Ghi Sau Khi Duyệt
Khởi Tín
Trước hết xin nói Khởi tín có 1
chữ rất quan trọng, tôi đã cố gắng dịch mà vẫn thấy không ổn.
Đó là chữ vọng niệm hay niệm. Chữ này nguyên tôi đã đổi ra
khái niệm, nhưng rồi sợ bị hiểu lầm, tôi phải đổi lại dùng
chữ của ngài Huyền tráng. Vọng niệm cũng gọi là vọng tưởng,
và ngài Huyền tráng đã diểch là phân biệt. Phân biệt thì Du dà
nói, mà Vạn 34/331b trích dẫn, có 8 thứ và sinh 3 sự. Theo đó có
thể nói phân biệt bao gồm tất cả quan niệm, khái niệm, ý niệm.
Ngài Huyền tráng nói phân biệt còn là vô ký dị thục tuệ (cái
biết bẩm sinh hay bản năng) và chính là tầm tư (tư duy, tư tưởng).
Dầu dùng chữ phân biệt thay cho chữ vọng niệm, nhưng tôi đã ghi
chú nên hiểu là khái niệm. Ghi chú như vậy, vì đại sư Thái hư
và học giả Lương Khải Siêu nói pháp là khái niệm. Chữ khái
niệm này dùng để dịch chữ vọng niệm thì xác hơn, nhưng như đã
nói, tôi e ngại hiểu lầm nên đã dùng chữ phân biệt của ngài
Huyền tráng.
Nay xin ghi phần chính
Khởi tín cốt nói về Chân như. Nói
thật khéo, không kinh sách nào bằng. Nhưng muốn hiểu Chân như thì
trước hết hãy nói về Tâm.
Phật học đại từ điển của Đinh
Phúc Bảo, trang 699-701, tổng quát mọi học lý về Tâm nói có 6
thứ. Nay tôi đổi vị trí 6 thứ ấy mà tóm tắt ý chính như sau.
Thứ 1, nhục đoàn tâm, là quả tim khối thịt. Thứ 6, tinh yếu tâm,
là tinh hoa cốt lõi. Thứ 5, kiên thật tâm, là chân như các pháp.
Thứ 2, tập khởi tâm, là thức thứ 8. Thứ 3, tư lượng tâm, là
thức thứ 7. Thứ 4, duyên lự tâm, là thức thứ 6. Thứ 1, thứ 6
và thứ 5, Phạn tự là hrdaya. Thứ 2, thứ 3 và thứ 4, Phạn tự
thứ tự là citta, mana và vijnapti.
Thông thường nói Tâm chỉ nói qua
duyên lự tâm (tư duy, tư tưởng). Sâu hơn chút nữa cũng chỉ nói
thấu tư lượng tâm (tự ý thức tự ngã). Nhưng trong Phật học,
kiên thật tâm mới quan trọng. Nó là chân như (tự tánh thanh tịnh
tâm), bản thể của tất cả thứ tâm kia (của tất cả các pháp).
Chính vì vậy mà Mật tổng quán ngay quả tim là hoa sen, Thiền tông
thấy đương xứ tiện thị, gì cũng Tâm cả.
Chân như này là cái Khởi tín nói
đến. Khởi tín cho ta thấy bản thể của ta là Chân như. Chân như ấy
cực kỳ siêu việt mà lại cực kỳ linh hoạt. Chúng ta có thể nói
con người chúng sinh phong phú bao nhiêu thì cũng tạm đủ để biết
con người chứng ngộ phong phú bấy nhiêu. Khối nước là khối băng
chứ không chi khác.
Trong nguyên lý tu tập, sự huân tập
rất quan trọng. Duy thức học không cho Chân như là sở huân. Khởi
tín trái lại, nói Chân như là căn bản của sự huân tập. Luận
này đem lại 2 đức tin căn bản sau đây. Một, tự tín bản thể là
Chân như. Chân như có thể năng huân, có thể sở huân. Do vậy mà
chán ưa của ý thức rồi ra sẽ biết chán sinh tử ưa giải thoát,
mà ý chí của ý rồi ra sẽ là tinh tiến dũng mãnh ... Hai, tin biểu
hiệu Chân như là Phật, ở đâu và lúc nào cũng có bên ta, thậm
chí có khi làm tôi tớ, làm kẻ thù để ích lợi cho ta. Khởi tín
nói rằng, trong Chân như (nơi ta và nơi Phật) ta được sống dẫu như
một kẻ đui mù mà vẫn hưởng được ánh nắng mặt trời. Khởi
tín khuyến cáo ta tu ngay vào Chân như : tu định Chân như, suy nghiệm
Chân như là siêu việt và hoạt dụng. Lại nói nếu niệm Phật Di
đà mà suy ngẫm Chân như của Ngài thì là định Chân như đó.
