Phần 2
Chỉ Cách Từ Sinh Diệt Hội
Nhập Chân Như
Chính Văn.-
Bây giờ chỉ cái cách từ mặt sinh diệt mà hội
nhập ngay vào mặt chân như. Cách ấy là cứu xét vật với tâm nơi
cái thân năm hợp thể (125) này, cùng với sáu đối cảnh trong vật
với tâm ấy, tất cả đều siêu việt phân biệt. Phân biệt mà
cứu xét đến cùng thì cũng không có gì có thể thủ đắc. Kẻ
lầm đường thì lầm đông là tây, trong khi đông và tây không
đổi theo cái lầm ấy; chúng sinh cũng vậy, vì bất giác mà cho tâm
thể là phân biệt, nhưng sự thật tâm thể không thác loạn theo
phân biệt ấy. Do vậy, nếu biết chiêm nghiệm tâm thể siêu việt
phân biệt thì thế là thích ứng mà hội nhập chân như.
Lược Giải.-
Đến đây nên nói vói lại chữ niệm của Khởi tín
luận. Chữ ấy tôi đã nói ngài Huyền tráng dịch là phân biệt,
và phân biệt có thể hiểu là khái niệm là vì khái niệm là
pháp. Từ điển bình thường thì khái niệm là tổng hợp sự tương
đồng của quan niệm. Pháp là như thế mà còn hơn thế nữa. Gọi là
1 pháp có nghĩa là 1 cái biết: biết đây là cây bút, lại biết
đây là cây bút tốt, đây là cây bút cũ, v/v - chỉ nơi 1 cây bút
mà đã có bao nhiêu là biết. Mỗi cái biết như vậy là 1 pháp,
thực chất không đơn thuần mà là 1 khái niệm: biểu thị sự tổng
hợp không những mọi dữ kiện mà còn mọi đối chiếu và nhất
là mọi kinh nghiệm.
Nhưng xét chữ niệm của Khởi tín luận nói, có khi
nói là động, thì biết không những niệm là phân biệt mà là,
nói cho cùng, hễ tâm động thì là niệm đó. Do vậy, biết tâm bất
động là biết tâm ly niệm, tập ly niệm thì đương xứ giải thoát,
nơi sinh diệt mà nhập chân như.
Trong hạ thủ công phu, sự ly niệm có thể bắt đầu
bằng sự vô tâm của ngài Huệ năng: không thị phi bỉ thử gì hết;
bằng sự niệm Phật: nhất tâm với 1 hồng danh mà thôi; bằng sự
tham cứu công án của Thiền tông: tỉnh như mèo rình chuột chứ
không nghĩ gì khác; bằng sự hành trì thần chú Bát nhã: vượt qua,
vượt qua, vượt qua bên kia; bằng sự trực tâm chánh niệm chân
như của luận này.
Sửa Chữa Những Ngộ Nhận Liên
Quan Nhân Ngã
Chính Văn.-
Sửa chữa nhận thức sai lầm về Tâm là phải biết
mọi nhận thức sai lầm đều do khái niệm về ngã; tách rời khái
niệm về ngã thì không còn nhận thức nào bị sai lầm nữa. Khái
niệm về ngã có hai, một là nhân ngã, hai là pháp ngã (126) .
Nhân ngã là của người thường, có năm sự.
Một là nghe khế kinh nói pháp thân Như lai tuyệt đối
vắng bặt, tựa như hư không. Không biết lời này chỉ để đả phá
cố chấp, nên ngộ nhận sự trống không là thực chất của đức
Như lai. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ sự trống không là giả,
không thật. Không là đối với vật mà có, mà thấy, và nhận
thức phân biệt rằng đó là không. Như vậy thì vật cũng do nhận
thức phân biệt, không phải độc lập ngoài nhận thức. Vật đã
không thì không cũng không. Thế nên mọi đối tượng của nhận
thức chỉ do nhận thức hình thành, rời nhận thức thì mọi đối
tượng đều không, chỉ còn tâm thể chân như phổ biến tất cả:
đó là cái nghĩa tuyệt đối của tuệ giác Như lai (127) , chứ không
phải trống không như hư không.
Hai là nghe khế kinh nói vũ trụ vạn hữu hoàn toàn
là không, đến nỗi niết bàn với chân như cũng hoàn toàn là
không, thực chất tự không, không có dưới mọi dạng thức (128) .
Không biết lời này chỉ để đả phá cố chấp, nên ngôể nhận
niết bàn chân như thực chất cũng không. Sửa chữa cách nào? Hãy
nói rõ cái nghĩa Có một cách đúng như sự thật của chân như,
rằng chân như sung mãn vô lượng tánh đức.
Ba là nghe khế kinh nói Như lai tạng sung mãn hết thảy
tánh đức, không hề thêm bớt. Không lý giải lời này nên ngộ
nhận Như lai tạng có những đặc tính dị biệt của vật với tâm.
Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ khế kinh nói như vậy là căn cứ
mặt chân như, còn những đặc tính dị biệt chỉ là nói theo mặt sinh
diệt.
