thường
Chiếu
(1974-1994)
và
hiện
nay
là
thiền
viện
Trúc
Lâm
ở
Đà
Lạt.
Đây
có
thể
nói
là
một
dòng
thiền
khác
mang
tính
cách
độc
lập
của
người
Việt
Nam.
Thiền
sư
Thanh
Từ
đã
không
theo
các
dòng
thiền
nào
truyền
thống
mà
chỉ
tổng
hợp
chỗ
thấy,
chỗ
ngộ
và
sự
ứng
dụng
của
ba
thiền
sư
nổi
tiếng
là
thiền
sư
Huệ
Khả
(tổ
thứ
2,
Trung
Hoa)
thiền
sư
Huệ
Năng
(tổ
thứ
6,
Trung
Hoa)
và
thiền
sư
Trần
Nhân
Tông
(sơ
tổ
Trúc
Lâm,
Việt
Nam)
mà
lập
thành
phương
pháp
tu
tập
cho
thiền
sinh
Việt
Nam
trong
thời
hiện
đại.
b.Tịnh
Độ
Tông:
Khác
với
Thiền
Tông,
Tịnh
Độ
Tông
chủ
trương
phải
dựa
vào
tha
lực
tức
sự
giúp
đỡ
từ
bên
ngoài.
Thật
ra,
Thiền
hay
Tịnh
Độ
cũng
chỉ
là
những
pháp
môn
tu
tập
thích
hợp
cho
nhiều
đối
tượng
khác
nhau
do
Đức
Phật
truyền
giáo
ra.
Chính
Đức
Phật
Thích
Ca
đã
nhờ
vào
tự
lực
của
mình
để
đến
giác
ngộ
thì
cần
phải
giúp
đỡ
họ,
sự
trợ
lực
hay
tha
lực
này
rất
quan
trọng.
Điều
này
gợi
cho
tín
đồ
liên
tưởng
đến
một
cõi
Niết
Bàn
cụ
thể
đó
là
cõi
Tịnh
Độ
hay
thế
giới
Cực
Lạc
do
Đức
Phật
A
Di
Đà
làm
giáo
chủ.
Sự
giúp
đỡ
đó
còn
cho
thấy
bản
thân
của
người
tín
đồ
cần
thường
xuyên
đi
chùa
dâng
hương,
cúng
dường,
bố
thí,
làm
những
điều
thiện,
tránh
các
điều
ác
và
thường
xuyên
niệm
danh
hiệu
Đức
Phật
A
Di
Đà
để
đạt
đến
nhất
tâm
bất
loạn
và
muốn
đạt
đến
chỗ
nhất
tâm
bất
loạn
này,
hành
giả
trong
lúc
niệm
Phật
phải
hình
dung,
quán
tưởng
về
thế
giới
cực
lạc
để
tâm
mình
hướng
tới.
Nhờ
cách
thức
tu
tập
đơn
giản
như
vậy
nên
Tịnh
Độ
Tông
là
tông
phái
phổ
biến
khắp
đất
nước
Việt
Nam.
Đâu
đâu
ta
cũng
gặp
người
dân
tụng
Kinh
A
Di
Đà
và
niệm
danh
hiệu
của
Đức
Phật
A
Di
Đà.
Tượng
Phật
A
Di
Đà
cũng
thuộc
loại
tượng
Phật
lâu
đời
và
phổ
biến
ở
Việt
Nam.
Điển
hình
là
pho
tượng
Phật
A
Di
Đà
bằng
đá,
cao
gần
2m,thờ
tại
chùa
Phật
Tích,
huyện
Tiên
Du,
Tỉnh
Bắc
Ninh,
được
tạo
tác
dưới
triều
Lý
Thánh
Tông
năm
1057.
Đây
là
một
bằng
chứng
đánh
dấu
sự
ảnh
hưởng
Tịnh
Độ
Tông
đầu
tiên
ở
Việt
Nam.
c.Mật
tông:
Là
một
tông
phái
chủ
trương
sử
dụng
hình
ảnh
cụ
thể
và
những
mật
ngữ,
mật
chú
để
khai
mở
trí
tuệ
giác
ngộ.