Khởi tín đưa ta lên tột đỉnh của
sự tự tín, xác quyết rằng chúa tể của ta chính là ta đây.
- Hai mươi lăm tháng 4, 2537.
- Trí Quang
Bảng Viết Tắt
Chính: Đại tạng kinh, bản Đại chính
tân tu.
Vạn: Tục tạng kinh, bản chữ Vạn.
Lương dịch: Khởi tín luận, của ngài
Chân đế dịch vào đời Lương (Chính 32/575-583).
Đường dịch: Khởi tín luận, của
ngài Thật xoa nan đà dịch vào đời Đường (Chính 32/583-591).
Chính văn: Chính văn của Lương dịch.
Vài điều cần ghi
(1) Khởi tín luận tôi đã dịch giải
và in năm 2493 (1949). Bản này tuy còn tạm dùng được, nhưng việc
làm gần 40 năm rồi thì không thể không làm lại.
Chính văn dịch giải lần này vẫn là
Lương dịch. Tài liệu đối chiếu là Đường dịch. Tài liệu tham khảo
thì có những bản chú thích đáng trọng, kể cả 1 bản chú thích
Đường dịch, bản dịch giải của trưởng giả Tâm minh (1) và bản
dịch giải cũ của tôi.
Tuy đối chiếu và tham khảo, nhưng
tôi phải quán xuyến chính văn mà tự quyết trạch nhiều hơn.
(2) Khởi tín luận có giá trị đến
nỗi Tùng bản, học giả Nhật, nói Schopenhauer cho Áo nghĩa thư là sản
phẩm của trí tuệ tối cao, nhưng đem Khởi tín luận so sánh với Áo
nghĩa thư thì luận ấy hơn chứ không kém (Lương Khải Siêu dẫn,
Phật học nghiên cứu, phụ lục 1). Lương Khải Siêu đã cảm kích
đến rơi nước mắt khi thấy một số học giả Nhật cho Khởi tín
luận là của Tàu (coi xuất xứ mới dẫn).
Giá trị của Khởi tín luận cũng
đã khiến cho ngoại đạo Thiên chúa giáo dám mạo nhận là sách
nói về Thượng đế, và dịch ra Anh văn một cách lếu láo theo sự
mạo nhận ấy (2) .
(3) Hiện không có tài liệu nào để
thấy luận cứ của một số học giả Nhật là gì khi nói Khởi tín
luận không phải của Ấn mà là của Tàu. Thì giờ của tôi cũng
không đủ để làm gì cho vấn đề. Ở đây chỉ ghi tạm, theo văn
bản thấy được, về luận này.
Trước hết, có 1 sự kiện rất quan
trọng, đó là luận Chỉ quán đối với luận Khởi tín. Tác giả
luận Chỉ quán là tôn giả Tuệ tư, có niên đại 515-577; luận Khởi
tín có niên đại 553. Luận Chỉ quán rất tôn sùng và dẫn dụng
Khởi tín, sau đó là Nhiếp luận (563). Vậy luận Chỉ quán được
viết không hơn 14 năm sau 2 luận văn này. Điều đó chứng tỏ Khởi
tín đã có, và có thật, vào trung diệp thế kỷ 6. Những kẻ biện
ngụy vể Khởi tín, trong đó có Lương Khải Siêu, rất có thể đã
không đọc đến luận Chỉ quán. Riêng Lương Khải Siêu đã có cái
lỗi to lớn tương tự, khi biện ngụy về kinh Tứ thập nhị chương mà
không thấy đọc đến bản văn kinh này của chính Đại tạng.
