LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI
THOÁT
- Đại Chánh
Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32
thuộc Luận
Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648.
Hán văn từ
trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển.
Tác giả: - Ngài
A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa)
Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala)
nước Phù Nam
dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.
- Sa Môn Thích Như Điển,
dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt
--o0o--
Quyển thứ 7
- Ngài A La Hán Ưu Bà Đệ Sa
tạo luận bằng chữ Phạn.
- Đời nhà Lương, người nước Phù Nam,
Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La
dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.
- Sa Môn Thích Như Điển,
Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc,
dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt
tại thư phòng chùa Viên Giác Đức Quốc
ngày 12 tháng 5 năm 2006 nhằm ngày Rằm Tháng Tư năm
Bính Tuất, Phật lịch 2550.
Phẩm Hành Môn
Thứ Tư
Hỏi rằng: Thế nào là niệm An
Ban? Tu cái gì? tướng gì? Vị gì? Xứ gì và công đức như thế nào? Vì sao
phải tu hành?
Đáp rằng: An nghĩa là nhập; ban
nghĩa là xuất. Ở nơi xuất nhập nầy là tướng. Niệm kia tùy theo niệm và
chánh niệm. Đây gọi là niệm An Ban. Tâm trụ chẳng lọan, nghĩa là tu; làm
cho An Ban khởi tưởng là tướng; xúc, tư duy là vị. Lấy đọan giác làm xứ.
Công đức ấy là gì? Nếu người tu hành niệm đến An Ban sẽ trở thành tịch
tĩnh, trở thành thắng diệu và thành trang nghiêm, dễ được tự vui. Nếu
nhiều việc ác khởi lên, chẳng có thiện pháp thì làm cho diệt trừ. Thân nầy
trở nên chẳng giải đãi; mắt lại cũng chẳng lười biếng; thân trở nên chẳng
giao động; tâm cũng trở nên chẳng giao động; làm cho đầy đủ Tứ Niệm Xứ;
làm cho đầy đủ Thất Giác Ý; làm cho đầy đủ giải thóat. Chỗ Đức Thế Tôn ca
tụng; chỗ các vị Thánh dừng nghỉ. Chỗ các vị Phạm Hạnh trụ lại. Chỗ Đức
Như Lai an trụ.
Vậy phải tu cái gì?
Với người mới tọa thiền; hoặc
trải qua nơi A Lan Nhã; hoặc ở dưới gốc cây; hoặc ở nơi yên lặng; ngồi
kiết già, thân ngay nhìn thẳng. Người ngồi thiền khi hơi thở vào và nhớ
khi hơi thở ra. Khi hơi thở ra nếu dài, thì ta nhớ đến hơi ra dài; cứ như
thế mà biết. Nếu hơi thở vào sâu, thì ta nhớ đến hơi thở vào sâu. Cứ như
thế mà rõ biết. Nếu hít vào hơi ngắn thì ta biết hơi vào ngắn. Cứ như vậy
mà biết. Nếu hơi thở ra ngắn thì ta biết hơi thở ra ngắn. Như thế mà biết.
Khi hơi thở vào, như thế ta
biết. Khi hơi thở ra, như thế ta biết. Đây là chỗ tri hỷ, tri lạc, tri tâm
sở hành. Làm cho các hành động của tâm mất đi, làm cho tâm hoan hỷ, sai
khiến dạy dỗ tâm. Làm cho tâm giải đãi thấy được vô thường, thấy được chỗ
chẳng mong cầu. Thấy được sự mất mát, thấy sự lìa khỏi; như thế mà biết.
Thấy sự xa rời, ta thở ra, như thế mà rõ. Thấy sự xa rời, ta hít vào, như
thế mà biết. Đối với việc nầy, ngay tức khắc làm cho được an. Nghĩa là sự
nhớ nghĩ ấy trụ nơi lỗ mũi; hoặc ở nơi cửa miệng mà hơi thở ra vào làm nơi
nương tựa. Người ngồi thiền kia lấy làm an ổn nhớ nghĩ nơi nầy.
Khi hơi thở vào, hơi thở ra ở
nơi mũi hoặc miệng, lấy sự nhớ nghĩ mà quán về xác; hoặc hiện tại nhớ nghĩ
làm cho hơi thở vào; hoặc hiện tại nhớ nghĩ làm cho hơi thở ra. Ngay lúc
ấy hơi thở vào chẳng tác ý và lúc thở ra lại cũng chẳng tác ý. Đây là chỗ
tiếp xúc của hơi thở ra vào; nơi lỗ mũi; nơi môi miệng, lấy niệm quán để
biết chỗ tiếp xúc. Hiện tại biết làm cho hơi vào; hiện tại biết làm cho
hơi ra. Như người cưa cây nương vào cái sức của cưa, lại chẳng tác ý cưa,
đến đi.
