[03]
CÁC
TÁC PHẨM A TỲ ÐÀM QUAN TRỌNG KHÁC CỦA HỮU BỘ
Bảy tập A
Tỳ Ðàm của Hữu Bộ không phải là đại diện cho một thời kỳ triết học Phật
Giáo nào cả, mà bản thân chúng xem ra cũng không ghi nhận nhau như những
bổ sung qua lại. Các tập luận này tiếp nối nhau ra đời qua suốt mấy thế
kỷ trước khi được xếp chung vào một dòng luận thư chung nhất. Kể ra
chúng ta cũng có phần táo bạo khi chỉ dựa vào nguồn tài liệu hiện có rồi
xác định niên đại của 7 luận thư A Tỳ Ðàm Hữu Bộ. Bởi ngay cả việc sắp
xếp thứ tự trước sau cho từng luận cũng là một chuyện khó. Chỉ có một
điều chắc chắn là ở các nguồn tài liệu Hán văn, Tạng văn và cả Sanskrit,
trật tự của bảy tập A Tỳ Ðàm không dựa trên cơ sở niên đại. Theo tôi
(Takakushu), 3 tập Tập Dị Môn, Pháp Uẩn và Phát Trí Luận có lẽ ra đời
trước 4 tập luận còn lại. Các luận thư của Vasumitra ra đời muộn nhất
nhưng Vasumitra này không phải là Vasumitra đã chủ trì 500 tác giả biên
soạn Tỳ Bà Sa-Tibeto-Chinese Catalogue nói rằng Tỳ Bà Sa được biên soạn
sau Phật lịch khoảng 400 năm và cho rằng tác giả của Dhatukaya với
Prakaranapada thì sống trước đó một trăm năm (tức 300 năm sau Phật
lịch).
Ngôi thứ
của 7 tập A Tỳ Ðàm (1 Thân Luận và 6 Túc Luận) có lẽ được phân định sớm
nhất là từ sau lúc Tỳ Bà Sa được hoàn tất. Chúng ta nói vậy cũng chỉ vì
dựa vào câu nói của Dhammapiya (379 Tây Lịch) đã than mình không có cơ
hội đọc tụng chỉ hai trong 6 Túc Luận (xem ở chú thích của phần nội dung
Phát Trí Luận).
Có thể nói
gần như toàn bộ cái đặc sắc của bảy tập A Tỳ Ðàm Hữu Bộ, những điểm kỳ
thú về Siêu hình học và hầu hết những vấn đề phong phú của Phật Giáo đều
được thu gọn trong đại sớ Tỳ Bà Sa Kế Tân (Kashmiramahavibhasa). Chuyện
được bắt đầu từ đời vua Kaniska (125 Tây Lịch). Nguyên lai, các nhà Hữu
Bộ tự hình thành hai nhóm là phái Kế-Tân (Kashmir) và phái Kiền Ðà La
(Gandhara), trong Tỳ Bà Sa vẫn dùng 2 tên gọi này. Nhưng sau khi Tỳ Bà
Sa được biên soạn xong, không rõ là 2 phái đã thống nhất lại chưa, mà từ
đó người ta cứ gọi chung một tên "phái Tỳ Sà Kế Tân" hoặc "Tỳ Bà Sư -
Vaibhasika" để chỉ cho cả 2 phái. Học thuyết nguyên thủy của Hữu Bộ là
nhìn nhận Mọi Thứ đều Có Thật - Nhất Thiết Thực Hữu (Sarvastivada) hay
quan điểm "Vạn Hữu Tồn Tại Từ Trực Nghiệm - Quan niệm trực tiếp vào
ngoại vật để từ đó cái gì cũng có thật. Chữ Sanskrit gọi quan điểm này
là Vahyarthapratyaksatvavada) -- Trực Quan Cảm Hữu.
Học thuyết
Tỳ Bà Sa đã hưng thịnh ít nhất 3 thế kỷ tại Kashmir và được bảo trì
nghiêm cẩn qua các thế hệ kế thừa của Hữu Bộ như một hệ thống bí truyền.
Chân Ðế kể lại rằng về sau có một nhân vật tên Vasubhadra sau khi nghiên
cứu kỹ lưỡng Tỳ Bà Sa ở Kashmir đã giả điên rồi trốn đến Trung Ấn để
truyền bá ở đó.
Thế rồi
hậu bán thế kỷ thứ năm Tây Lịch đã giới thiệu với chúng ta một giai đoạn
hết sức đặc biệt. Ðó là thời điểm ra đời của một tân phái Tỳ Bà Sa, của
hệ thống triết học Du-Già-Sư (Yogacarya) và của Số Luận, một hình thức
phục hưng của Bà La Môn giáo. Vasubandhu vốn người Hữu Bộ nhưng lại là
một nhân vật có suy tư độc lập và đã cố gắng luận giải một dòng triết
thuyết riêng tư. Vasubandhu không tuân phục Tỳ Bà Sa Luận và lại còn tận
dụng triệt để tinh hoa của các bộ phái khác, chẳng hạn Kinh Lượng Bộ
(Sautrantika), một trường phái đối lập Tỳ Bà Sa với chủ trương rằng
ngoại cảnh chỉ đơn giản là những phóng ảnh của ý thức và chúng chỉ được
tri nhận một cách gián tiếp qua một hay nhiều trung gian.
Một nhân
vật cự phách của Hữu Bộ là ngài Sanghabhadra đã biên soạn 2 tác phẩm như
một cách lên tiếng. Cuốn trước biện giải Tỳ Bà Sa và cuốn sau phê bình
các bộ phái đối lập mà chủ yếu là nhằm đả phá Vasubandhu, một người
trước sau không chính thức ly khai Hữu Bộ và tác phẩm Câu Xá Luận của
ngài vẫn được xem là một luận thư của Hữu Bộ.
Tương
truyền rằng Sanghabhadra đã chết trước Vasubandhu và thời kỳ tồn tại của
tân phái Tỳ Bà Sa cũng chấm dứt khi Vasubandhu bỏ Hữu Bộ để đi theo Ðại
Thừa.
Yasomitra,
tác giả của Abhidharmakosavakhya được coi là người của bộ phái Kinh
Lượng (Sautrantika). Nghĩa Tịnh, vốn đã tu theo Hữu Bộ, đã thỉnh về
Trung Hoa mười chín bộ Luật mà có vẻ như chẳng màng gì tới một tác phẩm
tư tưởng nào của Hữu Bộ dù trường phái này vẫn được trân trọng ở Nalanda
và nhiều nơi khác.