Luận này, lời tựa Lương dịch nói
tác giả là Mã minh đại sĩ, ngài Chân đế dịch năm 553 (Chính
32/575). Nhưng Chính 49/99 nói năm 550(?) ngài Chân đế dịch luận này,
cùng năm sớ giải thành 2 cuốn. Lời tựa Đường dịch cũng nói
tác giả là Mã minh đại sĩ, ngài Thật xoa nan đà dịch lại năm 699
(Chính 32/583) (3) .
Cần ghi thêm rằng đại sư Tuệ khải,
người cọng tác và viết tựa Lương dịch, đã chú thích một cách
đơn giản, văn bản còn trong Vạn 71/263-264. Sau đó không mấy năm,
đại sư Tuệ viễn (522-592) chú thích khá phong phú, văn bản còn trong
Vạn 71/281-309. Rồi đại sư Pháp tạng (?-712) tổ thứ ba Hoa nghiêm
tông, người cọng tác Đường dịch, cũng chú thích Lương dịch, văn
bản còn trong Vạn 71/381-435. Hãy xét những ghi tạm trên đây, khi
khảo sát gốc tích Khởi tín luận.
Ngoài ra, không thể không sơ lược
nói đến Thích ma ha diễn luận (Chính 32/592-668). Lời tựa ghi luận ấy
dịch năm 401 (Chính 32/592). Tác giả luận ấy được ghi là Long thọ
đại sĩ. Chính văn mà luận ấy giải thích, dò ky? là Lương dịch.
Rồi đọc văn nghĩa thì thấy khá đặc biệt, nên, nói một cách
thận trọng, phải có thì giờ mới cứu xét được luận ấy.
(4) Dưới đây là những lược ghi
về Mã minh đại sĩ, theo các tài liệu có được (4) .
- Mã minh đại sĩ là vị thứ 11 trong
23 (hay 25) vị thuộc hệ thống phú pháp của Phú pháp nhân duyên
(Chính 50/314), kế thừa Phú na xa tôn giả --vị này kế thừa Hiếp
tôn giả (5) . Nhưng Chính 50/183 nói Mã minh đại sĩ là đẹẤ tử
Hiếp tôn giả.
- Mã minh đại sĩ người Trung Thiên
trúc. Một trong những nơi đại sĩ hoằng pháp là Hoa thị, cố thành
của nước Ma kiệt đà.
- Thời đại của Mã minh đại sĩ là
bách kỷ 6 (hay cuối bách kỷ 5 hoặc đầu bách kỷ 7) sau Phật nhập
diệt, đồng thời với hoàng đế Ca nị sắc ca.
- Cái tên Mã minh (Asvaghosa hay
Ashvagosha) là do loài ngựa cũng cảm được thanh nhạc của đại sĩ
mà kêu lên.
- Mã minh đại sĩ không những là
nhà học giả, nhà hùng biện, nhà trước thuật, mà đặc biệt còn
là một triết gia, một thi hào, một nhạc sĩ. Giỏi nhất là điệu
nhạc lại tra hòa la (rastrapala). Thi và nhạc được đại sĩ kết hợp
và vận dụng thần tình vào sự thuyết pháp, nên nghe đến, ngựa
đói cũng bỏ ăn.
- Không thể đồng ý với sự tương
truyền rằng Mã minh đại sĩ là vị khởi xướng đại thừa, nhưng
đại sĩ là vị hệ thống hóa học lý đại thừa.
- Chỉ một số trước thuật của đại
sĩ được dịch ra Hoa văn mà cũng đã chứng tỏ điều trên. Một
số ấy, kê theo số hiệu của Chính như sau: 192 là Phật sở hành
tán, 201 là Đại trang nghiêm kinh luận, 1643 là Ni kiền tử vấn vô
ngã nghĩa, 1666 là Đại thừa khởi tín luận, 1669 là Đại tông địa
huyền văn bản luận, 1687 là Sự sư ngũ thập tụng. Ngoại trừ 1666
là luận này, nôểi dung viết theo thể tản văn; lại trừ số 1669
nên nói thận trọng rằng phải cứu xét ky? những tác phẩm khác
đa số tràn đầy thi nhạc. Đặc biệt số 192 là thiên trường ca về
cuộc đời của đức Bổn sư.
