LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI
THOÁT
- Đại Chánh
Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32
thuộc Luận
Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648.
Hán văn từ
trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển.
Tác giả: - Ngài
A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa)
Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala)
nước Phù Nam
dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.
- Sa Môn Thích Như Điển,
dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt
--o0o--
Quyển Thứ Ba
- A La Hán Ưu Bà Đề Sa
soạn vào đời nhà Lương bằng chữ Phạn.
- Đời nhà Lương, người nước Phù Nam,
Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La
dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.
Phẩm Phân Biệt Hạnh (việc làm)
Thứ 6
Lúc bấy giờ y chỉ với vị A Xà Lê, lấy số ngày xem xét việc làm. Việc làm
nầy tương ưng với hành xứ và từ đó có thể chỉ dạy thêm. Đối với việc làm
nầy có tất cả là 14 loại. Đó là dục hành, sân nhuế hành, si hành, tín
hành, ý hành, giác hành, dục sân nhuế hành, dục si hành, sân si hành, đẳng
phần hành, tín ý hành, tín giác hành, đẳng phần hành, ý giác hành.
Lại nữa ái, kiến, mạn v.v... các loại hành cũng nên biết.
Đối với điều tham dục nầy, ý bảo làm, tánh vui đắm trước. Chẳng khác với
nghĩa nầy. Do hành mà thành 14 loại người. Dục hành nhơn, sân hành nhơn,
si hành nhơn, tín hành nhơn, ý hành nhơn, giác hành nhơn, dục sân hành
nhơn, dục si hành nhơn, sân si hành nhơn, đẳng phần hành nhơn, tín ý hành
nhơn, tín giác hành nhơn, ý giác hành nhơn, đẳng phần hành nhơn. Đối với
dục nầy, dục dục sai sử dục tánh, dục lạc. Đây có nghĩa là dục hành nhơn.
Dục nầy thường làm tăng thượng dục. Đây gọi là dục hành. Như thế tất cả sẽ
phân biệt.
Lúc ấy 14 loại người nầy lược lại thành 7 loại người. Như
thế dục hành nhơn - tín hành nhơn thành một. Sân hành nhơn - ý hành nhơn
thành một. Si hành nhơn - giác hành nhơn thành một. Dục sân hành nhơn -
tín ý hành nhơn thành một. Dục si hành nhơn - tín giác thành nhơn thành
một. Sân si hành nhơn - ý giác thành nhơn thành một. Hai đẳng phần hành
nhơn thành một.
Hỏi rằng: Vì sao dục hành nhơn, tín hành nhơn thành một?
Đáp rằng: Dục hành nhơn đối với bạn lành tăng trưởng tín
hành dục, thân cận công đức vậy. Lại nữa lấy 3 hạnh, dục và tín. Câu nầy
thành một tướng, có nghĩa là ái niệm nghĩa tìm về công đức. Nghĩa chẳng
xả. Đối với dục nầy là niệm dục. Tín là niệm thiện; dục là tìm dục công
đức. Tín là tìm công đức lành. Dục là chẳng xả, chẳng dễ thương làm tướng.
Tín là chẳng xả lấy dễ thương làm tướng. Cho nên dục hành và tín hành
thành một tướng.
Hỏi rằng: Vì sao mà sân nhuế hành và ý hành thành một?
Đáp rằng: Người làm chuyện sân đối với bạn lành tăng thêm
trí làm việc sân, gần gũi công đức vậy. Lại nữa lấy 3 hành sân nhuế và trí
thành một tướng. Chẳng phải ái niệm; nên tìm sân vậy, rồi xả. Đối với
người sân nầy chẳng an vui ái niệm; kẻ trí chẳng an hành niệm. Người sân
nhuế tìm đến sân. Kẻ trí biết việc làm sai trái. Người sân an xả, kẻ trí
an xả hành cho nên người sân hành và ý hành thành một tướng.
Hỏi rằng: Vì sao si hành nhơn và giác hành nhơn thành một?