Bốn là nghe khế kinh nói toàn bộ nhiễm pháp đều do
Như lai tạng mà có, hết thảy nhiễm pháp tịnh pháp không ngoài chân
như. Không lý giải lời này nên ngộ nhận Như lai tạng bản thân
sung mãn toàn bộ nhiễm pháp. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ Như
lai tạng vô thỉ đến giờ chỉ có nhiều hơn hằng sa những tánh
đức trong sáng, những tánh đức không độc lập và đối lập
với chân như, và do vậy mà không bao giờ mất hẳn; còn những
phiền não ô nhiễm nhiều hơn hằng sa thì chỉ có một cách thác
loạn, thực chất tự không, vô thỉ đến giờ không hề thích hợp
với Như lai tạng. Như lai tạng nếu bản thân có nhiễm pháp mà làm
cho nhiễm pháp hủy diệt để hội nhập với Nó thì vô lý.
Năm là nghe khế kinh nói do Như lai tạng mà có sinh
tử, do Như lai tạng mà được niết bàn. Không lý giải lời này
nên ngộ nhận rằng thế là chúng sinh hữu thỉ, chúng sinh hữu thỉ
thì Như lai niết bàn, niết bàn ấy cũng hữu chung, và Như lai sẽ
trở lại làm chúng sinh. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ Như lai
tạng là vô thỉ, bất giác do đó cũng vô thỉ (nói ngoài chúng sinh
có một kẻ cũng mới có và có trước, thì đó là kinh sách
ngoại đạo nói) (129) ; Như lai tạng cũng vô chung, niết bàn của Như
lai thích ứng với Như lai tạng nên cũng vô chung.
Lược Giải.-
Coi lược giải đoạn dưới đây.
Sửa Chữa Những Ngộ Nhận Liên
Quan Pháp Ngã
Chính Văn.-
Pháp ngã là của nhị thừa. Vì trình độ kém cỏi
của họ mà đức Như lai chỉ nói cho họ đạo lý nhân vô ngã. Ngài
dạy chưa trọn vẹn, nên nhị thừa thấy có năm hợp thể, thấy có
sự phát sinh và có sự hủy diệt của năm hợp thể ấy. Thấy có
như vậy nên nhị thừa sợ sự sống chết mà thích sự niết bàn.
Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ năm hợp thể đương sinh bất sinh,
đương diệt bất diệt (130) , bản lai niết bàn (131) .
Lược Giải.-
Cả 2 đoạn, e1 ở trên và e2 ở đây, nêu lên lắm
vấn đề, không những giữa Phật giáo với ngoại đạo mà còn
giữa Phật giáo với Phật giáo. Hãy cứu xét ky? ở đây và ở
những nơi liên quan khác. Bởi vì nếu không thì nói ngũ uẩn vô
ngã mà có thể là nói duy vật, nói niết bàn mà có thể là nói
đoạn kiến, nói vô thỉ vô chung mà có thể là nói Phạn thiên
với Thần ngã.
Sửa Chữa Triệt Để Mọi Sự
Ngộ Nhận
Chính Văn.-
Sửa chữa triệt để mọi sự nhận thức sai lầm về
Tâm là hãy nhận thức nhiễm pháp với tịnh pháp toàn là đối
chiếu với nhau mà hình thành, không có đặc tính biệt lập gì có
thể chỉ ra. Thế nên các pháp bản lai phi vật lý, phi tâm lý, phi
tuệ giác, phi nhận thức, phi khẳng định, phi phủ định, chung cục
không thể diễn tả. Diễn tả là do sự khéo léo của đức Như lai
mượn ngôn ngữ để hướng dẫn chúng sinh. Ý hướng của ngài là
làm cho chúng sinh vượt khỏi phân biệt, qui về chân như. Bởi vì
chính phân biệt làm cho phân biệt mà không hội nhập tuệ giác chính
xác.
Nói Tổng Quát Về Sự Phát Tâm
Chính Văn.-
Phân tích sắc thái phát huy về Tâm thì Tâm là cái
mà tuệ giác của các đức Phật đà đã chứng ngộ, và tuệ giác
ấy hết thảy các vị Bồ tát phát tâm (132) mà đi mau đến. Nói
đại khái thì phát tâm có ba: một là phát tâm bằng sự tin (133) ,
hai là phát tâm bằng sự biết và sự làm, ba là phát tâm bằng
sự chứng (134) .
Lược Giải.-
Nói tổng quát về sự phát tâm như chính văn trên
đây cũng đủ thấy chữ phát tâm đồng nghĩa với chữ tu hành mà
còn hơn nữa: phát tâm là cơ sở, mục đích, tiến trình và cứu
cánh của sự tu hành ấy.