(5) Chính 50/163 ghi câu chuyện Mã minh
đại sĩ khuất phục Hiếp tôn giả thật không bằng Chính 50/314 ghi câu
chuyện đại sĩ khuất phục Phú na xa tôn giả. Xuất xứ này nói
đại sĩ vốn chấp thật ngã. Khi biện luận với Phú na xa tôn giả,
tôn giả nói Phật pháp có chân lý phổ thông (thế tục đế) thì
nói giả là ngã, lại có chân lý tuyệt đối (thắng nghĩa đế) thì
nói chắc là không. Tôn giả bảo đại sĩ hãy suy nghĩ cho ky?rồi
phản biện, đừng nói lỡ lời. Chúng ta phải ngã ngũ ai thắng.
Đại sĩ nghĩ: chân lý phổ thông nói giả thì không thật, chân lý
tuyệt đối nói chắc thì không cả, vậy là mặt nào cũng không có
gì để nắm được, ta nắm cái gì mà đánh đổ? Đại sĩ đành
khuất phục và xuất gia theo Phật pháp.
Từ một người chủ trương thật
ngã, Mã minh đại sĩ trở thành một người thấu suốt vô ngã, nên
trong tác phẩm của đại sĩ, số 1643 chuyên nói vô ngã qua thật
tướng siêu việt có, không (Chính 32/172-173).
Trong số 192, qua phẩm 12, đại sĩ bài
xích nhiều hơn về thượng đế, về ngã (Chính 4/34-35). Còn trong Khởi
tín luận thì Đường dịch nói rõ "cập bỉ thể tướng hải : vô
ngã cú nghĩa pháp" (Chính 32/384). Câu ấy có nghĩa Tâm thì vô
ngã. Rồi đến đ2 của c3, đại sĩ bài xích tất cả khái niệm sâu
nhất về ngã. Do vậy, về sau, khi đại sĩ phú pháp cho Tỳ la trưởng
lão, vị này viết Vô ngã luận có đến cả trăm bài tụng, và phú
pháp cho Long thọ đại sĩ (Chính 50/317).
Nhưng không phải Mã minh đại sĩ chỉ
truyền đạt về Không. Tư tưởng của đại sĩ là có cái Không
chính xác và có cái Có chính xác. Khởi tín luận ghi rõ như vậy.
(6) Nên nói sơ lược về nội dung
Khởi tín luận. Luận này cốt hệ thống hóa học lý đại thừa,
nói thẳng đại thừa là Tâm chúng sinh. Đại thừa khởi tín không
có nghĩa nhiều rằng phát khởi đức tin đối với đại thừa, mà
nghĩa chính là phát khởi đức tin đại thừa: đức tin tin cái Tâm
đại thừa.
Tâm đại thừa được ví dụ như
nước. Nước gồm có nước, có tính ướt của nước, có sóng
của nước. Thể của tâm như tính ướt, tướng của Tâm như nước,
dụng của tâm như sóng. Tự tín về Tâm ấy là như Lăng nghiêm đã
nói: Ai cũng tự biết Tâm khắp mười phương. Thấy không gian mười
phương chỉ như chiếc lá trong lòng bàn tay. Vũ trụ vạn hữu đều
là Tâm. Tâm bao hàm tất cả. Nhìn lại cái thân do cha mẹ sinh ra thì
thấy chỉ như hạt bụi trong không gian. Thân ấy còn hay mất chỉ như
cái bọt nổi lên hay tan mất trong biển cả (Chính 19/119). Tâm là như
vậy nên thân tâm, và vũ trụ của thân tâm, chỉ toàn là biểu
hiện của Tâm. Tâm ấy Khởi tín luận hay gọi là nhất tâm : cái
Tâm đồng nhất --giữa các pháp với các pháp, giữa chúng sinh
với chúng sinh, giữa chúng sinh với Phật đà.
Tâm ấy thì thượng đế hay phiếm
thần, bản ngã với tự ngã, tất cả đều không đáng gì để nói
với Nó. Do vậy, với ngã, Phật giáo có túng có đoạt. Đoạt thì
phủ nhận triệt để, túng thì như Đại niết bàn nói, ngoại đạo
nói ngã thì chỉ như sâu ăn lá ngẫu nhiên thành chữ mà thôi
(Chính 12/378).