Mãi đến
thế kỷ 14, truyền thống Vaibhasika vẫn còn được duy trì như Madhvacarya
đã nhắc đến trong tác phẩm Sarvadarsanasangaha: Te ca bauddhas
caturvidhaya bhavanaya paramapurusartham kathayanti te ca
madhyanikayogacarya sautrantikavaibha-sikasajnabhi prasiddha bauddha
yathakramam sarvasunyatva-vahyasunyatvavahyarthammeyatva
vahyarthapratyaksatvavadan atisthanti (Phật gia đã nhìn vào bản chất
hữu tình từ 4 lập trường Nhất Thiết giai không của phái Trung Quán,
Ngoại cảnh giai ảo của phái Du Già Sư, Ngoại Cảnh Do Lượng của phái Kinh
Lượng và Trực Quan Nhi Hữu của Tỳ Bà Sa phái).
Trong 4
trường phái Phật giáo trên đây, phái Trung Quán, theo Sankacarya, chính
là Nhất Thiết Không Bộ (Sarvasunyatvavadin), phái Du Già Sư (Yogacarya)
chính là Duy Thức Bộ (Vijnanastitvamatravadin hay
Vijnanamatrastitvavadin) và Tỳ Bà Sa phái (Vaibhasika) chính là Hữu Bộ.
Phái Kinh Lượng không thừa nhận lý thuyết Trực quan đối với Ngoại vật để
từ đó chúng được coi là tồn tại. Kinh Lượng Bộ chỉ xem ngoại cảnh là
những phóng ảnh của ý thức và chúng được tri nhận một cách gián tiếp.
Như vậy rõ ràng Kinh Lượng Bộ đã đứng ngay giữa Tỳ Bà Sư với Du Già Sư.
Tỳ Bà Sư chủ trương Trực Quan Nhi Hữu còn Du Già Sư lại cho rằng Ngoại
cảnh giai không.
Nghĩa gốc
của Tỳ Bà Sa (Vibhasa) là "sự chọn lựa". Bộ luận thư có nhan đề như vậy
là nhằm vạch rõ rằng nội dung Tỳ Bà Sa là những điểm tinh hoa của các bộ
phái đã được 500 tác giả tổng hợp, đối chiếu rồi thu nhiếp lại như một
hệ thống giáo lý căn bản của bộ phái. Hán văn dịch chữ Tỳ Bà Sa là Quảng
Giải, Chủng Chủng Thuyết. Nội dung của Vaibhasika sau này chỉ nói lên
được quan điểm các luận sư hậu thời và nó cũng là giai đoạn cuối cùng
của truyền thống luận giải A Tỳ Ðàm cổ điển. Chống lại Vaibhasika quyết
liệt nhất có lẽ là Kinh Lượng bộ, trường phái chủ trương phủ nhận 7 tập
A Tỳ Ðàm không phải Phật Ngôn thật sự và đặc biệt đề cao tính nguyên
thủy của Kinh Tạng. Từ đó quan điểm tư tưởng của Kinh Lượng Bộ có chút
gì đó là những đối chiếu với Vaibhasika.
Và hình
như chính điều này đã cuốn hút Vasubandhu, một người tình cờ có cảm tình
và hứng thú với Kinh Lượng Bộ. Việc Vasubandhu trở thành nhà Duy Thức
không có gì kỳ lạ cả bởi suy cho cùng thì chính giáo lý Kinh Lượng Bộ đã
dẫn ông tới đó và như vậy ông đã không hề chịu ảnh hưởng sư huynh của
mình là ngài Vô Trước mà cải tín. Tất cả là do ông tự mình chọn lấy
hướng đi. Ông đã một mình dung nạp ba dòng triết học Phật Giáo (Hữu Bộ,
Kinh Lượng và Duy Thức) nên thật hợp lý khi ông được Phật Giáo Nhật Bản
suy tôn là tổ sư của mọi trường phái Phật Giáo. Trên thực tế, 2 tác phẩm
Câu Xá và Duy Thức của Vasubandhu cũng luôn được các giới học Phật
chuyên tâm nghiên cứu và có đến 2 trường phái Phật Giáo đã hình thành
trên cơ sở 2 tác phẩm đó, là Câu Xá Tông và Duy Thức Tông. Thậm chí 2
tác phẩm chú giải Câu Xá do hai đệ tử lớn của ngài Huyền Tráng viết cũng
được trân trọng ở Nhật Bản. Tất cả đều là những tài liệu quan trọng để
nghiên cứu về Vaibhasika. Sau đây là biểu đồ về những điểm cốt yếu đã
nói ở trên:
TỲ BÀ SA và ÐẠI TỲ BÀ SA
(Chú thích Phát Trí Luận của Ca Chiên Diên Tử)
Vấn đề niên đại của Tỳ Bà Sa tuy
có thú vị nhưng tôi đành phải cẩn trọng gát qua trong bài biên khảo này
vì càng tra cứu thì tôi càng đối đầu với quá nhiều thách đố hóc búa.
Trước hết, có lẽ chúng ta phải phủ nhận giả thuyết cho rằng Tỳ Bà Sa
được biên soạn vào kỳ kiết tập Tam Tạng dưới thời vua Kaniska. Rất có
thể đã có một số luận thư mang nhan đề Tỳ Bà Sa được ra đời trước đại
luận Tỳ Bà Sa bởi danh xưng Vaibhasika xem ra không hẳn chỉ xuất phát từ
Mahavibhasasastra. Watters đã đưa ra một số chứng minh rằng Ðại Tỳ Bà Sa
không phải được biên soạn vào kỳ kiết tập trên là vì chính bộ luận này
đã nhắc tới vua Kaniska như một ông vua quá khứ, Vasumitra được Tỳ Bà Sa
xếp vào hàng ngũ bốn nhà tạo luận chủ chốt và chính Tỳ Bà Sa cũng trích
dẫn Vasumitra, Parsva. Theo Paramartha, chính Ca Chiên Diên Tử cũng đã
biên soạn một bộ Tỳ Bà Sa với sự cộng tác của Asvaghosa người xứ Saketa
mà phần góp sức này về sau được coi là một tác phẩm văn học.
Trong kinh điển Hán văn cũng có
hai bộ Tỳ Bà Sa được gán cho Ca Chiên Diên Tử dù xét ra có phần khiên
cưỡng. Ngài Huyền Tráng cho biết rằng trong kỳ kiết tập dưới thời vua
Kaniska việc biên soạn Sớ giải ba Tạng được đặt ra ưu tiên. Ðó là bộ
Upadesa để chú giải Kinh Tạng và Vibhasa để chú giải Luật Tạng cùng A Tỳ
Ðàm Tạng. Mặc dù chúng ta hôm nay không có một sử liệu nào, kể cả Hán
văn, để chứng minh rằng từng có một bộ Upadesa ra đời trước thời ngài
Asanga (Vô Trước) nhưng riêng Tỳ Bà Sa thì đã được nhắc đến từ lâu.