Tương
truyền
Mật
Tông
do
Phật
Đại
Nhật
chủ
xướng
và
có
hai
bộ
kinh
chính
là
Kinh
Đại
Nhật
và
Kinh
Kim
Cương.
Mật
tông
truyền
vào
Việt
Nam
không
còn
độc
lập
như
một
tông
phái
riêng
mà
nhanh
chóng
hòa
vào
tín
ngưỡng
dân
gian,
pha
trộn
với
các
truyền
thống
như
chẩn
tế,
cầu
đồng,
dùng
pháp
thuật,
yếm
bùa
trị
tà
ma
và
trị
bệnh.
Mật
tông
không
có
dấu
hiệu
phát
triển
rõ
ràng
ở
Việt
Nam,
chỉ
tuỳ
thuộc
vào
sự
thọ
trì
của
từng
chùa
và
của
mỗi
cá
nhân
có
cơ
duyên
đến
với
tông
phái
này.
Phật
Giáo
Việt
Nam
từ
thế
kỷ
thứ
X
đến
hết
thế
kỷ
thứ
XIII,
thời
kỳ
cực
thịnh
Đến
thế
kỷ
thứ
X
thì
Việt
Nam
đã
trải
qua
1000
năm
Bắc
thuộc.
Như
ta
đã
thấy,
Phật
Giáo
Việt
Nam
của
thế
kỷ
thứ
V
chỉ
còn
ghi
lại
hai
thiền
sư
là
Đạt
Ma
Đề
Bà
và
Huệ
Thắng.
Thế
kỷ
thứ
VI
ghi
lại
hai
thiền
sư
Việt
Nam:
Quán
Duyên
và
Pháp
Thiền.
Chính
trong
thế
kỷ
này
mà
thiền
sư
Tỳ
Ni
Đa
Lưu
Chi
đến
Việt
Nam.
Ba
thế
kỷ
tiếp
theo,
thế
kỷ
VII,
VIII
và
IX
là
ba
thế
kỷ
thuộc
nhà
Đường
cai
trị,
đến
thế
kỷ
thứ
X
thì
Việt
Nam
mới
bắt
đầu
giành
được
quyền
tự
chủ.
Chính
trong
thế
kỷ
này
Đạo
Phật
mới
thực
sự
hưng
thịnh
và
có
những
đóng
góp
tích
cực
cho
đất
nước.
Năm
971
vua
Đinh
Tiên
Hoàng
định
giai
cấp
cho
tăng
sĩ
và
ban
chức
tăng
thống
cho
Thiền
sư
Ngô
Chân
Lưu
thuộc
thiền
phái
Vô
Ngôn
Thông,
và
ngài
Khuông
Việt
Thái
Sư,
chính
thức
tiếp
nhận
Phật
Giáo
làm
nguyên
tắc
chỉ
đạo
tâm
linh
cho
chính
sự.
Cũng
chính
trong
thế
kỷ
này
vua
Lê
Đại
Hành
đã
mời
thiền
sư
Pháp
Thuận
và
thiền
sư
Vạn
Hạnh
của
thiền
phái
Tỳ
Ni
Đa
Lưu
Chi
làm
cố
vấn
chính
sự.
Các
thiền
sư
Khuông
Việt,
Pháp
Thuận
và
Vạn
Hạnh
cũng
đã
tiếp
tục
trợ
giúp
vua
Lý
Thái
Tổ
trong
thế
kỷ
kế
tiếp.
Phật
Giáo
Việt
Nam
trong
thời
kỳ
này
phát
triển
tới
mức
toàn
vẹn
và
cực
thịnh.
Do
ảnh
hưởng
tư
tuởng
của
vua
Trần
Nhân
Tông
và
Tuệ
Trung
Thượng
Sĩ
đầu
thế
kỷ
thứ
VIII,
ba
thiền
phái
Tỳ
Ni
Đa
Lưu
Chi,
Vô
Ngôn
Thông
và
Thảo
Đường
sát
nhập
tạo
thành
một
và
đưa
tới
sự
phát
triển
của
thiền
phái
Trúc
Lâm
là
thiền
phái
duy
nhất
dưới
đời
Trần.