Nói Tư Cách Và Lý Do Phát Tâm
Của Người Được Đứng Vào Chánh Định Tụ
Chính Văn.-
Phát tâm bằng sự tin là do người nào, tu việc gì,
để được sự tin hoàn hảo và phát tâm được? Là do những
người thuộc bất định tụ (135) . Những người này nhờ sức mạnh
của sự huân tập thiện căn (136) mà tin nghiệp và hậu quả của
nghiệp (137) , tu mười điều thiện, chán thống khổ sinh tử, cầu tuệ
giác vô thượng. Do vậy mà được gặp các đức Phật đà, đích
thân phụng sự hiến cúng, và tu hành sự tin. Qua mười ngàn thời
kỳ (138) thì sự tin hoàn hảo, nên các đức Phật đà hay các vị
Bồ tát dạy cho phát tâm, hoặc vì lòng đại bi thương xót chúng sinh
mà tự phát tâm, hoặc vì duy trì Phật pháp sắp mất mà tự phát
tâm. Những người do sự tin hoàn hảo mà phát tâm như vậy thì
được đứng vào chánh định tụ (135) , tuyệt đối không còn thoái
lui, và được gọi là người ở trong dòng giống Như lai, thích ứng
với nhân tố chính yếu.
Lược Giải.-
Đây là nói về tư cách và lý do phát tâm của
người được vào chánh định tụ. Trọn phần nói phát tâm bằng
sự tin này (và tiếp theo là bằng sự hiểu và làm, bằng sự
chứng) là nói cho những người này.
Nói Tư Cách Và Lý Do Phát Tâm
Của Người Chưa Đứng Vào Chánh Định Tụ
Chính Văn.-
Có những người thiện căn kém cỏi, phiền não lâu
ngày sâu dày, thì dẫu được gặp Phật và được hiến cúng, nhưng
gây hạt giống nhân thiên (139) , hay gây hạt giống nhị thừa, có
cầu đại thừa đi nữa thì trình độ cũng không cố định, hoặc
tiến tới hoặc thoái lui. Hoặc có những người cũng được gặp
Phật và được hiến cúng, nhưng chưa qua mười ngàn thời kỳ, trong
thì gian ấy gặp duyên tố thì cũng phát tâm, như thấy sắc tướng
của Phật mà phát tâm, như hiến cúng Tăng mà phát tâm, như các
vị nhị thừa dạy cho (140) mà phát tâm, như học tập người khác mà
phát tâm, đại loại như vậy, những sự phát tâm này đều không
cố định, gặp phải nhân tố hay duyên tố bất thiện (141) thì có
người thoái chuyển, sa vào địa hạt nhị thừa.
Lược Giải.-
Đây là nói về tư cách và lý do phát tâm của
người chưa đứng vào chánh định tụ. Sau đây, trọn c4 phần cách tu
là nói cho những người này.
Nói 3 Tâm Được Phát (Và 4
Phương Tiện Được Tu)
Chính Văn.-
Phát tâm bằng sự tin hoàn hảo là phát những tâm
gì? Ước lược mà nói thì có ba. Một là tâm ngay thẳng (142) , là
chính xác nhớ thẳng tâm thể chân như. Hai là tâm sâu xa, là thích
thú tập hợp mọi thiện hạnh. Ba là tâm đại bi, là muốn cứu
vớt thống khổ cho chúng sinh.
Hỏi, trên kia đã nói, chân như là pháp tánh đồng
nhất, là thật thể bất nhị, như vậy tại sao không chỉ nghĩ nhớ
chân như mà còn cần phải tu học thiện hạnh? Đáp, khối ngọc đại
ma ni thể chất trong suốt mà có quặng làm bẩn, chỉ nghĩ đến thể
chất của ngọc ấy mà không tìm cách mài dũa thì không bao giờ
trong suốt. Chân như cũng vậy, thực thể trong sáng nhưng có vô số
phiền não làm bẩn, nếu chỉ nhớ chân như mà không tu phương tiện
thì chân như ấy không thể trong sáng. Phiền não làm bẩn tất cả
các pháp thì phải tu tất cả thiện hạnh mà đối trị. Tu thiện hạnh
là quay lại thuận theo chân như.
Phương tiện nói trên ước lược có bốn. Một là
phương tiện căn bản, là quán sát các pháp đương sinh bất sinh,
nên siêu thoát nhận thức thác loạn chứ không trú ở (143) sinh
tử; quán sát các pháp hội đủ yếu tố thì nghiệp và hậu quả
của nghiệp không mất, nên sinh tâm đại bi mà làm mọi phước
đức để hóa độ chúng sinh chứ không trú ở (143) niết bàn. Tu
phương tiện này là vì thuận theo sự không trú ở đâu cả của
chân như. Hai là phương tiện đình chỉ, là hổ thẹn mà sám hối tội
lỗi, đình chỉ việc ác không cho lớn thêm. Tu phương tiện này là
vì thuận theo sự tách rời tội ác của chân như. Ba là phương tiện
phát sinh và nuôi lớn thiện căn, là tinh tiến hiến cúng và lễ
bái Phật pháp tăng, tán dương, tùy hỷ và khuyến thỉnh Phật đà.