Trong Tỳ Bà Sa, Trung Hoa được gọi là Trí Na, Chấn Thủ (.......)
vốn xuất phát từ chữ Tần của thời Tần Thỉ Hoàng (221-203 trước Tây
Lịch).
Về trữ lượng nội dung của Tỳ Bà Sa
theo các tài liệu đều khác nhau. Huyền Tráng và Ðạo Diên nói Tỳ Bà Sa có
được 100,000 thính tiết, riêng Paramartha thì kể là một triệu. Về niên
đại ra đời của Tỳ Bà Sa thì Huyền Tráng đưa ra thời điểm "400 năm sau
Phật lịch", Paramartha thì 500 năm và Ðạo Diên thì hơn 600 năm sau Phật
lịch.
Nhân vật Vasumitra, được gắn liền
với kỳ kiết tập Kashmir và cuộc biên soạn Tỳ Bà Sa, đến nay vẫn cứ là
nhân vật nhiều huyền thoại và có vẻ khá mơ hồ đối với chúng ta. Watters
cho rằng có ít nhất bảy người mang tên Vasumitra với nhiều tầm vóc khác
nhau nhưng tạm thời ở đây chúng ta chỉ có thể xác định được hai vị mang
tên Vasumitra, một người là tác giả của Túc Luận Prakaranapada và một
người là thành viên biên soạn Tỳ Bà Sa.
Những trưng dẫn của tôi trên đây
rõ ràng chỉ đưa ra một mớ bòng bong nghịch lý và lộn xộn nhưng dù gì thì
qua đó chúng ta cũng được cung cấp đôi điều đặc biệt quan trọng về một
giai đoạn thú vị của Phật Giáo.
Cho đến nay thì hầu như trọn vẹn
công tích của các nhà Tỳ Bà Sư (Vaibhasika) chỉ còn được bảo trì trong
các bản dịch Hán văn xưa nhất (383 sau Tây Lịch). Trong khi đó, để
nghiên cứu về các bộ Tỳ Bà Sa (Vibhasa) thì ta có thể sử dụng các bản
dịch muộn hơn (434, 557 sau Tây Lịch). Trước hết chúng ta phải phân biệt
hai loại Tỳ Bà Sa là Tiểu Tỳ Bà Sa và Ðại Tỳ Bà Sa theo nội dung của
chúng mà đừng thắc mắc gì tới tên gọi. Chúng ta sẽ tạm thời gọi chúng là
Tỳ Bà Sa nhỏ và Tỳ Bà Sa lớn.
TIỂU TỲ BÀ SA (VIBHASASASTRA)
Trữ
lượng: 3 chương, 42 phẩm, 14 mục, 400 trang
Tác giả: Ca Chiên Diên Tử
Dịch giả: Tăng Già Bạt Trừng (Sanghavartin)
1
"Nội dung giải thích A Tỳ Ðàm Bát
Kiền Ðộ (Abhidharma-atthagantho) gồm các đề tài: Linh tinh, các Triền,
các Trí, các Nghiệp, 4 Ðại, các Quyền, các Thiền và các Kiến".
1. Giới thiệu
(Tự A Tỳ Ðàm)
2. Tiểu chương:
Bàn
về 3 triền và 98 tiềm miên (từ 1-15)
3. Giải Thập Môn Ðại chương
(từ phẩm 16-42):
Bàn
về Danh Sắc, cảnh giới của ý thức, 22 Quyền, 18 Giới, 12 Xứ, 5 Uẩn, 6
Giới, 4 Thánh đế, 4 Thiền, 4 Vô lượng tâm, 4 Vô sắc định, 4 Giải thoát,
8 Thiền, 3 Ðịnh, Tứ sanh,...
Trong luận thường nhắc tới
Vasumitra nhưng không có nghĩa là trích dẫn ngài và điều này còn cho
phép ta suy diễn là ngay từ lúc biên soạn luận này, giữa các ngài
Vasumitra, Parsva hoặc các trưởng lão khác đã có những bất đồng tư tưởng
và ý kiến của từng vị đã được nhắc đến ở đây kể cả danh tánh của họ.
Ở chương 32, phần giải về Tứ Thánh
Ðế có ghi rằng đức Phật đã từng thuyết pháp bằng tiếng Tamil: "Trong
ngôn ngữ Ðàm Di La, Nhân-Nịnh là Khổ Ðế, Di-Nịnh là Tập Ðế, Ðà-Phá là
Diệt Ðế, Ðà-La-Phá là Ðạo Ðế. Ðấng Phật Ðà đã nói về cứu cánh diệt khổ
như vậy". Chưa hết, Phật còn dùng cả tiếng Miệt Lệ Sa (Mleccha) mọi rợ
để trình bày Tứ Ðế: "Trong ngôn ngữ Miệt Lệ Sa, 4 Ðế được gọi là Ma Xá,
Ðâu Xá, Tăng Xá Ma, Tát Bà Ða Cách Ty Lê la (hoặc La Tỳ Bỉ Lật). Ngài đã
nói về cứu cánh diệt khổ như vậy".
-ooOoo-
ÐẠI TỲ BÀ SA
Trữ
lượng: Lúc đầu có 8 Kiền Ðộ, 44 phẩm, 100 mục nhưng vào cuộc binh biến
giữa hai nhà Lương-Ngụy thì bị thất lạc. Lúc đó là năm 439 Tây Lịch. Sau
tìm lại được chỉ có 3 Kiền Ðộ, 16 phẩm, được chia lại 82 mục và tổng
cộng 400 trang.
Tác
giả: Ca Chiên Diên Tử.
Dịch
giả: Phù Ðồ Bạt Ma (Buddhavarma) và Ðạo Thái (từ 437-439 hoặc 425-427
Tây Lịch mới dịch xong).
1. Tự Phẩm
2. Tạp Kiền Ðộ
a.
Thế Ðệ Nhất Pháp Phẩm (Lokottaradharmavarga). Chúng ta thấy nhắc tới ở
đây danh tánh các nhà tạo luận như Vasumitra, Buddhadeva, Ghosa, Parsva,
Aniruddha,...
b. Phẩm Trí (Jnana)
c. Phẩm Nhân (Pudgala)
d. Phẩm Ái Kính (Premagaurava)
e. Phẩm Vô Tàm Quý
f. Phẩm Sắc (Rupa)
g. Phẩm Vô Nghĩa
h. Phẩm Tư Nghì. Có nhắc tới các ngài Vakkula, Buddhadeva,...