Vì
vậy
đời
Trần
có
thể
gọi
là
thời
đại
thống
nhất
của
Phật
Giáo
các
hệ
phái
trước
đó.
Tăng
sĩ
đời
Trần
không
trực
tiếp
đóng
góp
vào
sự
nghiệp
chính
trị
như
các
thiền
sư
đời
Lý,
nhưng
Phật
Giáo
là
một
yếu
tố
quan
trọng
để
liên
kết
nhân
tâm.
Tinh
thần
Phật
Giáo
đã
kiến
cho
các
nhà
chính
trị
đời
Trần
áp
dụng
những
chính
sách
bình
dân,
thân
dân
và
dân
chủ.
Phật
Giáo
trong
đời
Trần
là
quốc
giáo,
mọi
người
dân
trong
xã
hội
điều
hướng
về
Phật
Giáo.
Nhà
nho
Lê
Quát,
học
trò
Chu
Văn
An,
đã
lấy
làm
tức
giận
vì
thấy
toàn
dân
theo
Phật
:
"Phật
chỉ
lấy
điều
họa
phúc
mà
động
lòng
người,
sao
mà
sâu
sa
và
bền
chắc
đến
như
vậy?
Trên
từ
Vương
Công,
dưới
đến
thứ
dân,
hễ
làm
việc
gì
thuộc
về
việc
Phật,
thì
hết
cả
gia
tài
cũng
không
tiếc.
Nếu
hôm
nay
đem
tiền
để
làm
chùa
xây
tháp
thì
hớn
hở,
vui
vẻ,
như
trong
tay
đã
cầm
được
biên
lai
để
ngày
sau
đi
nhận
số
tiền
trả
báo
lại.
Cho
nên
trong
kinh
thành
ngoài
đến
Châu
Phủ,
đường
cùng
ngõ
hẻm,
chẳng
khiến
đã
theo,
chẳng
thề
mà
tin,
hễ
chổ
nào
có
nhà
thì
có
chùa
Phật;
bỏ
đi
thì
làm
lại,
hư
đi
thì
sửa
lại"
(8).
Có
rất
nhiều
chùa
tháp
qui
mô
to
lớn
hoặc
kiến
trúc
độc
đáo
đã
được
xây
dựng
trong
thời
Lý
Trần
như
chùa
Phật
Tích,
chùa
Đại
Lãm,
chùa
Linh
Xứng,
chùa
Một
Cột,
chùa
Phổ
Minh.
Khâm
phục
trước
những
thành
tựu
văn
hóa
của
Phật
Giáo
Việt
Nam
thời
Lý
Trần
mà
sách
vỡ
Trung
Hoa
truyền
tụng
nhiều
về
4
công
trình
nghệ
thuật
lớn
mà
họ
gọi
là
An
Nam
Tứ
Đại
Khí
(9).
Đó
là:
Tượng
Phật
Chùa
Quỳnh
Lâm:
chùa
Quỳnh
Lâm
ở
Đông
Triều
(Quảng
Ninh)
được
xây
dựng
vào
khoảng
thế
kỷ
XI,
có
pho
tượng
Di
Lặc
bằng
đồng
mà
theo
văn
bia
mà
nay
vẫn
còn
giữ
được
trong
chùa
thì
tượng
cao
6
trượng
(1
trượng
bằng
khoảng
4m)
đặt
trong
một
tòa
Phật
điện
cao
7
trượng.
Đứng
từ
bến
đò
Đông
Triều,
cách
xa
10
dặm
vẫn
còn
trong
thấy
nóc
chánh
điện.
Tháp
Bảo
Thiên:
gồm
12
tầng,
cao
20
trượng
do
vua
Lý
Thánh
Tông
cho
xây
dựng
vào
năm
1057
trên
khuôn
viên
chùa
Sùng
Khánh
ở
phía
Tây
Hồ
Lục
Thủy
(tức
Hồ
Gươm
Hà
Nội
ngày
nay)
bằng
đá
và
gạch,
riêng
tầng
thứ
12
đúc
bằng
đồng.
Đây
là
đệ
nhất
danh
thắng
đế
đô
một
thời.