Đức tin đại thừa là tin vào thể
tướng dụng của Tâm. Tâm ấy vĩ đại, Tâm ấy đưa những bâểc
vĩ đại đạt đến vị trí vĩ đại. Đó là sự tự tín không phải
như đức tin của tôn giáo thượng đế hay ý thức về ngã. Tin
Phật, đấng thực chứng về Tâm, khai thị Tâm ấy, và hộ trì để
cho người khác cũng tin tưởng và thực chứng được Tâm ấy, tin
Phật như vậy, và đức Phật được tin như vậy, cũng là biểu hiện
của đức tin đại thừa mà không có gì so sánh được.
(7) Các đoạn 5 và 6 trên đây đã
cho thấy Khởi tín luận nói gì. Luận ấy không những đặc biệt
đối với nguyên thỉ và bộ phái, mà đối với chính đại thừa,
luận ấy cũng vẫn đặc biệt khi nói thẳng rằng đại thừa là Tâm
chúng ta đây. Tâm ấy là gì thì đã thấy trong 2 đoạn trên. Ở
đây, dưới cách nói cần thiết khác, cũng nói về Tâm ấy.
Tôi vừa nói đến nguyên thỉ, bộ
phái và đại thừa. Nhưng không phải tôi công nhận lối phân chia
này. Tôi chỉ nói đến để xét 3 loại này đã nói về Tâm như
thế nào.
Trong 2 loại đầu, khi nói về Tâm thì
pháp số căn bản là 5 uẩn. Pháp số này cho thấy đó là triết
thuyết nhị nguyên (6) . Tâm trong triết thuyết này chỉ là 6 thức.
Rồi, với duyên sinh quan cái này có thì cái kia có, 6 thức và 6
cảnh tương quan với nhau, và được gọi là 6 nhập (do vậy, nói
không khéo thì duyên sinh quan là duy vật luận). Nên ngay 6 thức cũng
không thuyết minh gì sâu và rộng như Duy thức học nói đến tánh
cảnh, hiện lượng, thành sở tác trí và diệu quan sát trí, càng
không có gì sâu và rộng như Khởi tín luận nói về thỉ giác. Và
trong 1 pháp số căn bản hơn nữa là 4 đế thì vấn đề khởi nguyên
và chung cục (niết bàn) cách nói cao nhất cũng chỉ nói là những
vấn đề bất ký (hay trí đáp: vấn đề không cấp bách, không đặt
ra, không giải đáp, hay giải đáp bằng sự không giải đáp, không
đặt ra). Tâm, tức 6 thức, kết cục là như thế. Và như thế thì
gọi là giản dị cũng phải, dầu cố nói phiền toái như Đại tỳ bà
sa hay Câu xá luận thì thực chất cũng vẫn rất đơn sơ.
Đại thừa cho thấy, ngay trong duyên
sinh quan, Tâm là chủ đạo, và Tâm không thể chỉ là 6 thức, mà 6
thức và 6 cảnh của 6 thức toàn là hiện hành của a lại da. Tâm
như thế này sung mãn mọi khả năng mà giặc hay con đều là Nó:
chúng sinh hay Phật đà chỉ là nghịch dụng hay thuận dụng của Tâm.
Ấy thế cho nên chúng sinh phong phú bao nhiêu thì Phật đà càng phong
phú hơn bấy nhiêu, niết bàn là sự lật ngửa của cái bàn tay
hết lật úp, chứ không có nghĩa không có gì và không thể nói
gì. Tâm như vậy là đại thừa, giáo lý diễn tả Tâm như vậy là
giáo lý đại thừa, và Phật giáo, nhất là Phật giáo của chính
Phật nói, không thể không có cái đại thừa ấy mà được gọi
là Phật giáo.
Tâm ấy mới đúng là duy tâm (7)
của Phật giáo đại thừa, và chữ Tâm ấy đừng đem chữ tâm hay
bất cứ chữ gì khác, của bất cứ ai mà nói về Nó.
(8) Sau hết, nên nói sơ lược về
đại thừa, về vị trí của Mã minh đại sĩ và Khởi tín luận, trong
đại thừa ấy (8) .
Đại thừa có 4 giai đoạn, tóm tắt
như sau.