3. Sử Kiền Ðộ
a.
Phẩm Bất Thiện
b. Phẩm Nhất Hành (Nhất Lai)
c. Phẩm Nhân (Pudgala)
d. Phẩm Thập Môn. Có nhắc tới các ngài Parsva, Mahakausthila,...
2. Trí Kiền Ðộ
a.
Phẩm Bát Ðạo
b. Phẩm Tha Tâm Trí
c. Phẩm Tu Trí
d. Phẩm Tương Ưng
Trong một lời giới thiệu, Ðạo Diên
đã viết rằng:
"Sau
khi Phật diệt độ hơn 600 năm, ở Bắc Ấn có 500 vị La Hán... những người
đã biên soạn bộ Luận Tỳ Bà Sa để khắc chế các dị thuyết. Sư Ðạo Thái đã
đi đến phía Tây của rặng Onion thỉnh được nguyên tác bộ luận Tỳ Bà Sa
bằng Phạn ngữ dày 100,00 thính tiết. Một Sa Môn người Ấn là ngài Phù Ðồ
Bạt Ma (Buddhavarma) đã sang đất Lương và được lệnh vua phiên dịch bộ
kinh trên vào giữa tháng tư âm lịch năm Ất Sửu (nhằm năm 425 Tây Lịch)
với sự cộng tác của hơn 300 người, trong đó có Trí Tung, Ðạo Lang,...
"Bản
dịch gồm đến 100 mục và hoàn tất vào tháng bảy năm 427. Lúc nhà Lương bị
mất, bản dịch cũng mất theo. Ðến khi khôi phục được chỉ còn lại 60 mục".
"Ngay
sau lúc Phật diệt độ có một tỳ kheo tên là Pháp Thắng (Dharmottara) đã
biên soạn một luận thư dày bốn quyển nhan đề A Tỳ Ðàm Tâm Luận. Sau lại,
Ca Chiên Diên Tử trước tác một công trình A Tỳ Ðàm nhiếp thu trong 8
Kiền Ðộ, 44 phẩm tất cả. Kế đó có 500 vị La Hán viết bộ Tỳ Bà Sa để chú
giải 8 Kiền Ðộ A Tỳ Ðàm của Ca Chiên Diên Tử. Khi đem dịch ra chữ Hán,
xem nó lớn hơn bản gốc, chứa được 100 mục. Thế rồi nhà Ngụy phá hủy kinh
đô Tư Cừ của nhà Lương và bản dịch bị mất. Sau này có 60 mục (trong số
100 mục của nguyên tác) được sưu tập lại và được chia lại thành 110 mục.
Ðó chỉ là 3 Kiền Ðộ, còn 5 Kiền Ðộ kia coi như tuyệt tích". Sau đây là 3
Kiền Ðộ sót lại và đã được san định.
-ooOoo-
A TỲ ÐẠT MA ÐẠI TỲ BÀ SA LUẬN
Trữ
lượng: 8 uẩn; 43 phẩm (phẩm kệ ngôn sau cùng của Phát Trí Luận đã không
được nhắc tới trong chú giải); 200 chương: Một triệu bốn trăm ba mươi
tám ngàn bốn trăm bốn mươi chín chữ Hán, ba ngàn sáu trăm ba mươi trang.
Tác
giả: 500 vị La Hán
Dịch
giả: Huyền Tráng (dịch từ 656-659 Tây Lịch).
Theo
Tibeto-Chinese Catalogue thì Tỳ Bà Sa được biên soạn sau Phật diệt độ
khoảng 400 năm.
1.
Tạp Uẩn: Gồm 8 chương (xem bản tóm lược
Phát Trí Luận)
2.
Kiết Uẩn: gồm 4 chương
3.
Trí Uẩn: gồm 5 chương
4.
Nghiệp Uẩn: gồm 5 chương
5.
Ðại Chủng Uẩn: gồm 5 chương
6.
Căn Uẩn: gồm 7 chương
7.
Ðịnh Uẩn: gồm 5 chương
8.
Kiến Uẩn: gồm 5 chương
Phẩm thứ 44, toàn kệ ngôn, nội
dung không có gì cần giải thích và cũng không được giải thích trong tác
phẩm. Ở sau cuối mỗi mục (trong số 200 mục) đều có ghi chú tác phẩm là
chú giải của Phát Trí Luận và thuộc về Hữu Bộ. Vì là chú giải nên nội
dung của Tỳ Bà Sa này hoàn toàn rập khuôn chánh luận Phát Trí và các chi
tiết không cần thiết cũng không được nhắc tới ở đây.
Với tư cách một người chuyên khảo
Tỳ Bà Sa, Watters đã viết: "những nhận định của Huyền Tráng về các nhà
tạo luận chắc chắn có phần cường điệu nhưng rõ ràng các tập Tỳ Bà Sa là
những công trình nghiên cứu lớn. Qua đó chúng ta có thể bắt gặp những
kiến giải phi thường của Phật giáo về nhiều lãnh vực đa dạng, từ các đề
tài về Bà La Môn giáo đến cả chuyện văn tự và triết học Veda..."
Luận Tỳ Bà Sa đúng là một bộ Bách
Khoa Thư của triết học Phật giáo. Phần lớn những quan điểm tư tưởng của
các trường phái triết học cổ đại và đương đại đều được nhắc tới, được
bàn soạn một cách cẩn thận. Cho dù chúng ta có tán thành Asvaghosa hay
không, thì Tỳ Bà Sa vẫn cứ là một kiệt tác với giá trị của riêng nó. Từ
lúc Tỳ Bà Sa được khởi soạn, người ta mặc nhiên gọi tên một số nhà tư
tưởng là Luận Sư A Tỳ Ðàm (Abhidharmamahasastrin). Có tất cả hai loại
luận sư, dựa theo tư tưởng của từng nhóm và sự phân loại này cũng được
nhắc tới trong Tỳ Bà Sa. Ðó là Luận sư trường phái Kế Tân
(Kashmirasastrin) và Luận sư trường phái Kiền Ðà La (Gandharasastrin).