Đáp rằng: Si hành nhơn làm được việc lành, tăng trưởng
giác hành si, gần gũi công đức vậy. Tín huệ động lìa được. Lại nữa lấy 2
hành si giác thành một tướng. Chẳng tự định; nên động vậy. Đối với đây si
an; nên loạn vậy. Chẳng an. Biết nhiều và nhớ nhiều loại, nên thành ra
chẳng an. Si chẳng chỗ khởi và hướng thành động. Biết nhẹ nhàng nên thành
động. Cho nên si hành và giác hành thành một tướng vậy. Lấy đây làm phương
tiện, ngoài hành nên phân biệt. Như thế đây thành bảy người.
Đối với 7 người nầy vì sao xa sự tu hành? Vì sao tu hành
trì trệ?
Dục hành nhơn xa rời sự tu hành, lấy an có thể giáo hóa,
tín lực vậy. Si giác mỏng vậy. Sân hành nhơn xa rời sự tu hành, sự an có
thể giáo hóa, có ý lực vậy. Si giác mỏng. Si hành nhơn làm trễ nải việc tu
hành, khó thể giáo hóa, có si giác lực vậy. Tín ý mỏng. Dục sân hành nhơn
xa rời sự tu hành, sự an có thể giáo hóa, có tín ý lực vậy. Si giác mỏng.
Dục si hành nhơn làm trì trệ việc tu hành, khó có thể giáo hóa được, khó
yên để tin, si giác lực vậy. Sân si hành nhơn làm trì trệ việc tu hành,
khó có thể giáo hóa, chẳng an ý vậy, si giác lực. Đẳng phần hành nhơn làm
trì trệ việc tu hành, khó thể giáo hóa, chẳng yên trụ ý vậy. Có si giác
lực.
Lúc bấy giờ 7 loại người nầy do căn bổn phiền não nên chia
làm ba. Đó là dục hành nhơn, sân nhuế hành nhơn và si hành nhơn.
Hỏi rằng: Đây là 3 loại hành do nguyên nhơn gì vậy? Vì sao
có thể biết đây là dục hành nhơn; đây là sân hành nhơn và đây là si hành
nhơn? Vì sao hành việc thọ y, khất thực, tọa cụ hành xứ uy nghi?
Đáp rằng: Đó là chỗ tạo nhơn duyên lúc đầu. Các hành giới
lấy làm nhơn duyên, sai trái lấy làm nhơn duyên.
Vì sao các hành đầu tiên tạo ra nhơn duyên?
Đối với điều đầu tiên có phương tiện dễ thương vậy. Có
nhiều nghiệp lành, thành dục hành nhơn. Lại từ cõi chư thiên, bị sanh lạc
vào nơi nầy, thường hay khởi tâm sát hại tạo nên nghiệp oan trái, thành
sân hành nhơn. Chẳng thích nghiệp nơi che khuất. Từ địa ngục, từ rồng đọa
lạc sanh vào đây. Đầu tiên là do uống rượu nhiều và làm chuyện ly gián,
thành si hành nhơn. Từ súc sanh đọa lạc sanh vào đây; như thế các việc làm
đầu tiên tạo nên các nhơn duyên.
Thế nào là giới làm nhơn duyên?
Hai giới gần gũi vậy, thành si hành nhơn. Đó là địa giới
và thủy giới; hai giới gần gũi, thành sân hành nhơn. Đó là hỏa giới, phong
giới. Tất cả là 4 giới vậy, thành dục hành nhơn. Như thế tất cả các hành
giới là nguyên nhơn.
Vì sao lấy sự sai trái làm nguyên nhơn?
Lấy nhiều đờm dãi thành dục hành nhơn. Lấy nhiều sự ưa nói
thành sân hành nhơn. Lấy nhiều gió làm thành si hành nhơn. Lại cũng có nói
nhiều đờm dãi thành si hành nhơn. Tối đa gió thành dục hành nhơn. Như thế
đó là làm nhơn duyên cho việc sai trái.
Vì sao có thể biết người nầy là dục hành, người nầy là sân
hành và người nầy là si hành?
Đáp rằng qua bảy hành có thể biết được. Như thế do công
việc, do phiền não, do hành, do thọ giữ, do ăn, do nghiệp, do nằm mà ra.