Giai đoạn đầu tiên là những tháng
đầu của bách kỷ 1 sau Phật nhập diệt, khi Ca diếp tôn giả chỉ
triệu tập một số La hán tương đối thuần nhất (gọi là Thượng
tọa bộ), tôn giả chủ trì, số La hán ấy làm chứng, A nan tôn giả
tụng lại pháp thoại của Phật, phân thành cái gọi là 3 tạng (mà
thật ra chỉ là các bộ A hàm và bộ Luật). Việc làm có chọn lấy
và lựa bỏ một số lớn pháp thoại của Phật (9) . Một số lớn
pháp thoại của Phật bị lựa bỏ thì trong đó có Đại sĩ tạng (10) .
Chính cách triệu tập và làm việc như vậy làm cho một số đông
hơn, gồm có các vị La hán và chưa là La hán (gọi là Đại chúng
bộ), phải tập họp một chỗ khác, được chủ trì bởi Ba sư ba tôn
giả (Vaspa, 1 trong 5 vị tỷ kheo đầu tiên), tụng lại và lấy hết tất
cả pháp thoại của Phật, trong đó có Đại sĩ tạng (11) .
Nhưng sự tụng lại của cả 2 bộ
đều chưa chép ra văn bản. Sau đó cũng chỉ khẩu truyền cho học
thuộc lòng. Do vậy mà không tránh khỏi sai chậy, thêm thắt, nhất
là quên mất (12) , đã không phải không thành vấn đề.
Giai đoạn kế tiếp, đầu bách kỷ 2
hay cuối bách kỷ 1 sau Phật nhập diệt, ngài Đại thiên (13) xuất
hiện, đưa ra 5 sự (14) mà rõ ràng là nói sự bất toàn của quả
vị La hán, lại xếp Đại sĩ tạng vào 3 tạng. Rồi 3 tạng (dĩ nhiên
là của mỗi bộ thuộc lòng) được 2 bộ căn bản, và các bộ tùy
thuộc sau đó, chép ra văn bản. Tây tạng truyền thuyết Đại chúng
bộ phát triển ở địa phương Maharastra, ngữ văn thánh điển là
Maharastra; Thượng tọa bộ lấy Ujayana làm trung tâm, ngữ văn thánh
điển là Paisaci; Chánh lượng bộ phát triển ở một dãy Surasena,
ngữ văn thánh điển là Apabhramsa; Thuyết hữu bộ thịnh lên ở
Kasmira và Gandhara, ngữ văn thánh điển là Samkrta. Nay biết ngữ văn
Paisaci chính là ngữ văn Paly (15) ; thời A dục vương, ngữ văn này
là của Phật giáo dãy Ujayana (16) .
Giai đoạn thứ ba là bách kỷ 6 (hay
cuối bách kỷ 5 hoặc đầu bách kỷ 7) sau Phật nhập diệt, Mã minh
đại sĩ xuất hiện, hệ thống hóa học lý đại thừa (17) , biệt lập
hẳn với các bộ, kể cả Đại chúng bộ, và gọi các bộ là tiểu
thừa. Ngài Huyền tráng ghi, bấy giờ đông có Mã minh, (và sau đó)
nam có Đề bà, tây có Long mãnh, bắc có Đồng thọ (không phải
ngài La thập), được gọi là 4 Vầng mặt trời. Sau đó nữa thì có
anh em các ngài Vô trước và Thế thân. Do vậy, học lý đại thừa
cực thịnh.
Giai đoạn thứ tư, khi Mật tông thịnh
hành thì đại thừa bị tào tạp. Nhưng đem vào Tây tạng, giữ cho
kinh sách đại thừa còn mà nhiều và xác hơn cả Hoa văn, là do
công đức của các ngài Mật tông.
Trong quá trình trên đây của đại
thừa, có thể nói Khởi tín luận là mở đầu mà cũng là tổng
kết, về giai đoạn thứ ba. Mọi tư tưởng Lăng già, Bát nhã, Niết
bàn, Hoa nghiêm, Pháp hoa, Thiền, Tịnh, và cả Pháp tướng duy thức
sau đó nữa, Khởi tín luận có đủ tất cả --có trong một sự đan
kết với nhau, xứng đáng và thừa sức để gọi đó là một tư
tưởng hệ.
---o0o---
| Mục lục | Phần 01
| Phần 02 | Phần
03 | Phần 04 | Phần 05 |
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn ĐĐ Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử
này
Cập nhật ngày: 01-05-2001