Dựa trên nguyên tắc liệt kê của Kiền Ðộ Thế Ðệ Nhất Pháp, tôi cũng muốn
nêu ra đây một số tên bộ phái và tên người theo từng chủ trương giáo lý
như Vibhajyavadin (phân biệt luận giả), kinh Bộ Sư (Sautrantika), Pháp
Mật Bộ (Dharmagupta), Ðôïc Tử Bộ (Vatsiputriya), Hóa Ðịa Bộ
(Mahisasaka), là những trường phái chủ trương tách rời Tư với Tâm. Phần
tên người cũng được kể theo nhóm chủ trương như Pháp Cứu (Dharmatrata,
Dharmatara), Giác Thiên (Buddhadeva-Phật Ðà Ðề Bà), Diệu Âm (Ghosa),
Hiếp Tôn giả (Parsva), Thế Hữu (Vasumitra), Ca Ða Diễn Ni Tử
(Katyayaniputra-Ca Chiên Diên Tử),...
Ở đây tôi lại muốn thêm vào một
tác phẩm A Tỳ Ðàm khác cũng được gọi là Tỳ Bà Sa luận và được gán cho
ngài Pháp Cứu (Dharmatrata) vừa nhắc trên đây.
-ooOoo-
NGŨ SỰ TỲ BÀ SA LUẬN
Trữ
lượng: 3 chương, 2 phẩm, 36 trang
Tác
giả: Từ tập Ngũ Sự Luận (Pancavastu) của Thế Hữu, Pháp Cứu viết một Tỳ
Bà Sa để chú giải. Tương truyền ngài là cậu ruột của ngài Thế Hữu.
Dịch
giả: Huyền Tráng (dịch năm 663 Tây Lịch).
1.
Sắc Phân Biệt
2.
Tâm Phân Biệt
3.
Tâm Pháp Phân Biệt
Ngũ sự là: Chủ Thể, Ðối Tượng,
Phan duyên, sự Tác Ðộng và kết quả Bị Thu Hút.
-ooOoo-
A TỲ ÐÀM CÂU XÁ LUẬN & (A TỲ ÐÀM) CÂU XÁ BẢN TỤNG (KARIKA)
Tầm vóc quan trọng của Câu Xá Luận
đã được nhà chuyên môn đề cập tới (như Burnouf, Kern,... ) thông qua các
biên khảo về Abhidharmakosavakhyasphutartha của Yasomitra. Riêng đối với
chúng ta lúc này thì vấn đề chính là 2 tài liệu bằng chữ Hán. Một tài
liệu bao gồm 602 bài tụng văn vần và tài liệu kia là một tác phẩm văn
xuôi có nội dung giải thích tài liệu trước. Paramartha cho biết phần văn
xuôi này được biên soạn theo thỉnh nguyện của các Tỳ Bà Sư đương thời.
Và lẽ dĩ nhiên là phần văn kệ được đặt gọn trong phần văn xuôi. Sau đây
là những đối chiếu cho chúng ta kê cứu:
A TỲ ÐÀM CÂU XÁ THÍCH LUẬN
Trữ
lượng: 9 phẩm, 22 chương, 613 trang.
Tác giả: Bà-Tẩu-Bàn-Ðậu (Vasubandhu), 420-500 Tây Lịch.
Dịch giả: Chân Ðế (Paramartha), 563-567 Tây Lịch.
A TỲ ÐẠT MA CÂU XÁ LUẬN
Trữ
lượng: 9 phẩm, 30 chương, 559 trang.
Tác giả: Thế Thân Tôn giả (Vasubandhu).
Dịch giả: Huyền Tráng, 651-654 Tây Lịch.
(Tibeto-Chinese catalogue còn chú thêm một tên gọi khác nữa là A Tỳ
Ðạt-La-Ma-Ca-Sa-Sa-Tất-Ðặc-La).
CÂU XÁ LUẬN BẢN TỤNG
Trữ
lượng: 602 câu kệ, 8 phẩm, 2 chương, 53 trang.
Tác giả: Thế Thân (Vasubandhu)
Dịch giả: Huyền Tráng, dịch năm 651 Tây Lịch.
Luận
này còn được Tibeto-Chinese Catalogue gọi là A Tỳ Ðạt La Ma Ca Sa Gia Lý
Gia.
NỘI DUNG CÂU XÁ LUẬN
1.
Phẩm Phân Biệt Giới: 44 câu kệ
2.
Phẩm Phân Biệt Căn: 74 câu kệ
3.
Phẩm Phân Biệt Thế: 99 câu kệ
4.
Phẩm Phân Biệt Nghiệp: 130 câu kệ
5.
Phẩm Phân Biệt Tuỳ Miên: 69 câu kệ
6.
Phẩm Phân Biệt Thánh Hiền: 83 câu kệ
7.
Phẩm Phân Biệt Trí: 61 câu kệ
8.
Phẩm Phân Biệt Ðịnh: 39 câu kệ
9.
Phẩm Phá Ngã Chấp: (không thấy ghi số câu kệ!).
Tập Abhidharmakosavakhyasphutartha
của Yasomitra lại đưa ra một mục lục như sau:
1.
Dhatunirdeso nama prathamam kosasthanam
2.
Indriyanirdeso nama dvitiyam kosasthanam
3.
Trtiyam kosasthanam
4.
Caturtham kosasthanam
5.
Anusayanirdeso nama pancamam kosasthanam
6.
Sastham kosasthanam
7.
Saptamam kosasthanam
8.
Astamam kosasthanam
9.
Deest!
Ở các phẩm 3, 4, 6, 7, chúng ta
hoàn toàn có thể bổ sung Lokanirdeso, Karmanirdeso, Aryapudgalanirdeso
và Jnananirdeso nama. Nhưng ở hai phẩm 8, 9 thì gay đấy. Theo Paramartha
thì chương 8 có thể là chữ gì đó tương tự như Samapatti. Ông Wogihara đề
nghị chữ Samadhi bởi Samapatti không ổn về ngữ âm cho câu kệ. Về phẩm
thứ chín thì Yasomitra không đả động gì tới, nhưng để tạo một đối xứng
giữa hai bản Hán-Phạn thì chúng ta phải có hướng giải quyết, nghĩa là
không thể làm ngơ như Yasomitra. Theo Ông Wogihara thì đó là chữ
Atmavadapratisedhanirdeso, một dụng ngữ đã được dùng rộng rãi.
Ở cuối mỗi chương đều luôn ghi rõ
rằng Câu Xá Luận là của riêng Hữu Bộ.