Vì sao do công việc mà biết?
Dục hành nhơn thấy chỗ có công việc. Việc chưa thấy sẽ
thấy, liền thấy. Hằng quán nơi chơn thật sai trái chẳng tác ý. Đối với
công đức nhỏ,thành chẳng khó. Chẳng từ dục nầy giải thoát, liền quán chẳng
thể xả hành. Biết nơi việc khác. Các hành như thế, dục hành có thể biết
sân hành nhơn. Thấy sở hữu việc như thế. Như mỏi mệt chẳng thể nhìn lâu.
Tùy chỗ chấp sai để hủy hoại nhiều người. Đối với công đức nhiều, chẳng
thể không khó. Từ đây chẳng xả. Tuy lấy sự sai trái được rồi liền biết
hành những việc khác cũng như thế. Hành sân, hành có thể biết. Si hành
nhơn thấy chỗ có những việc như thế. Đối với công đức quá hoạn thành việc
tin nơi kia. Nghe người kia chỗ yếu lại yếu. Nghe nơi kia chỗ tán thán lại
tán thán. Tự chẳng biết vậy. Lấy những hành như thế đối với việc ngoài, si
hành có thể biết, như thế các việc.
Hỏi rằng: Vì sao lấy phiền não để biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn có 5 phiền não. Đó là đa hành, keo
kiệt, huyễn, siểm, dục. Đây nghĩa là 5 sân nhuế hành nhơn có 5 phiền não,
đa hành phẫn, hận, phú, khan, sân. Đây là 5. Si hành nhơn có 5 phiền não,
đa hành, lười, giải đãi, nghi, hối, vô minh là 5. Như thế phiền não có thể
biết.
Hỏi rằng: Cái gì là hành?
Đáp rằng: Dục hành nhơn lấy hành làm tánh. Cất bước chân
có tật đi ngang. Cất bước ngang thì bước chẳng rộng. Cất bước đi dễ
thương. Như thế lấy hành dục, hành có thể biết. Sân nhuế hành nhơn thấy
hành làm tánh, mau khởi bước, mau hạ chân. Tiếp theo là nửa bước giáp đất.
Như thế mà đi, người sân nhuế có thể biết. Si hành nhơn thấy hành làm
tánh. Dở chân, đạp đất rồi lại sát xuống, lấy chân chạm chân rồi đi, mà đi
như thế, si hành nhơn có thể biết, như thế để đi.
Sao gọi là lấy việc mặc áo làm dục hành nhơn?
Đáp rằng: Dục hành nhơn lấy việc đắp y làm tánh. Chẳng
thấy nhiều, chẳng khoan thai mặc y quá rộng. Ngay ngắn vừa vặn nhiều loại
ngắm nhìn dễ mến. Sân hành nhơn lấy mặc y làm tánh. Quá gấp, quá thừa,
chẳng ngay, chẳng gọn, chẳng thấy được chỗ dễ mến, chẳng thể thấy. Si hành
nhơn lấy việc đắp y mặc áo làm tánh. Nhiều chậm rãi, chẳng gọn, chẳng cân;
chẳng có loại nào dễ mến, dễ xem. Như thế lấy việc đắp y mặc áo có thể
biết được.