Như người tọa thiền đối với hơi
thở vào ra lại chẳng tác ý. Tưởng đến hơi thở vào ra, chỗ tiếp xúc với mũi
và môi miệng, lấy sự chú tâm mà quán để biết; hiện đang nhớ đến và làm cho
hơi thở vào. Hiện đang nhớ đến và làm cho hơi thở ra. Nếu người tọa thiền,
đối với việc vào ra của hơi thở nầy mà tác ý, thì trong ngoài tâm nầy sẽ
trở nên lọan động. Nếu tâm khởi lọan thì thân và tâm nầy trở thành giải
đãi giao động. Đây là việc lo lắng. Nếu hơi thở quá dài hay hơi thở quá
ngắn chẳng nên tác ý. Nếu chỗ tác ý ấy vì quá dài hay quá ngắn của hơi thở
thì thân và tâm nầy trở thành giải đãi giao động. Đây là điều đáng lo. Bởi
vì hơi thở ra vào có nhiều tướng khác nhau vậy. Chẳng nên tác ý dính mắc
vào. Nếu như thế mà tâm tác ý nương vào thì sẽ thành lọan. Nếu tâm lọan
thì thân và tâm nầy tất cả đều giải đãi giao động. Như thế rồi sự sai trái
ấy không có ngằn mé. Khởi lên hơi thở ra vào rồi lấy vô biên xúc và nên
tác ý tưởng như thế thì tâm nầy chẳng lọan. Nếu tâm trì hoãn; nếu tâm sinh
tật, chẳng phải siêng năng. Nếu cố làm cho sự trì hoãn ấy tinh tấn lên,
thành ra giải đãi buồn ngủ và nếu làm cho tâm sinh tật kia tinh tấn lên mà
thành ra sự khởi động điều phục. Nếu người tọa thiền mà sự giải đãi buồn
ngủ cùng khởi lên một lúc và sự điều phục cùng khởi lên thì thân và tâm
nầy thành giải đãi giao động. Đây là sự quá hoạn (lo lắng).
Người tọa thiền kia lấy chín
lọai tiểu phiền não làm cho tâm thanh tịnh và hiện nhớ đến hơi thở vào.
Tướng kia được khởi lên. Đây gọi là danh tướng. Như vải chạm vào thân
thành ra niềm vui; như gió mát chạm vào thân thành vui. Như thấy hơi thở
vào ra chạm với gió. Mũi, môi, miệng nhớ nghĩ đến gió, chẳng phải do hình
sắc. Đây gọi là tướng.
Nếu người tọa thiền lấy Tu Đa
Tu làm tướng thành tăng trưởng và nếu ở mũi tăng trưởng thì đối với giữa
môi và giữa trán; thành đa xứ trụ; thành mãn đầu phong. Từ nơi tăng trưởng
nầy mà toàn thân vui hơn. Đây gọi là đầy đủ.
Lại cũng có người tọa thiền, từ
lúc ban đầu thấy dị tướng như khói, như sương, như bụi, như bột vàng;
giống như kim chích, như kiến bò; thấy đủ màu sắc. Nếu người tọa thiền tâm
chẳng rõ ràng thì đối với dị tướng kia, tâm tạo ra tưởng khác và thành ra
điên đảo; chẳng thành tưởng đến sự ra vào của hơi thở. Nếu người tọa thiền
rõ ràng rồi, chẳng tạo ra ý tưởng khác; nhớ nghĩ hiện tại hơi thở vào và
nhớ nghĩ hiện tại hơi thở ra; tuy tác dư tưởng. Nếu tác ý như thế thì dị
tướng kia liền mất. Người tọa thiền nầy được tướng vi diệu, tâm chẳng
phóng dật; hơi thở vào trong hiện tại thì nhớ hơi thở vào; hơi thở ra
trong hiện tại thì nhớ hơi thở ra. Tướng kia tự tại. Dùng tướng tự tại ấy
muốn khởi lên chỗ tu hành. Do dự muốn tự tại mà nhớ đến hơi thở vào trong
hiện tại và nhớ hơi thở ra trong hiện tại, khơi lên niềm vui, vui rồi tự
tại. Sự mong muốn tự tại rồi, nhớ nghĩ hơi thở vào trong hiện tại; nhớ
nghĩ hơi thở ra trong hiện tại khởi lên xả. Xả tự tại rồi thì với dục tự
tại và hỷ tự tại, nhớ đến hơi thở vào trong hiện tại; nhớ đến hơi thở ra
trong hiện tại, tâm nầy chẳng loạn động; nếu tâm không lọan động thì các
sự che khuất mất đi và các phần của Thiền khởi lên. Kẻ tọa thiền nầy được
tịch diệt thắng ở vào Tứ Thiền Định. Như ban đầu đã nói rộng. Lại nữa như
trước Ngài đã nói về 4 lọai tu niệm An Ban. Cho nên tùy theo đó mà an trí
các việc quán.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là toán?