Do cái tâm kính mến Tam bảo thuần hậu như vậy mà sự tin lớn
thêm, chí cầu tuệ giác vô thượng, lại nhờ Phật pháp tăng lực
hộ trì cho mà nghiệp chướng tiêu diệt, thiện căn phát triển. Tu
phương tiện này là vì thuận theo sự thoát ly si mê chướng ngại
của chân như. Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng, là nguyện
cùng tận vị lai hóa độ chúng sinh, không để thiếu sót, làm cho ai
cũng rốt cuộc thực hiện niết bàn hoàn toàn (144) . Tu phương tiện
này là vì thuận theo sự không gián đoạn của chân như, sự phổ
biến chúng sinh, sự bất phân bỉ thử (145) và sự vắng lặng tuyệt
đối (146) của chân như.
Lược Giải.-
Lối trình bày những phương tiện (thiện hạnh) như ở
đây tức là thuận tánh khởi tu. Hãy chú ý những phương tiện
này. Vì như phương tiện một là đủ cả chân quán tục quán, phương
tiện ba là làm 10 đại nguyện vương đó.
Riêng ví dụ chỉ nghĩ chất ngọc mà không lo mài ngọc
là thuốc đắng dành cho những người cho rằng chỉ nghĩ chân như là
cao nhất rồi.
Nói Thành Quả Của Sự Phát Tâm
Ấy
Chính Văn.-
Các vị Bồ tát phát tâm bằng sự tin hoàn hảo như
vậy thì thấy được ít phần của pháp thân; vì thấy được pháp
thân nên các vị ấy đã có thể tùy sức mạnh của đại nguyện
mà biểu hiện trong thế giới loài người bằng tám hình thức để
lợi ích chúng sinh, đó là giáng thần, vào thai, ở thai, ra thai,
xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn (147) . Nhưng
các vị Bồ tát này vẫn chưa được gọi là hội nhập pháp thân,
vì các vị ấy chưa loại hết những hành vi sai sót (148) có trong
nhiều đời đã qua, nên sinh ra ở đâu cũng còn có cái khổ nhỏ
nhiệm - dầu vậy, các vị ấy có sức mạnh tự tại của đại nguyện
nên không phải là kẻ bị nghiệp ràng buộc. Trong kinh có chỗ nói
các vị ấy còn bị thoái lui và sa vào nẻo đường dữ, nhưng thật
ra các vị ấy không còn thoái lui; trong kinh nói như vậy là để cảnh
cáo những vị Bồ tát mới tu học, chưa vào chánh định tụ mà lại
biếng nhác, cho họ dũng mãnh hơn lên. Thêm nữa, các vị ấy một khi
phát tâm rồi thì hết hẳn khiếp nhược, hoàn toàn không còn e sợ
sa vào các nẻo đường dữ (149) ; các vị ấy cũng không còn e sợ
gì khi nghe nói phải trải qua vô số thời kỳ vô số (150) , siêng
khó làm những việc khó làm mới được niết bàn, vì các vị ấy
tin tưởng và xác quyết rằng các pháp bản lai vốn tự niết bàn.
Lược Giải.-
Bồ tát phát tâm bằng sự tin hoàn hảo thì có 4
thành quả, tả bằng 4 đoạn trong chính văn: biểu hiện 8 hình thức,
ở đâu cũng tự tại, không còn bị thoái chuyển, không còn khiếp
sợ gì.
Nói Sự Phát Tâm Bằng Sự Biết
Và Sự Làm
Chính Văn.-
Phát tâm bằng sự biết và sự làm thì phải biết
là hơn nữa. Bởi vì từ khi đạt được sự tin hoàn hảo sắp đi,
cho đến lúc thời kỳ vô số thứ nhất sắp đầy đủ (151) , các vị
Bồ tát này đối với chân như đã có sự hiểu sâu xa và sự
làm ly tướng: các vị biết chân như là không tham lẫn nên thuận
theo mà làm thí độ, biết chân như là không ô nhiễm nên thuận theo
mà làm giới độ, biết chân như là không tức giận nên thuận theo
mà làm nhẫn độ, biết chân như là không biếng nhác nên thuận theo
mà làm tiến độ, biết chân như là không rối loạn nên thuận theo
mà làm định độ, biết chân như là không bất giác nên thuận theo
mà làm trí độ (152) .
Lược Giải.-
Biết và làm ở đây là thuận tánh khởi dụng.
Nói Sự Phát Tâm Bằng Sự
Chứng (Và Hoạt Dụng Của Sự Phát Tâm Ấy)
Chính Văn.-
Phát tâm bằng sự chứng là các vị Bồ tát từ
địa vị tuệ giác trong sáng đến địa vị cùng tận địa vị (153) . Các
vị này chứng đối cảnh gì? Chứng chân như. Nhưng nói đối cảnh
là nói như chuyển thức cho dễ hiểu (154) , chứ sự chứng ở đây
không có cái gọi là đối cảnh. Ở đây là tuệ giác chân như,
gọi là pháp thân (155) .