Hỏi rằng: Vì sao lấy chỗ ăn mà có thể biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn vui với béo, ngọt. Sân nhuế hành
nhơn vui với thù tạc. Si hành nhơn chẳng tập trung vui. Lại nữa dục hành
nhơn lúc ăn tự lượng đồ ăn tương ưng với điều mình muốn. Lại biết khí vị
chẳng xa ăn. Nếu được ít mùi vị, thành niềm vui lớn. Sân hành nhơn thấy
việc ăn, muốn lấy nhiều, ăn bớt, ăn đầy miệng. Nếu được ít đồ ăn thì lại
phiền não. Si hành nhơn thấy việc ăn chẳng đầy đủ, chẳng đoạn thực, chẳng
gặp lúc. Lấy ít mà ăn để dính nơi miệng; một nửa cho vào miệng; một nửa
rơi rớt nơi bàn, loạn tâm; chẳng nghĩ đến lúc ăn, như thế lấy dục có thể
biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy công việc để biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn quét dọn, đứng ngay quét tước
chẳng sạch, chẳng biết đất cát, lấy làm sạch sẽ. Sân hành nhơn nếu quét
tước, gấp rút quét dọn 2 bên, rồi quét đi đất cát. Vội nghe tuy sạch sẽ mà
chẳng bình đẳng. Ngu si hành nhơn nếu quét rác, thì khoan thai quét dọn đó
đây mà thấy nơi chẳng sạch, lại chẳng công bình. Như thế lổ chổ đây đó
v.v... Tất cả công việc bình đẳng làm ấy chẳng cùng với tâm. Đây là dục
nhơn sân hành ở nơi tất cả việc chẳng bình đẳng làm, chẳng dụng tâm. Si
hành nhơn loạn tâm làm nhiều chẳng thành. Như thế các việc có thể biết.
Hỏi: Vì sao lấy sự nằm ngồi?
Đáp rằng: Dục hành nhơn ngủ chẳng tiết chế. Ngủ trước,
chiếm chỗ ngủ làm cho trước sau giống nhau. An ổn đặt thân chỗ khuất lên
tay rồi ngủ. Nửa đêm có thay đổi liền dậy. Như có chỗ nghi liền đáp. Sân
hành nhơn lại nằm ngủ. Tùy theo đó mà nằm yên. Thân, mặt, mắt tần ngần.
Ban đêm nếu có người hoán đổi liền khởi sân mà đáp lại. Người si nếu nằm
ngủ nghỉ, nơi ấy chẳng trọn đủ. Nên tay chân che thân mà nằm. Trong đêm
nếu có người thay chỗ liền nghe tiếng ừ ừ thật lâu đáp lại. Như thế lấy
việc nằm ấy mà có thể biết.
Hỏi rằng: Làm gì và pháp gì? Dùng việc thọ y áo, ăn uống,
ngồi nằm, hành xứ?
Đáp rằng: Dục hành nhơn áo quần thô kệt chẳng ra hồn và
lấy đồ nầy mặc. Sân hành nhơn mặc đồ sạch sẽ, y áo thanh tịnh, màu còn tốt
dễ xem. Đây nên mặc. Si hành nhơn mặc tùy theo chỗ được mặc. Dục hành nhơn
khất thực thô, chẳng tinh khiết. Chẳng đẹp đẽ ý nghĩa về tiểu khất thực.
Sân hành nhơn khất thực mặc đồ đẹp tinh khiết, mùi thơm như ý là chỗ được
si. Hành nhơn khất thực tùy theo chỗ được có tiết chế.
Dục hành nhơn ngồi nằm ở dưới bóng gốc cây nơi có nước. Ở
nơi ít xa làng xóm. Lại nơi chẳng có chùa. Đối với nơi không có đồ nằm thì
ở đây nên ngồi ngủ. Sân hành nhơn ngồi nằm dước gốc cây gần nước, thành
tựu ngay ngắn. Đối với chùa viện có chỗ ngủ nghỉ đầy đủ thành nơi ngủ
nghỉ. Si hành nhơn nương vào đó. Gần gũi vị Thầy để ở. Dục hành nhơn hành
xứ, nơi ăn uống thô sơ. Nếu vào làng xóm nên hướng theo mặt trời mà đi.
Đối với nơi người ác, ở đây nên đi. Sân nhuế hành nhơn xứ, đối với việc
cơm nước, ăn uống đầy đủ. Theo ngày dài ra, nhiều người tin hướng đến nơi.