Đến
năm
1414
tháp
bị
quân
Vương
Thông
tàn
phá,
nền
tháp
còn
lại
to
như
quả
đồi,
có
thời
dùng
làm
nơi
họp
chợ;
đến
năm
1791
dỡ
ra
lấy
gạch
xây
thành
còn
thấy
4
pho
tượng
Kim
Cương
trấn
giữ
4
cửa
và
nhiều
tượng
chim
thú
khác.
Thời
Pháp
bị
phá
huỷ
hoàn
toàn
để
xây
dựng
nhà
thờ
lớn
trên
mảnh
đất
ấy.
Chuông
Quy
Điền:
Năm
1101,
vua
Lý
Nhân
Tông
cho
xuất
hàng
vạn
cân
đồng
để
đúc
quả
chuông
này
và
dự
định
treo
nó
tại
khuôn
viên
chùa
Diên
Hựu
(10)
trong
lầu
chuông
bằng
đá
xanh
cao
8
trượng.
Nhưng
chuông
đúc
xong
to
quá
(đường
kính
1,5
trượng
(khoảng
6m)
cao
3
trượng
(khoảng
12
m),
nặng
đến
vài
vạn
cân)
không
treo
nổi
lên
đành
để
ở
ngoài
ruộng.
Vạc
Phổ
Minh:
đúc
bằng
đồng
vào
thời
vua
Trần
Nhân
Tông
(1279-1293)
đặt
tại
chùa
Phổ
Minh
(làng
Tức
Mặc,
Nam
Hà).
Vạc
sâu
6
thước,
rộng
10
thước
nặng
trên
7
tấn
(11).
Vạc
to
tới
mức
có
thể
nấu
được
cả
một
con
bò
mộng,
trẻ
con
có
thể
chạy
nô
đùa
trên
thành
miệng
vạc.
Đến
nay
vẫn
còn
3
trụ
đá
kê
chân
vạc
trước
sân
chùa
Phổ
Minh.
Phật
Giáo
Việt
Nam
trong
thế
kỷ
XX,
thời
kỳ
phục
hưng:
Phật
Giáo
Việt
Nam
đã
trải
qua
thời
cực
thịnh
nhất
dưới
hai
triều
đại
Lý
Trần,
sang
đến
đời
Hậu
Lê
rồi
Nguyễn
Triều
thì
Phật
Giáo
phải
nhường
bước
cho
Nho
giáo,
lúc
ấy
đang
chiếm
vai
trò
độc
tôn.
Triều
đại
nhà
Nguyễn
truyền
đến
đời
vua
Tự
Đức
thì
mất
chủ
quyền,
nước
ta
rơi
vào
vòng
đô
hộ
của
Pháp.
Phật
Giáo
Việt
Nam
vốn
đã
suy
vi
nay
lại
điêu
tàn
hơn.
Trong
bối
cảnh
đó,
Ky
Tô
giáo
đã
du
nhập
vào
Việt
Nam
và
dân
tộc
Việt
Nam
lại
tiếp
nhận
thêm
một
tôn
giáo
mới
của
phương
Tây.
Tuy
tinh
thần
khai
phóng
dung
hợp
của
Phật
Giáo
suốt
mấy
thế
kỷ
qua
không
còn
được
thể
hiện
trong
chính
sách
quốc
gia,
văn
hóa
và
xã
hội
vào
thế
kỷ
XX
nhưng
Phật
Giáo
vẫn
là
tôn
giáo
chính
của
dân
tộc,
đóng
vai
trò
hòa
giải
giữa
các
thế
lực
tranh
chấp,
góp
phần
xây
dựng
tinh
thần
dân
tộc,
bảo
vệ
nền
độc
lập
của
quốc
gia.
Vào
khoảng
những
năm
1920-1930,
trong
không
khí
tưng
bừng
của
phong
trào
chấn
hưng
Phật
Giáo
trên
thế
giới,
đặt
biệt
ở
Nhật
Bản,
Trung
Hoa,
Ấn
Độ
và
Miến
Điện,
một
số
tăng
sĩ
và
cư
sĩ
đã
phát
động
phong
trào
chấn
hưng
Phật
Giáo
tại
Việt
Nam,
từ
đó
đưa
đến
sự
thành
lập
Tổng
Hội
Phật
Giáo
Việt
Nam
tại
miền
Bắc
vào
năm
1934
đặt
trụ
sở
tại
chùa
Quán
Sứ,
và
xuất
bản
tạp
chí
Đuốc
Tuệ.