Các vị Bồ tát này có thể trong một khoảnh khắc mau
như một ý nghĩ thoạt hiện hay thoạt biến, đến các quốc độ, hiến
cúng các đức Phật đà, thỉnh cầu các ngài chuyển đẩy bánh xe
Phật pháp - thỉnh cầu như vậy là để mở mắt dẫn đường cho
chúng sinh, chứ không phải cần đến ngôn ngữ văn tự (156) . Các
vị Bồ tát này có khi vì những kẻ khiếp sợ hèn nhát nên biểu
hiện vượt mọi địa vị mà thành liền một đấng Chánh giác, có khi
vì những kẻ biếng nhác khinh thường nên biểu hiện trải qua vô số
thời kỳ vô số mới thành một bậc Toàn giác. Các vị biểu hiện
vô số phương cách như vậy, ngoài tầm nghĩ bàn. Nhưng thực ra các
vị Bồ tát thì chủng tánh và thiện căn đồng đẳng nên phát tâm
cũng đồng đẳng, chứng ngộ cũng đồng đẳng, không có cái sự
vượt mọi địa vị, chỉ có cái sự vị nào cũng trải qua ba thời
kỳ vô số (157) . Chỉ vì tùy theo thế giới bất đồng của chúng sinh,
tùy theo chúng sinh trong các thế giới ấy quan năng, trình độ, khuynh
hướng và cá tính khác nhau, nên các vị Bồ tát này biểu hiện
việc làm cũng khác nhau.
Lược Giải.-
Coi lược giải của đoạn dưới đoạn này.
Nói Sự Hoàn Tất Của Sự Phát
Tâm Bằng Sự Chứng (Tức Là Sự Phát Huy Tâm Hoàn Toàn)
Chính Văn.-
Sắc thái phát tâm bằng sự chứng của các vị Bồ
tát này có ba thứ rất tinh tế. Một là tâm chân thật, là siêu
việt sự phân biệt. Hai là tâm phương tiện, là nhiệm vận khắp
làm lợi ích cho chúng sinh. Ba là tâm động thức, là còn sự sinh
diệt nhỏ nhiệm.
Các vị Bồ tát này khi công đức viên thành thì,
tại Sắc cứu cánh thiên, biểu hiện cái thân cao cả nhất thế gian
(158) , với tuệ giác thích ứng tối hậu với chân như nên hết
sạch bất giác, thực hiện tuệ giác Biết tất cả, nhiệm vận có
đủ hoạt dụng siêu việt, biểu hiện khắp cả mà lợi ích chúng
sinh.
Hỏi, không gian vô biên nên thế giới vô biên, thế
giới vô biên nên chúng sinh vô biên, chúng sinh vô biên nên tâm
thức vô biên. Đối cảnh như vậy không có giới hạn, khó mà
hiểu biết. Nếu bất giác bị hủy diệt thì không còn tâm thức, làm
sao hiểu biết được mà gọi là tuệ giác Biết tất cả? Đáp, tất
cả đối cảnh vốn là tâm thể phổ biến, siêu việt phân biệt.
Chúng sinh vì nhận thức không chính xác mà hình thành đối cảnh,
nên nhận thức của chúng sinh là phân biệt, cục bộ, với những
khái niệm nổi lên càng không chính xác, không xứng đáng với
thực thể các pháp nên không thể biết rõ tất cả. Phật đà siêu
việt cái nhận thức như vậy, tuệ giác xác thực của các ngài
chính là tâm thể phổ biến, nên chứng ngộ bản tính đồng nhất
của các pháp và soi rõ đặc tính dị biệt của các pháp (159) . Tuệ
giác như vậy có cái hoạt dụng vĩ đại (160) , đó là vô số
phương cách, tùy chúng sinh cần thiết thế nào mới được lý giải
thì chỉ dạy được cả mọi loại pháp nghĩa. Tuệ giác ấy được
gọi là Biết tất cả (161) .
Lại hỏi nữa, Phật đà nếu có hoạt dụng nhiệm vận
(163) , biểu hiện khắp cả mà lợi ích chúng sinh, thì lẽ đáng chúng
sinh thấy được thân hình của ngài, nhìn được biến hóa của
ngài, nghe được lời tiếng của ngài, và ai cũng được lợi ích
cả, tại sao chúng sinh phần nhiều không ai thấy nghe gì hết? Đáp,
pháp thân của Phật đà là bình đẳng, phổ biến, không cần tác ý
(162) , nên nói là nhiệm vận (163) . Nhưng sự biểu hiện của pháp
thân ấy là do tâm thức của chúng sinh. Tâm thức chúng sinh như
gương: gương mà bẩn thì bóng không hiện -- pháp thân Phật đà
không hiện là vì tâm thức chúng sinh còn bẩn.
Lược Giải.-
Chứng phát tâm là xứng tánh diệu dụng.
Nói Tư Cách Người Tu Sự Tin
Chính Văn.-
Nói phần giải thích rồi, bây giờ nói phần cách tu
(164) . Phần này nói sự tin và sự tu cho những người chưa đứng
vào chánh định tụ (165) .
Lược Giải.-
Cách tu để có sự tin hoàn hảo mà được dành 1
phần để nói đến, cho thấy tính cách căn bản và quan trọng của
sự tin và cách tu sự tin ấy.
Nói Tổng Quát Về Sự Tin, Và Sự Tu Của Sự Tin Ấy,
Mà Người Ấy Phải Tu
Chính Văn.-
Những người này phải tin những gì và tu những gì?
Tóm tắt mà nói thì sự tin ấy có bốn và sự tu ấy có năm (để
làm thành sự tin ấy).