Chỗ nầy nên vào. Si hành nhơn tùy nơi được chỗ. Dục hành nhơn uy nghi, hay
đi bộ nhiều. Sân hành nhơn nương vào chỗ nằm ngồi. Si hành nhơn nương vào
nơi hành xứ. Đối với việc nầy tan ra. Kẻ muốn nương vào cảnh giới dễ mến
để tin. Sân nhuế là chẳng sự dễ mến cảnh giới làm tin. Si là cơ thể thấy
nguyên nhơn. Dục lại như nô bộc. Sân nhuế như là ông chủ. Si dụ như chất
độc. Tham nghĩa là ít quá hoạn, đoạn vô nhiễm. Sân nhuế quá hoạn lớn, làm
cho vô nhiễm. Si là đại quá hoạn, đoạn trừ vô nhiễm. Dục hành nhơn vui với
sắc. Sân hành nhơn vui với việc an định. Si hành nhơn vui với sự giải
đãi.-
Phẩm Phân
Biệt Hành Xứ
Thứ 7
Lúc đó y chỉ sư quán sát điều nầy nơi chỗ làm. Dạy cho 38 việc làm và sẽ
lại dạy cho 2 việc làm tương ưng.
Hỏi rằng: Thế nào là 38 hành xứ?
Đáp rằng: Đó là 10 tất cả nhập địa, thủy, hỏa, phong,
xanh, vàng, đỏ, trắng, không xứ, thức xứ tất cả nhập. Lại thêm 10 tưởng
bất tịnh như tưởng sình trướng, tưởng xanh phồng lên, tưởng đến sự thối
nát, tưởng về đồ liệng bỏ, tưởng đến đồ ăn của chim thú, tưởng đến thịt
từng phần của thân trướng lên, tưởng đến việc cưa chặt ra từng khúc, lại
tưởng vể máu huyết chảy đỏ, tưởng đến trùng hôi, tưởng đến xương cốt. Lại
có 10 niệm. Đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí,
niệm thiên, niệm tử, niệm thân, niệm số tức, niệm tịch tĩnh.Lại có 4 vô
lượng tâm. Đó là từ, bi, hỷ, xả và quán tưởng về 4 đại, ăn bất tịnh, vô sở
hữu xứ, phi phi tưởng xứ. Đây là tất cả 38 hành xứ. 38 hành xứ nầy lấy 9
hành làm chỗ biết cao cả. Một là lấy thiền, hai là lấy chánh việt, ba là
lấy tăng trưởng, bốn là lấy duyên, năm là lấy công việc, sáu là lấy thắng,
bảy là lấy địa, tám là lấy thủ, chín là lấy người.
Hỏi rằng: Thế nào là lấy thiền?
Đáp rằng: Đó là 10 hành xứ, thành thiền ngoại hành. Lại 11
hành xứ thành tựu sơ thiền. Lại 3 hành xứ thành tựu tam thiền. Lại một
hành xứ thành tựu tứ thiền. Lại 9 hành xứ thành tựu tứ thiền ngũ thiền.
Lại 4 hành xứ thành tựu vô sắc tứ thiền.
Hỏi rằng: Vì sao mà 10 hành xứ thành thiền ngoại hành?
Đáp rằng: Từ sổ tức và quán thân, ngoài 8 niệm và quán 4
đại thực bất tịnh tưởng. Đây gọi là 10 ngoại hành.
Hỏi rằng: Vì sao 11 hành xứ sơ thiền sở nhiếp?
Đáp rằng: 10 bất tịnh tưởng và quán thân. Đây gọi là sơ
thiền sở nhiếp.
Hỏi rằng: Thế nào là 3 hành xứ? 3 sở nhiếp?
Đáp rằng: Đó là từ, bi, xả.
Hỏi rằng: Thế nào là một hành xứ, tứ thiền sở nhiếp?
Đáp rằng: Đó là xả.
Hỏi rằng: Sao gọi là 9 hành xứ, tứ thiền ngũ thiền sở
nhiếp?
Đáp rằng: Trừ không nhứt thiết, nhập thức nhứt thiết nhập.
Ngoài ra còn 8 nhứt thiết nhập và sổ tức niệm.
Hỏi rằng: Sao là 4 hành xứ, 4 vô sắc sở nhiếp?
Đáp rằng: Hư không nhứt thiết nhập, thức nhứt thiết nhập,
vô sở hữu xứ, phi phi tưởng xứ. Đây gọi là 4 hành. Như thế lấy thiền có
thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy chánh việt?