Ở
miền
Trung,
Hội
An
Nam
Phật
Học
cũng
ra
mắt
tại
chùa
Từ
Đàm
và
cho
xuất
bản
tạp
chí
Viên
Âm
vào
1934,
đặt
biệt
hội
đã
mở
các
Phật
Học
Viện
cho
tăng
chúng
tu
học
như
phật
học
đường
Báo
Quốc
và
Kim
Sơn,
Trúc
Lâm
và
Tây
Thiên.
Ở
Bình
Định
có
hội
Phật
Học
Bình
Định,
ở
Đà
Nẵng
có
hội
Phật
Học
Đà
Thanh,
ra
tạp
chí
Tam
Bảo.
Tại
miền
Nam,
năm
1920,
Hội
Lục
Hòa
được
thành
lập
để
đoàn
kết
và
vận
động
phong
trào
chấn
hưng
Phật
Giáo.
Hội
nghiên
cứu
Phật
Học
Nam
Kỳ
ra
đời,
đặt
trụ
sở
tại
chùa
Linh
Sơn;
xuất
bản
tạp
chí
Từ
Bi
Âm
(1932).
Năm
1933
Liên
Đoàn
Học
Xã
ra
đời.
Năm
1034,
hội
Phật
Học
Lưỡng
Xuyên
ra
đời,
xuất
bản
tạp
chí
Du
Tân
Phật
học
và
mở
Phật
Học
đường
Lưỡng
Xuyên.
Nhờ
phong
trào
chấn
hưng
Phật
Giáo
này
mà
đội
ngũ
tăng
ni
được
đào
tạo
qua
nhiều
trường
lớp
và
phát
triển
nhiều
ở
các
tỉnh.
Chùa
chiền
được
xây
dựng
khắp
nơi,
nhất
là
hệ
thống
chùa
phật
học
ở
các
thành
thị.
Nhiều
ngôi
chùa
ở
làng
xã
được
trùng
tu
và
có
chư
tăng
ni
trụ
trì.
Bên
cạnh
đó,
trong
thời
kỳ
này,
có
nhiều
hệ
phái,
tôn
phái
phật
giáo
ra
đời,
như
giáo
phái
Khất
Sĩ
Việt
Nam,
Thiên
Thai
Giáo
Quán
Tông,
Phật
Giáo
Hoa
Tông
..Một
yêu
cầu
thống
nhất
Phật
Giáo
được
đặt
ta
tại
Huế,
đưa
đến
việc
thành
lập
Tổng
Hội
Phật
Giáo
Việt
Nam
đặt
trụ
sở
tại
chùa
Từ
Đàm
Huế,
hội
chủ
là
Hòa
thượng
Thích
Tịnh
Khiết,
đây
là
một
tổ
chức
thống
nhất
Phật
Giáo
ba
miền
Nam,
Trung,
Bắc,
đồng
thời
vạch
ra
một
con
đường
dân
tộc
nhân
bản,
hướng
dẫn
bước
đi
Phật
Giáo
vào
môi
trường
tư
tưởng
và
văn
hóa,
tiếp
tục
xây
dựng
con
người
và
xã
hội
Việt
Nam.
Điểm
đặc
sắc
của
Phật
Giáo
Việt
Nam
trong
thế
kỷ
XX
là
sự
kết
hợp
của
hai
giáo
phái
Nam
Tông
và
Bắc
Tông
vào
năm
1964
để
thành
lập
Giáo
Hội
Phật
Giáo
Việt
Nam
Thống
Nhất.
Giáo
Hội
này
hoạt
động
cho
đến
năm
1981
thì
ngưng
hoạt
động
trong
nước,
nhưng
có
văn
phòng
hai
Viện
Hóa
Đạo
đặt
tại
tiểu
bang
California,
Hoa
Kỳ,
hoạt
động
rất
mạnh.