Bốn sự tin thì một là tin căn bản, là thích thú
nghĩ nhớ tâm thể chân như. Hai là tin Phật, rằng ngài có công
đức siêu việt (166) , nên mình luôn luôn nghĩ đến sự thân gần,
hiến cúng và tôn kính để phát sinh thiện căn, mong được tuệ
giác hoàn hảo của ngài (167) . Ba là tin Pháp, rằng pháp ấy có
lợi ích vĩ đại, nên mình luôn luôn nghĩ đến sự làm theo các
pháp ba la mật (168) . Bốn là tin Tăng, rằng các vị ấy tu hành chính
xác để tự lợi lợi tha, nên mình luôn luôn thích thú thân gần
Bồ tát tăng (169) để cầu học sự tu hành đúng như sự thật.
Năm sự tu (để làm thành sự tin) thì một là thí
(170) , hai là giới (171) , ba là nhẫn (172) , bốn là tiến (173) , năm
là chỉ và quán (174) .
Lược Giải.-
Về 4 sự tin thì vẫn là 4 bất hoại tín, nhưng thay vì
thứ tư là tín giới thì ở đây thứ nhất tin căn bản chân như.
Về 5 sự tu thì là bước trước của 6 độ.
Nói Về Thí
Chính Văn.-
Tu sự thí như thế nào? Nếu thấy ai đến cầu gì, thì
mình có tiền của gì hãy tùy khả năng mà cung cấp, để tự bỏ
tính tham lẫn cho mình và làm cho người ấy vui vẻ. Nếu thấy ai bị tai
nạn, lo sợ và nguy khốn, thì hãy tùy khả năng của mình mà đem
lại cho họ sự không sợ hãi. Nếu thấy ai đến cầu Phật pháp thì
hãy tùy khả năng của mình mà khéo léo trình bày cho họ. Làm ba
sự cho như vậy (175) mà không ham danh vọng, quyền lợi và tôn kính,
không ham quả báo trong phạm vi thế gian (176) , chỉ nghĩ đến sự tự
lợi lợi tha mà hồi hướng tuệ giác vô thượng.
Lược Giải.-
Thí ở đây cũng đủ cả 3 việc, là tài thí, vô úy
thí và pháp thí. Nhưng trong tài thí chỉ nói ngoại tài (cho cái của
ở ngoài thân thể) mà chưa nói nội tài (cho cái của ở trong thân
thể: cho sức lực, trí tuệ, tính mạng).
Nói Về Giới
Chính Văn.-
Tu sự giới như thế nào? Đừng sát sinh, trộm cướp
và dâm dục, đừng nói hai lưỡi, nói thô ác, nói dối trá và
nói thêu dệt, đừng tham lam (gồm cả ganh ghét, lừa đảo, dối trá,
dua nịnh), giận dữ và tà kiến (177) . Nếu là người xuất gia thì vì
bẻ gãy phiền não, còn phải tránh nơi náo động, ở chỗ thanh
vắng; phải thực tập sự ít ham muốn, sự biết vừa đủ (178) ,
pháp hạnh đầu đà; lỗi nhỏ đi nữa cũng phải sợ hãi, hổ thẹn,
ăn năn, đổi bỏ; phải tôn kính giới pháp của đức Như lai qui
định, phải giữ gìn để tránh sự phỉ báng, ác cảm, nghĩa là
đừng làm cho mọi người phát sinh tội lỗi một cách vô lối.
Lược Giải.-
Giới ở đây cũng đủ cả 3 loại là nhiếp luật
nghi, nhiếp thiện pháp và nhiếp hữu tình. Nhưng người xuất gia thì
căn bản của giới luật chính là thiểu dục và tri túc.
Nói Về Nhẫn
Chính Văn.-
Tu sự nhẫn như thế nào? Phải ẩn nhẫn mọi sự quấy
rối của kẻ khác, lòng không ấp ủ ý niệm trả đũa. Phải chịu
đựng những điều sau đây: được sự vừa ý hay mất sự vừa
ý, công kích trước mặt hay ca tụng trước mặt, tán dương sau lưng
hay chỉ trích sau lưng, khốn khổ lo buồn hay sung sướng vui vẻ (179) .
Lược Giải.-
Chữ nhẫn, ngoài nghĩa ẩn nhẫn, nhẫn chịu, còn có
nghĩa chấp nhận, nhận định, nên nhẫn còn là bước trước hay là 1
tên của trí. Do vậy, nhẫn là nhẫn người, nhẫn cảnh, nhẫn chân
lý, và được mệnh danh khác nhau, nhưng rõ nhất là nại oán hại
nhẫn, an thọ khổ nhẫn và đế sát pháp nhẫn. Chính văn ở đây
chỉ nói 2 sự nhẫn người và nhẫn cảnh.