Trong Câu Xá Luận, các Tỳ Bà Sư Kế
Tân được nhắc tới nhiều lần với những danh xưng khác nhau như 7 lần được
gọi là Tỳ Bà Sư Kế Tân (Kasmiravaibhasika), 2 lần Luận Sư Kế Tân
(Kasmirasastrin), và 10 lần Tỳ Bà Sư (Vaibhasika). Những trích dẫn phong
phú của Câu Xá Luận tôi không thể nhớ hết được, chỉ có thể kể đại khái
như Túc Luận Prajnaptipada được nhắc tới một lần (ở chương 6), Du Già Sư
và Ðộc Tử Bộ được nhắc tới cũng một lần (ở chương 23, 30). Còn lại biết
bao luận thư và bộ phái khác nhưng tiếc là tôi chỉ có thể đọc lướt qua
mà thôi.
-ooOoo-
A TỲ ÐÀM THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN
(Abhidharmanyayanusara)
& A TỲ ÐÀM HIỂN CHÂN LUẬN (Abhidharmasamayapradipika) của Sanghabhadra
Paramartha đã cho chúng ta biết
rằng Sanghabhadra là một người đối lập ra mặt với Thế Thân. Ông đã biên
soạn tại Ayodhya hai luận thư. Một quyển nhan đề Quang-Tam-Ma-Da-Luận
bao gồm 10,000 thính tiết, nội dung biện giải Tỳ Bà Sa, còn quyển kia là
Tuỳ Thực Luận có 120,000 thính tiết gồm một nội dung phê bình Câu Xá
Luận theo phong vị của Tỳ Bà Sa. Tương truyền rằng Sanghabhadra từng
thách đố Thế Thân tranh luận trực tiếp nhưng bị Thế Thân từ chối.
Huyền Tráng đã từ giai thoại trên
đây kể thêm rằng Thuận Chánh Lý Luận buổi đầu có nhan đề là Câu Xá Bạc
Luận (nôm na là Mảnh Vụn của Câu Xá) nhưng sau khi Sanghabhadra qua đời,
Thế Thân vì muốn tỏ lòng tôn trọng đối thủ nên đã sửa lại thành
Abhidharma- Nyayanusara (Thuận Chánh Lý A Tỳ Ðàm). Ðương nhiên,
Sanghabhadra không phải là sư phụ của Thế Thân như Taranatha đã nói. Mà
ngược lại, y cứ theo những gì Paramartha và Huyền Tráng cung cấp,
Sanghabhadra và Thế Thân xem ra còn không quen biết nhau nữa cũng nên.
Về quyển Hiển Chân Luận, chính tác
giả đã ghi rằng đó là cuốn tóm lược nội dung nhiêu khê khó hiểu của cuốn
Thuận Chánh Lý Luận vốn khó dung nạp đối với người học. Giữa hai cuốn
chỉ có một điểm khác biệt duy nhất là Hiển Chân Luận chỉ bàn về Tỳ Bà
Sa, còn Thuận Chánh Lý Luận thì bàn rộng sang các trường phái khác. Ngay
chính Câu Xá Bản Tụng của Thế Thân vốn là tác phẩm tổng hợp giáo lý của
các luận Tỳ Bà Sa và cũng cứ được các nhà Tỳ Bà Sư chấp nhận. Chỉ riêng
phần văn xuôi của Câu Xá Luận là bị công kích vì người ta đã phát hiện ở
đó những quan điểm giáo lý của Kinh Lượng Bộ. Ðây chính là lý do tại sao
Sanghabhadra đã ngang nhiên trích dẫn các bài tụng của Thế Thân rồi tự
tiện giải thích chúng theo quan điểm truyền thống của Hữu Bộ. Một nghiên
cứu về hai dòng triết Phật giữa Thế Thân và Sanghabhadra, một giai đoạn
của tân phái Tỳ Bà Sư, chắc chắn rất thú vị nhưng trong khuôn khổ có hạn
của bài biên khảo này chúng ta không thể đi xa hơn.
A. A TỲ ÐẠT MA THUẬN CHÁNH
LÝ LUẬN
Tổng
lượng: 8 phẩm, 80 chương, 1751 trang
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền (Sanghabhadra)
Dịch giả: Huyền Tráng (653-654)
Tibeto-Chinese catalogue chỉ phiên âm tên Phạn của tập luận là
Di-Nha-Yểm-A-Nậu-Tát La-Sa-Tất-Ðặc-La. Paramartha phiên âm tên tác giả
là Tăng Già Bạt Ðà La.
1.
Phẩm Biện Bổn Sự
2.
Phẩm Biện Sai Biệt
3.
Phẩm Biện Duyên Khởi
4.
Phẩm Biện Nghiệp
5.
Phẩm Biện Tuỳ Miên
6.
Phẩm Biện Thánh Hiền
7.
Phẩm Biện Trí
8.
Phẩm Biện Ðịnh
Chỉ trừ chương 9, cuối mỗi chương
đều có ghi là của riêng Hữu Bộ. Các túc luận Sangitiparyaya,
Dharmaskandha và Prajnaptipada được nhắc tới ở chương I như những Mẫu Ðề
(Matrika). Các nhà Thượng Toạ Bộ được nhắc tới và bị phê phán ít nhất là
9 lần. Hai phái Tỳ Bà Sư Kế Tân và Tỳ Bà Sư chính thống được nhắc tới
hai hoặc ba lần. Bên cạnh đó có nhiều luận thư và trường phái cũng được
trích dẫn như Prakaranapada (thường xuyên), Vijnanakayapada,
Jnanaprasthana, Prajnaptipada, Sautrantika, Vibhajyavada, Yoyacarya,...
B. A TỲ ÐẠT MA HIỂN TÔNG LUẬN
Tổng
lượng: 9 phẩm, 40 chương, 749 trang
Tác giả: Chúng Hiền
Dịch giả: Huyền Tráng (651-652 Tây Lịch)
Ngoài
nhan đề Abhidharmasamayapradipika, luận này còn được gọi là
Abhidharma- prakaranasasanasastra (theo Tibeto-Chinese Catalogue).
1. Tự
Phẩm (phẩm giới thiệu)
2.
Phẩm Biện Bổn Sự
3.
Phẩm Biện Sai Biệt
4.
Phẩm Biện Duyên Khởi
5.
Phẩm Biện Nghiệp
6.
Phẩm Biện Tuỳ Miên
7.
Phẩm Biện Hiền Thánh
8.
Phẩm Biện Trí
9.
Phẩm Biện Ðịnh
Cuối
tác phẩm có một câu kệ mang nội dung là "người học Phật không những phải
dốc sức nắm bắt nhanh chóng giáo lý mà còn phải lưu tâm tới cái gì là
chân lý thật sự. Nghĩa là ngoài các luận thư ta không thể lãng quên
khuôn thước căn bản ở A-hàm tạng".