Đến
tháng
mười
một
năm
một
nghìn
chín
trăm
tám
mốt,
sau
sáu
năm
đất
nước
thay
đổi
thể
chế,
một
hội
nghị
với
165
đại
biểu
của
chín
tổ
chức
giáo
hội
hệ
phái
cả
nước
đã
họp
tại
chùa
Quán
Sứ
Hà
Nội
đưa
đến
việc
thành
lập
Giáo
Hội
Phật
giáo
Việt
Nam.
Hòa
thượng
Thích
Đức
Nhuận
làm
pháp
Chủ
Hội
Đồng
Chứng
Minh
Trung
Ương,
Hòa
Thượng
Thích
Trí
Thủ
làm
chủ
tịch
Hội
Đồng
Trị
Sự
Trung
Ương.
Giáo
hội
đặt
văn
phòng
I
tại
chùa
Quán
Sứ
Hà
Nội,
văn
phỏng
II
tại
chùa
Xá
Lợi
(12)
thành
phố
Hồ
Chí
Minh.
III.
THỐNG
KÊ
MỘT
SỐ
THÀNH
QUẢ
CỦA
PHẬT
GIÁO
VIỆT
NAM:
^
Từ
khi
du
nhập
cho
đến
nay,
Phật
Giáo
Việt
Nam
đã
trải
qua
bao
thăng
trầm,
lúc
thịnh
lúc
suy,
có
lúc
thống
nhất,
có
lúc
phân
tán,
do
nhiều
nguyên
nhân
khác
nhau,
từ
đây
Phật
Giáo
Việt
Nam
đã
được
thống
nhất
từ
Bắc
chí
Nam.
Các
hệ
phái
phật
giáo
vẫn
được
bảo
lưu,
nét
đặc
trưng
trong
pháp
môn
tu
hành
vẫn
được
tôn
trọng,
hệ
thống
chùa
chiền,
tăng
ni
đã
được
thống
kê,
quản
lý
thống
nhất.
Theo
số
thống
kê
được
công
bố
trong
hội
nghị
thường
niên
của
Giáo
Hội
Phật
giáo
Việt
Nam
(13)
thì
số
tự
viện
Phật
Giáo
và
số
tăng
ni
mà
giáo
hội
đã
thống
kê
được
(14)
là
14.303
ngôi
tự
viện,
trong
đó
gồm
13.312
tự
viện
Bắc
tông,
469
tự
viện
Nam
tông
nguyên
thủy
và
Khmer,
142
tịnh
xá
khất
sĩ,
95
tịnh
thất
và
185
niệm
Phật
đường.
Về
tăng
ni
thì
có
26.268
vị,
có
ba
Học
Viện
Phật
Giáo,
một
Trường
cao
đẳng
chuyên
khoa
phật
học,
30
trường
cơ
bản
phật
học,
một
Trường
đào
tạo
đội
ngũ
giảng
viên
hoằng
pháp.
Ngoài
ra
giáo
hội
Phật
giáo
Việt
Nam
đã
thành
lập
được
Viện
Nghiên
Cứu
Phật
Học
tại
thành
phố
Hồ
Chí
Minh
và
phân
viện
nghiên
cứu
tại
thủ
đô
Hà
Nội.
Và
đặc
biệt
là
hội
đồng
phiên
dịch
và
ấn
hành
Đại
Tạng
Kinh
Việt
Nam
cũng
đã
được
thành
lập,
tính
đến
nay
hội
đồng
đã
phiên
dịch
ấn
hành
30
tập
kinh
được
dịch
từ
chữ
Hán
và
chữ
Pali,
đây
là
một
thành
quả
đáng
kể
của
Phật
giáo
Việt
Nam.
Vì
đây
là
lần
đầu
trong
lịch
sử
Phật
giáo
Việt
Nam
người
Phật
tử
trong
xứ
sở
này
có
được
một
bộ
đại
tạng
kinh
bằng
tiếng
Việt.
*****^*****|
Mục lục |
Phần A |
Phần B |
Phần C |
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả | Phật
giáo thế giới |
---o0o---
Vi tính : Chúc Thanh - Hải Hạnh
Trình bày : Nhị Tường