Nói Về Tiến
Chính Văn.-
Tu sự tiến như thế nào? Đối với thiện pháp (180)
lòng không biếng nhác, không thoái lui, lập chí kiên cường, lánh xa
khiếp nhược. Phải nghĩ nhớ luôn, rằng quá khứ xa xôi đến giờ
ta đã chịu đựng những khổ não to lớn, nơi thân thể cũng như nơi
tâm trí, nhưng không ích lợi gì cả, nên ngày nay ta phải siêng năng
khó nhọc mà tu hành công đức để tự lợi lợi tha, thoát ly khổ
não. Thêm nữa, người nào tu hành sự tin mà vì đời trước
đến giờ có lắm tội nặng, nghiệp dữ, gây ra lắm sự trở ngại
-- sự quấy phá của tà ma quỉ quái (181) , sự ràng buộc của thế
sự đa đoan, sự hành hạ của bịnh tật đau đớn, có lắm sự trở
ngại như vậy, nên người ấy phải dũng mãnh chuyên cần, ngày đêm
sáu buổi (182) đảnh lễ Phật đà, thành tâm sám hối (gồm có mọi
sự khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng vô thượng bồ đề) (183) .
Thường xuyên như vậy, không nghỉ, không bỏ, thì chướng ngại giải
trừ, thiện căn tăng trưởng.
Lược Giải.-
Tu hành là nghịch lưu, bơi ngược dòng đời, nội một
đời này bơi sao cho đến bờ bến bên kia, nên nội chướng ngoại
chướng nhiều lắm, phải sám hối mà nhờ Phật lực.
Nói Lược Về Chỉ Quán
Chính Văn.-
Tu sự chỉ và sự quán như thế nào? Chỉ là đình chỉ
sự phân biệt đối cảnh (184) , thuận với xa ma tha. Quán là quán
sát sự tương quan chuyển biến (185) , thuận với tỳ bát xá na.
Thuận như thế nào? Là hai sự ấy trước hết tu tập riêng ra, kế
đó dần dần thêm lên, sau đó nhiệm vận song tu mà không còn rời
nhau (186) .
Nói Chánh Định Chân Như
Chính Văn.-
Tu sự chỉ thì ở chỗ yên tĩnh, ngồi cho ngay, ý cho
chính, không nghĩ đến hơi thở, không nghĩ đến thân hình, không nghĩ
đến không, không nghĩ đến đất nước lửa gió, không nghĩ đến
thấy nghe hay biết; mọi sự nghĩ, hễ nghĩ gì thì diệt trừ liền cái
nghĩ ấy, lại diệt trừ luôn cái nghĩ diệt trừ -- Vì lẽ các pháp
luôn luôn bất sinh, luôn luôn bất diệt, bản lai không có sự nghĩ.
Cũng đừng tùy tâm mà nghĩ cảnh, sau đó đem tâm trừ tâm; hễ
tâm nó nghĩ thì tức khắc ngưng lại, đứng yên nơi chánh niệm --
Chánh niệm là biết chỉ có tâm chứ không có cảnh, tâm ấy cũng
không, không giây phút nào còn được.
Nếu từ chỗ ngồi đứng dậy, qua lại đi đứng mà
làm việc gì thì lúc nào cũng tùy tiện mà tập như trên. Tập mãi
sẽ thuần thục, tâm được đứng yên. Tâm đứng yên nên dần
dần sắc bén, và thích ứng mà hội nhập chánh định Chân như,
phiền não được dẹp thật sâu, sự tin được thêm càng lớn, mau
chóng đạt đến sự không thoái chuyển. Ngoại trừ những kẻ hoài
nghi, ngộ nhận, không tin, bài xích, tội nặng, nghiệp cản, tự cao,
biếng nhác; những kẻ như vậy không thể hội nhập.
Do chánh định Chân như mà biết các pháp đồng nhất,
thân Phật đà và thân chúng sinh đồng đẳng bất nhị, vì vậy mà
chánh định Chân như cũng có tên là chánh định Nhất hành. Lại vì
chân như là căn bản của chánh định, nên tu tập chánh định Chân
như thì dần dần phát sinh vô số chánh định.
Lược Giải.-
Khởi tín luận đề cao chân như, nên sự chỉ cũng
nói về chánh định Chân như. Chánh định này trước đây đã nói
là tâm ngay thẳng và tin căn bản. Ai nói tu Thiền thì học tập cho
ky?chánh định này.