Đáp rằng: Nhập hành xứ thành ra vượt quá sắc, trừ vô sắc
nhứt thiết nhập. Ngoài ra còn 8 nhứt thiết nhập. Ngoài ra có 30 hành xứ
chẳng thành việc vượt khỏi sắc. Lại có 3 hành xứ thành việc vượt khỏi. Ba
vô sắc nhứt thiết nhập và vô sở hữu nhập. Ngoài ra 35 hành xứ, chẳng thành
việc vượt qua. Lại có một hành xứ thành ra việt tưởng thọ. Đó là phi phi
tưởng xứ. Ngoài ra 37 hành chẳng thành việt tưởng thọ. Như thế lấy vượt
qua có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tăng trưởng?
Đáp rằng: Đó là 14 hành xứ có thể làm cho tăng trưởng. Đó
là 10 nhứt thiết nhập và tứ vô lượng tâm. Ngoài ra 24 hành xứ, chẳng nên
làm cho tăng trưởng. Như thế lấy tăng trưởng có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao làm duyên?
Đáp rằng: 9 hành xứ làm thần thông duyên. Trừ vô sắc nhứt
thiết nhập, bát nhứt thiết nhập và phân biệt hư không nhứt thiết nhập.
Ngoài ra 30 hành chẳng thành thần thông duyên. 37 hành xứ thành Tỳ Bà Xá
Na duyên (quán, kiến, chủng chủng quan sát). Trừ phi phi tưởng xứ. Lại có
một hành xứ chẳng thành Tỳ Bà Xá Na duyên. Cho nên phi phi tưởng xứ như
thế lấy duyên có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy công việc?
Đáp rằng: Đó là 21 hành xứ để phân biệt công việc. 12 hành
xứ là thật sự; 5 hành xứ chẳng nên nói phân biệt sự thật sự.
Hỏi rằng: Thế nào là 21 hành xứ là phân biệt sự?
Đáp rằng: Trừ thức nhứt thiết nhập. Ngoài ra 9 nhứt thiết
nhập; 10 bất tịnh tưởng và niệm sổ tức niệm thân.
Hỏi rằng: Vì sao 12 thật sự?
Đáp rằng: Thức nhứt thiết nhập, phi phi tưởng xứ và 10
thiền ngoại hành.
Hỏi rằng: Vì sao 5 việc chẳng nên nói phân biệt sự và thật
sự?
Đáp rằng: Đó là tứ vô lượng tâm và vô sở hữu xứ. Lại nữa
nhị hành xứ; nội doanh sự,nội sự. Lại 2 hành xứ; nội doanh sự, ngoại sự.
Lại một hành xứ, ngoại doanh sự nội sự. Lại 21 hành xứ; ngoại doanh sự
ngoại sự. Lại có 4 hành xứ, nội doanh sự, nội sự thiết ngoại sự. Lại có 4
hành xứ, thiết nội doanh sự thiết ngoại doanh sự ngoại sự. Lại hai hành
xứ, thiết nội doanh sự, thiết ngoại doanh sự, thiết nội sự, thiết ngoại
sự. Lại có một hành xứ nội doanh sự chẳng nên nói và nội sự ngoại sự. Đối
với đây 2 hành xứ nội doanh sự, nội sự; nghĩa là thức nhứt thiết nhập và
phi phi tưởng xứ. Lại có 2 hành xứ là nội doanh sự ngoại doanh sự. Cho nên
niệm sổ tức, niệm thân. Lại một hành xứ ngoại doanh sự, nội doanh sự. Cho
nên niệm tử. Lại 21 hành xứ ngoại doanh sự, ngoại sự. Nghĩa là 10 bất tịnh
tưởng. Tứ vô lượng tâm, tứ sắc nhứt thiết nhập, hư không nhứt thiết nhập
và niệm Phật, niệm Tăng. Lại 4 hành xứ nội doanh sự, nội sự thiết ngoại
sự. Nghĩa là niệm giới, niệm thí và quán nơi tứ đại. Và tưởng bất tịnh
thực. Lại 4 hành xứ thiết nội doanh sự, thiết ngoại doanh sự. Nghĩa là tứ
sắc nhứt thiết nhập. Lại 2 hành xứ thiết nội doanh sự, thiết ngoại doanh
sự, thiết nội sự, thiết ngoại sự. Nghĩa là niệm Pháp, niệm tịch tĩnh. Lại
một hành xứ nội ngoại doanh sự, nội sự. Nghĩa là niệm thiên. Lại một hành
xứ nội doanh sự, nội sự, ngoại sự chẳng nên nói. Nghĩa là vô sở hữu xứ.