Ở cuối các chương 11-20, 31-40 đều
có ghi là quan điểm của riêng Hữu Bộ. Trong Hiển Tông Luận nhắc tới khá
nhiều tài liệu như các tập Tỳ Bà Sa, Duy Thức, Câu Xá, Pháp Uẩn Túc
Luận, Thi Thiết Túc Luận và cả Thuận Chánh Lý Luận,...
Ngoài 7 tập A Tỳ Ðàm cùng các luận
thư trực tiếp liên quan, vẫn còn có một số tác phẩm A Tỳ Ðàm khác cũng
được cho là của Hữu Bộ. Bỏ qua những điểm tồn nghi, tôi tạm thời kể ra
đây vài tác phẩm Hữu Bộ đã được nói tới trong bài biên khảo này hoặc đã
được các tài liệu khác quan tâm.
C. A TỲ
ÐẠT MA CAM LỘ VỊ LUẬN (Abhidharma Amrtasastra)
Tổng
lượng: 16 chương, 2 phẩm, 55 trang
Tác giả: Cù-Sa (Ghosa-Diệu Âm)
Dịch giả: Khuyết danh. Chỉ biết luận được dịch vào thời nhà Ngụy
(220-265 Tây Lịch).
1.
Phẩm Bố Thí - Trì Giới
2.
Phẩm Giới Ðạo (sinh thú)
3.
Phẩm Trụ Thực Sinh
4.
Phẩm Nghiệp
5.
Phẩm Âm Trì Nhập (Uẩn)
6.
Phẩm Hành (Hữu vi)
7.
Phẩm Nhân Duyên Chủng
8.
Phẩm Tịnh Căn
9.
Phẩm Kiết Sử (Triền và Tuỳ Miên)
10.
Phẩm Vô Lậu Nhân
11.
Phẩm Trí
12.
Phẩm Thiền Ðịnh
13.
Phẩm Tạp Ðịnh
14.
Phẩm Tam Thập Thất
15.
Phẩm Tứ Ðế
16.
Phẩm Tạp.
Ðến nay thì luận này cứ được xem
là của Hữu Bộ. Wassilief xếp Cam Lộ Vị Luận vào một chỗ trong Túc Luận
Thi Thiết nhưng căn cứ trên nội dung của nó thì tôi vẫn xem nó là của
Hữu Bộ.
D. A TỲ ÐÀM TÂM LUẬN
(Abhidharmahrdaya)
Tổng
lượng: 10 phẩm, 4 chương, 96 trang
Tác giả: Pháp Thắng (Dharmottara)
Dịch giả: Tăng Già Ðề Bà (Sanghadeva) và Huệ Viễn
E. PHÁP THẮNG A TỲ ÐÀM TÂM
LUẬN
Tổng
lượng: 10 phẩm,... chương, 139 trang
Tác giả: Ưu Bà Sẩn Ðà (Upasanta)
Dịch giả: Narendrayasa, năm 563 Tây Lịch
Tác phẩm này là chú giải của A Tỳ Ðàm Tâm Luận.
F. TẠP A TỲ ÐÀM TÂM LUẬN
Tổng
lượng: 11 phẩm, 16 chương, 362 trang
Tác giả: Pháp Cứu (Dharmatrata hoặc Dharmatara)
Dịch giả: Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarma), năm 434. Cũng là cuốn chú giải
của A Tỳ Ðàm Tâm Luận. Tôi ghi ra mục lục ở đây để thấy rằng nó giống
hệt 2 Tâm Luận kia.
1. Tự
Phẩm
2.
Tâm Giới Phẩm
3.
Hành Phẩm
4.
Nghiệp Phẩm
5. Sử
Phẩm (Tuỳ Miên Phẩm)
6.
Thánh Hiền Phẩm
7.
Trí Phẩm
8.
Ðịnh Phẩm
9. Tu
Ða La Phẩm (Kinh tạng)
10.
Tạp Phẩm
Ở mười phẩm trên đây ở cả ba Tâm
Luận đều giống in nhau, riêng phẩm thứ mười một thì có chỗ dị biệt. Ở A
Tỳ Ðàm Tâm Luận (D) ghi là Trạch phẩm, Pháp Thắng A Tỳ Ðàm Tâm Luận (E)
không có phẩm này và Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận (F) ghi là Luận phẩm.
Trong Tạp Tâm Luận, A Tỳ Ðàm Tỳ Bà
Sa được coi là tài liệu căn bản để biện giải các vấn đề nội dung. Tạp
luận này tương truyền là của Hữu Bộ.
Ðó là theo ý Huệ Khải (thế kỷ thứ 6). Vào thế kỷ thứ 5, Ðạo Diên còn xếp
Pháp Thắng Tâm Luận song song với Phát Trí Luận và cho rằng nó đã được
biên soạn trước Phát Trí Luận.
G.
LẬP THẾ A TỲ ÐÀM LUẬN (Lokaprajnaptiabhidharmasastra)
Tổng
lượng: 25 phẩm, 10 chương, 200 trang
Tác giả: Khuyết danh
Dịch giả: Chân Ðế (557-568 Tây Lịch)
1.
Phẩm Ðịa Ðộng
2.
Phẩm Nam Diêm Phù Ðề
3.
Phẩm Lục Ðại Quốc
4.
Phẩm Dạ Xoa Thần
5.
Phẩm Lậu Ðô Kỳ Lợi Tượng Vương (Rajagiri)
6.
Phẩm Tứ Thiên Hạ (4 châu lục quanh Tu Di sơn)
7.
Phẩm Số Lượng
8.
Phẩm Thiên Trụ
9-17.
Bàn về kinh đô Thiện Kiến (của cõi Ðao Lợi) cùng Tứ Ðại Thiên Vương, và
các hoa viên cõi trời.
18.Phẩm Thiên Phi Thiên Ðấu (về trận đánh giữa chư thiên và A Tu La)
19.
Phẩm Nhật Nguyệt Hành
20.
Phẩm Vân Hà (phép chia ngày đêm)
21.
Phẩm Thọ Sanh
22.
Phẩm Thọ Lượng
23.
Phẩm Ðịa Ngục
24.
Phẩm Tiểu Tam Họa
25.
Phẩm Ðại Tam Họa
Luận này cũng được coi là của Hữu
Bộ. Theo chỗ tôi nhận xét thì Lập Thế Luận giải quyết vấn đề mà Thi
Thiết Túc Luận đã bỏ sót, hoặc vì sơ thất hoặc do có mục đích, và bổ
sung một cách xuất sắc những lỗ hổng để cung cấp cho chúng ta hôm nay
một gợi ý về nguyên dạng của Thi Thiết Túc Luận. Và chúng ta cũng không
bắt gặp chỗ nào trái khoáy khi chấp nhận nó là một tác phẩm của Hữu Bộ.