Nói Ma Sự Của Chánh Định Chân
Như
Chính Văn.-
Có người không có sức mạnh của thiện căn nên bị
sự mê hoặc quấy phá của tà ma, ngoại đạo, quỉ thần. Khi ngồi
thiền như trên, chúng hiện hình thù dễ sợ, hiện nam nữ đẹp đẽ,
nhưng người ngồi thiền ấy nghĩ nhớ rằng cái gì cũng do tâm mình
mà có, thì những sự biến hiện ấy tan biến, không thể nào quấy
phá. Có khi chúng hiện hình dáng chư thiên, hình dáng Bồ tát, hiện
cả hình dáng đức Như lai nữa, tướng quí vẻ đẹp đủ cả; với
những hình dáng ấy, chúng cũng nói minh chú, nói lục độ, nói
bình đẳng, nói không, không sắc tướng và không ưa thích (187) ,
không thân thù, không nhân quả, không một cách triệt để, và đó
là niết bàn chân thật. Chúng cũng làm cho người tu thiền này
biết được đời trước của mình, biết việc quá khứ, biết việc
vị lai, được cái biết biết tâm người khác, được tài hùng
biện vô ngại, làm cho người tu thiền này ham thích danh vọng và
quyền lợi thế gian. Chúng cũng làm cho người tu thiền này hay giận
hay mừng, tính tình bất thường; làm cho nhiều lòng thương xót, ngủ
nhiều, bịnh nhiều; làm cho sinh ra biếng nhác, đột nhiên siêng năng
rồi nghỉ bỏ liền, đâm ra không tin, lắm hoài nghi, lo nghĩ; làm cho
bỏ cái việc siêu việt mà làm những việc tào tạp; làm cho mắc
vào bao sự lôi kéo ràng buộc của thế gian. Chúng cũng làm cho
người tu thiền này được những thiền định tương tự phần nào,
nhưng toàn là thiền định của ngoại đạo, không phải thiền định
chân thật. Có khi chúng làm cho những người ngồi thiền này ở
trong thiền định một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày,
được ăn uống những thứ tự có và thơm ngon, cơ thể và tâm
trí đều vui đẹp, không đói không khát, làm cho những người này
sinh ra đam mê; chúng cũng làm cho những người này ăn uống không
chừng mực, khi nhiều khi ít, nhan sắc biến đổi.
Vì sự thể trên đây, người tu hành phải thường
dùng chánh trí mà quán sát, đừng để tâm thức của mình sa vào
mạng lưới tà ma. Phải siêng mà chánh niệm, đừng ham đừng
vướng mới thoát nổi những chướng ngại trên đây, toàn do
nghiệp cũ mà có.
Lược Giải.-
Đoạn này phải được coi là bản trắc nghiệm của
người tu thiền. Người tu thiền phải tự xét cho ky? coi mình có hay
không có những gì được ghi trên đây.
Nói Sự Khác Nhau Giữa Tà Định
Và Chánh Định
Chính Văn.-
Phải nhận thức rằng mọi thứ thiền định của ngoại
đạo toàn là bắt nguồn từ tâm lý ngã kiến, ngã ái và ngã
mạn, vì còn ham thích danh vọng, quyền lợi và tôn kính của thế gian.
Chân như chánh định không bám sự thấy, không ham sự được; hết
ngồi thiền rồi càng không nhác, không tự đắc, bao nhiêu phiền
não đã có thì dần dần kém và mỏng đi. Người thường mà không
tu tập chánh định Chân như thì không có cái lẽ được nhập vào
dòng giống của đức Như lai. Tu tập thiền định thế gian thì phần
nhiều sinh ra đam mê, vì thiền định ấy bắt nguồn từ ngã kiến, lệ
thuộc ba cõi, đồng loại ngoại đạo (188) . Do vậy, nếu tách rời
sự giữ gìn của các bậc Thiện tri thức thì dễ sinh kiến thức
ngoại đạo (189) .
Lược Giải.-
Tà định với chánh định khác nhau ở chỗ xuất từ
cái ngã hay không, làm bớt cho đến hết nhác, đam mê, tự đắc
và phiền não, hay trái lại. Người tu thiền phải lấy tiêu chuẩn
này mà tự phán quyết cho nghiêm khắc.
Nói Hiệu Quả Của Chánh Định
Chân Như
Chính Văn.-
Thêm nữa, nhất tâm mà tu tập chánh định Chân như
một cách siêng năng tinh chuyên thì hiện tại sẽ được mười sự
lợi ích. Một là được sự giữ gìn (190) của các đức Phật đà
và các vị Bồ tát khắp cả mười phương. Hai là không bị mọi thứ
tà ma ácquỉ làm cho khiếp sợ. Ba là không bị chín mươi lăm loại
ngoại đạo (191) mê hoặc quấy phá. Bốn là xa rời sự phỉ báng
chánh pháp sâu xa, tội nặng nghiệp chướng dần dần kém mỏng. Năm
là loại được những sự hoài nghi, những ý nghĩ xấu. Sáu là
đối với lĩnh vực của đức Như lai lòng tin được lớn thêm
lên. Bảy là xa rời mọi sự lo buồn đau khổ, ở trong lĩnh vực
sống chết mà dũng mãnh chứ không khiếp sợ. Tám là tâm tính
hòa nhã, xả bỏ kiêu ngạo, không bị người khác làm cho bực
tức. Chín là lúc không ngồi thiền (192) mà, ở đâu và bao giờ,
cũng bớt phiền não, cũng không đam mê thế sự. Mười là lúc
ngồi thiền (192) thì không bị mọi thứ âm thanh và ngoại duyên làm
cho kinh động.
Lược Giải.-
Những hiệu quả nào ở ngoài hay trái với những
hiệu quả này, nhất là trái với những hiệu quả 4, 5 và 9, thì
người tu thiền phải biết đó là tà ma.
---o0o---
| Mục lục | Phần 01
| Phần 02 | Phần
03 | Phần 04 | Phần 05 |
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn ĐĐ Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử
này
Cập nhật ngày: 01-05-2001