Lại có hành xứ thuộc về việc quá khứ. Nghĩa là thức nhứt thiết nhập và phi
phi tưởng xứ. Lại một hành xứ, đối với việc vị lai. Cho nên gọi là niệm
tử. Lại một hành xứ đối với việc hiện tại. Đó là niệm thiên. Lại 6 hành xứ
thiết (xây dựng) việc trong quá khứ, xây dựng việc vị lai, xây dựng việc
hiện tại. Nghĩa là niệm Phật, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí. Và quán tứ
đại bất tịnh thực tưởng. Lại hai hành xứ, thiết lập việc quá khứ, thiết
lập việc hiện tại, thiết lập việc chẳng nên nói về quá khứ vị lai. Cho nên
niệm Pháp, niệm tịch tĩnh. Lại 26 hành xứ, chẳng nên nói việc 3 đời. Nghĩa
là 9 nhứt thiết nhập. 10 bất tịnh tưởng, tứ vô lượng tâm. Và niệm sổ tức,
niệm thân. Vô sở hữu xứ lại có 4 hành xứ là việc động. Nghĩa là lửa nhứt
thiết nhập, gió nhứt thiết nhập, trùng thối tưởng, niệm sổ tức. Nơi nầy
tức động. Tướng nầy chẳng động. Ngoài ra 34 việc bất động, như thế lấy
công việc mà biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy thắng?
Đáp rằng: 8 nhứt thiết nhập, tứ vô sắc định. Đây gọi là
thắng chơn thật sự vậy. Lấy 8 nhứt thiết nhập gọi là định thắng vậy. Đệ tứ
thiền kia được thắng địa vậy. Tứ vô sắc định thành thắng. 10 bất tịnh
tưởng và ăn bất tịnh tưởng. Đây gọi là tướng thắng. Lấy sắc, lấy hình, lấy
không, lấy phương, lấy phân biệt, lấy hòa hợp, lấy chấp trước, lấy bất
tịnh tưởng sự, lấy thập niệm xứ. Đây gọi là thắng niệm vi tế vậy. Tùy niệm
vậy. Tứ vô lượng tâm lấy vô quá làm thắng. Thọ nhiêu ích mà quán về tứ
đại. Gọi là huệ thắng. Lấy chấp trước không; nên như thế lấy thắng có thể
biết.
Hỏi rằng: Thế nào là lấy địa?
Đáp rằng: 12 hành xứ, chẳng sanh nơi cõi trời. Nghĩa là 10
bất tịnh và niệm thân, thực bất tịnh tưởng. Lại có 13 hành xứ, chẳng sanh
nơi sắc hữu. Đầu tiên là 12 và sổ tức, niệm bất sanh hữu sắc. Trừ tứ vô
sắc xứ. Ngoài ra hành xứ chẳng sanh nơi vô sắc hữu. Như thế lấy địa có thể
biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy thủ?
Đáp rằng: Đó là 17 hành xứ. Lấy kiến nên thủ tướng. Trừ
gió, nhứt thiết nhập và vô sắc nhứt thiết nhập. Ngoài ra 7 nhứt thiết
nhập, 10 bất tịnh tưởng. Lại một hành xứ, lấy xúc nên thủ tướng. Nghĩa là
niệm sổ tức, lại một hành xứ. Hoặc lấy kiến, hoặc lấy xúc nên thủ. Nghĩa
là gió, nhứt thiết nhập. Ngoài ra 19 hành xứ, lấy nghe phân biệt nên thủ.