Còn vài ba tác phẩm nữa có thể là
của Hữu Bộ mà tôi chỉ lược kê chứ không đi vào chi tiết ở đây.
H. NHẬP A TỲ ÐÀM LUẬN
Tổng
lượng: 2 chương, 34 trang
Tác giả: Tắc Kiền Ðịa La (S. Julien và Watters khôi phục tên Phạn là
Skandhila, Nanjio lại cho là Sugandhara)
Dịch giả: Huyền Tráng, năm 658.
Nội dung giải quyết 75 yếu pháp A
Tỳ Ðàm thông qua 8 phạm trù căn bản (padartha) của bộ phái: 11 Sắc pháp,
1 Tâm Vương, 46 Tâm pháp (tâm sở), 14 pháp Bất Tương ưng Tâm và 3 Vô vi
pháp.
I. XÁ LỢI PHẤT A TỲ ÐÀM LUẬN
Tổng
lượng: 4 phần, 33 chương, 30 mục, 620 trang
Tác giả: Xá Lợi Phất
Dịch giả: Pháp Hộ (Dharmagupta) và Ðàm Ma Da Xá (Dharmayasa), dịch từ
414-415.
Không có điểm tương đồng với
Sangitiparyaya (một trong 6 Túc Luận) nhưng vẫn được gán cho tác giả Xá
Lợi Phất và đương nhiên nội dung vẫn là giáo lý A Tỳ Ðàm.
Luận có nội dung giải quyết các
vấn đề Nhập, Giới, Uẩn, Ðế, Căn, Giác Chi, Nghiệp, Người, Trí, Nhân,
Niệm xứ, Thần túc, Thiền, Ðạo, Phiền não,...
J. TÙY TƯỚNG LUẬN
(Laksananusarasastra)
Tổng
lượng: 2 chương, 41 trang
Tác giả: Gunamati (có thể là tác giả một bộ chú giải Câu Xá Luận và một
học trò của Thế Thân cũng mang tên này)
Dịch giả: Chân Ðế, 557-569 Tây Lịch.
Nội dung bàn về 12 duyên khởi và 4
đế, có nhắc tới các nhà Tỳ Bà Sư và đích danh Thế Thân. Ngoài ra luận
cũng đề cập đến Ðộc Tử Bộ, Kỳ Na Giáo, Chánh Lượng Bộ, Uluka và nhiều
danh sư các trường phái.
-ooOoo-
KẾT LUẬN
Trọn phần thư tịch vừa trưng dẫn
trong bài biên khảo chỉ đưa ra một đối chiếu về các tác phẩm Hữu Bộ qua
bản Hán văn. Nhưng như tôi đã từng xác nhận là chúng ta hiện vẫn còn giữ
lại nguyên vẹn Luật tạng của Hữu Bộ. Như vậy với lượng kinh điển này,
Hữu Bộ xem ra cũng chẳng kém cạnh Thượng Tọa Bộ là mấy vì Thượng Tọa Bộ
cho đến hôm nay vẫn còn bảo trì nghiêm cẩn hai bộ phận giáo điển đó. Một
công trình nghiên cứu và đối chiếu về giáo điển hai bộ phái này chắc
chắn sẽ đem lại cho chúng ta một hiểu biết lớn rộng về lịch sử phát
triển của Phật giáo Ấn Ðộ.
Sự tồn tại tích cực của Hữu Bộ,
như các tác phẩm của bộ phái này đã thể hiện, có sức ảnh hưởng sâu xa
đối với đời sống tâm linh của Ấn Ðộ ít nhất cũng không dưới nghìn năm.
Một điều có thể xác định được là trước khi chính thức trở thành một bộ
phái độc lập, Hữu Bộ đã có mâu thuẫn với Phật giáo nguyên thủy do những
quan điểm riêng tư, rồi tương truyền là từ đó đã bỏ vùng thung lũng sông
Hằng để tìm về địa bàn mới là Kashmir.
Trong hoạt động để tồn tại, các
nhà Hữu Bộ còn phải đối đầu với sức ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo Ðại
Thừa. Bởi dù sao họ cũng cứ bị xem là "Tiểu Thừa" với quan điểm Nhất
Thiết Hữu (Sarvasstitva)
2, và đã tồn tại như một
dấu gạch nối giữa Phật giáo nguyên thủy với hệ thống giáo lý mới mẻ mà
bộ phái đã chủ trương
3. Khi được trình bày sáng
sủa trong hình thức các luận thư như trong hiện tại, giáo lý Hữu Bộ qua
một ngôn ngữ Tây Phương nào đó sẽ trở nên dễ hiểu hơn và tôi còn nghĩ
rằng những lỗ hổng của nó sẽ được lấp đầy cũng như các điểm quan yếu của
đạo Phật sẽ được khôi phục. Với một niềm tin như vậy về tương lai tôi
xin kết thúc bài biên khảo này của mình dù tự biết nó thật ra vẫn còn
nhiều thiếu sót. Công trình khảo cứu bé mọn này tuyệt không phải là đã
chu tất và cũng không phải một phương pháp làm việc. Ðối với các tài
liệu trên, tôi chỉ đọc lướt qua và vì vậy những lời dịch của tôi trong
bài này cũng thường là thử điểm mà thôi. Và có thể tôi đã không thể viết
xong bài biên khảo này nếu không có sự giúp đỡ quan trọng của Mr.
Wogihara, một chuyên gia về các dòng văn học Phật Giáo. Các chú thích
của ông đã nói lên một công phu nghiên cứu cẩn thận về các kinh điển
quan trọng như Bồ Tát Ðịa, Câu Xá Luận,...
Tôi cũng không quên bày tỏ lòng
tri ân chân thành đến giáo sư Rhys Davids, người đã dành nhiều khích lệ
và lo lắng cho bài biên khảo được hoàn tất.
Dịch
xong đêm trừ tịch 99-2000 Tây Lịch
Houston 01/01/00
Tỳ kheo Giác Nguyên.
1
Còn được khôi phục thành Sanghabhuti nhưng có lẽ không đúng.
2
Hai bộ phái đã tạo ra Ðại Thừa là Không-Tông (Trung Quán phái) và Duy
Thức Tông, xem I Tsing’s Record.
3
Mã Minh, Vô Trước, Thế Thân,... đều từ Hữu Bộ qua tu bên Ðại Thừa.