Lại 5 hành xứ; người mới tọa thiền chẳng nên tu hành tứ vô sắc và xả, dư
32. Người mới học thiền nên thủ. Như thế lấy thủ mà biết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy người?
Đáp rằng: Dục hành nhơn, tứ vô lượng, chẳng nên tu hành,
lấy tịnh tướng vậy. Vì sao thế? - Dục hành nhơn tác ý, tịnh tưởng chẳng
phải chỗ làm. Như người bịnh đờm, ăn nhiều mập phì, chẳng phải nghi chỗ
nầy. Sân hành nhơn 10 bất tịnh tưởng, chẳng nên tu hành. Sân si tưởng vậy.
Sân nhuế tác ý, chẳng phải chỗ làm. Như người bịnh đờm uống ăn hao nhiệt,
chẳng phải chỗ nghi. Si hành nhơn chưa tăng trưởng trí, chẳng nên làm cho
khởi lên nơi sự tu hành, lìa phương tiện vậy. Nếu lìa phương tiện thì tinh
tấn không có kết quả. Như người cỡi voi chẳng có dây cương. Dục hành nhơn
nên tu bất tịnh tưởng và quán thân. Đây là dục đối trị vậy. Sân hành nhơn
nên tu tứ vô lượng tâm. Đây là sân đối trị vậy. Hoặc sẽ tu sắc nhứt thiết
nhập, tâm tùy theo đó vậy. Tín hành nhơn nên tu lục niệm xứ. Niệm Phật lấy
làm đầu, rồi tín định vậy. Ý hành nhơn nên tu quán tứ đại. Đối với thực
bất tịnh tưởng. Niệm tử, niệm tịch tĩnh nhiễm xứ vậy.
Lại nữa ý hành nhơn đối với nhứt thiết hành xứ chẳng thể
phương hại. Giác hành nhơn nên tu niệm sổ tức lấy đoạn giác vậy. Si hành
nhơn lấy lời hỏi pháp. Lấy thì gian nghe pháp, lấy pháp cung kính. Cùng
với Thầy ở chung, làm cho trí tuệ tăng trưởng. Đối với 38 hành, tùy theo
đó mà vui; nên sẽ tu niệm tử. Và quán tứ đại tối thắng. Lại nói đối với
phân biệt hành xứ, ta thấy kia hơn. 6 người đối với chỗ phân biệt lược bớt
mà chia thành 3.
Hỏi rằng: Nếu tự nhiên đối với việc ban đầu có hại?
Đáp rằng: Hai dục hành nhơn. Nghĩa là thuần căn lợi căn.
Vì thuần căn dục nhơn, tu bất tịnh quán. Vì dục nầy đối trị. Đây là chỗ
nên dạy làm, tu được trừ dục. Lợi căn dục nhơn, lòng tin đầu tăng trưởng,
sẽ tu niệm xứ. Đây là chỗ nên dạy làm, tu được trừ dục.
Nhị sân hành nhơn. Nghĩa là thuần căn lợi căn. Vì thuần
căn sân nhuế hành nhơn,tu tứ vô lượng. Đây lấy sân nhuế đối trị. Đây là
chỗ nên dạy làm, tu được trừ sân. Lợi căn sân nhuế hành nhơn lấy trí tăng
trưởng tu hành thắng xứ. Đây là chỗ dạy tu được trừ sân.
Nhị si hành nhơn; nghĩa là vô căn thuần căn si hành nhơn;
chẳng nên dạy tu hành xứ. Vì thuần căn si hành nhơn. Vì trừ giác, nên dạy
tu niệm sổ tức. Như thế đây được bớt, chỉ thành 3 người. Đây lại chẳng
hại. Đối với pháp nầy tất cả nhập và sổ tức, lấy sự không tăng trưởng, vô
hại thành tất cả việc làm. Nếu được thắng công đức nầy rồi, hơn tất cả
việc làm, chỗ làm và nơi ấy thành chẳng hại.
Luận Về Con Đường Giải Thoát
Hết Quyển 3
--o0o--
Mục Lục
|
Quyển 1 |
Quyển 2
|
Quyển 3 |
Quyển 4
|
Quyển 5 |
Quyển 6
Quyển 7
|
Quyển 8
| Quyển
9 |
Quyển 10
| Quyển
11 |
Quyển 12
--o0o--
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật : 10/2006