Đáp rằng: Đối với người mới tọa
thiền, từ khi mới bắt đầu thở ra và cho đến lúc hít vào, từ 1 đến 10; hơn
10 chẳng tính. Lại nói từ 1 đến 5; quá 5 chẳng tính; chẳng làm cho ý sai
trái. Lúc đang đếm cho đến lúc lìa đếm. Từ khi việc hơi thở ra nhớ giữ
lại. Đây gọi tên là Toán. Tùy theo đó mà nhiếp tâm vào sự đếm, lấy niệm
chẳng gián đoạn, tùy theo đó mà hơi thở ra vào. Đây gọi là tùy toại, cũng
còn tên là an trí; hoặc nơi mũi, hoặc nơi môi. Đây gọi là hơi thở ra vào
chỗ tiếp xúc. Đối với sự tạo ra gió kia, tướng ấy làm cho sự nhớ nghĩ trụ
lại. Đây gọi là an trí, lại có tên là tùy quán. Do xúc tự tại và tùy theo
tướng quán và đối với chỗ khởi hỷ lạc nầy so với pháp khác, nên tùy theo
đó mà quán. Đây gọi là tùy quán. Sự tính đếm kia biết mất thì làm cho được
lìa quán. Tùy toại nghĩa là làm cho diệt thô quán. Đối với hơi thở ra vào
làm cho niệm vô gián an trí, làm cho đoạn nơi loạn, tạo ra tưởng chẳng
động.
Tùy quán là thọ trì sự nhớ nghĩ
làm tri thắng pháp. Nếu hơi thở dài hoặc hơi thở ngắn thì lúc hít vào ngắn
như thế mà biết. Dùng phương tiện chỗ tạo ra nơi tánh nầy. Đây gọi là dài.
Tánh ấy hiện ra sự biết về hơi thở ngắn trong giây phút ấy nên chẳng ngu
si.
Hỏi rằng: Vì sao lại chẳng ngu
si?
Đáp rằng: Người tọa thiền thân
tâm được thơ thới, lấy hơi thở vào ra, nhớ đến chỗ làm trong hiện tại mà
trụ. Đây trở thành nhỏ nhiệm khi hơi thở vào ra. Do vậy hơi thở vào ra nhẹ
nhàng vậy. Trở nên tự nhiên chẳng cần giữ. Lúc bấy giờ người tọa thiền nếu
muốn hơi thở dài thì tùy theo đó mà quán dài. Ngoài ra có tướng khởi lên
việc trụ lại. Nếu tướng đã khởi trụ rồi thì lấy tánh ấy mà tác ý. Đây gọi
là chẳng ngu si.
Lại nữa nên làm cho tâm ta mất
hơi đi. Có lúc dài hay có lúc ngắn. Cứ như thế mà hành trì.
Lại nữa người người tọa thiền
hãy lấy tướng của việc ra lệnh rõ ràng mà khởi lên. Đây là công việc cần
thực hành. Biết tất cả thân của ta khi hơi thở vào, như thế người học
thiền ở giai đoạn thứ hai rõ biết tất cả về thân. Cho nên đây gọi là chẳng
ngu si vậy.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là chẳng
ngu si mà biết tất cả về thân?
Đáp rằng: Người tọa thiền niệm
về định An Ban. Thân tâm hỷ lạc tạo nên sự đầy đủ. Do hỷ lạc tiếp xúc đầy
đủ mà tất cả thân thành chẳng ngu si.
Hỏi rằng: Vì sao mà lấy sự biết
về tất cả thân?
Đáp rằng: Đó là sự vào ra của
hơi thở. Chỗ ấy gọi là nhứt xứ trụ sắc thân. Việc vào ra của hơi thở, tâm,
tâm số pháp gọi là thân. Sắc thân nầy gọi là thân. Đây nghĩa là tất cả
thân. Kẻ tọa thiền kia như thế mà thấy biết tất cả thân. Tuy có thân;
nhưng chẳng có chúng sanh và có mạng sống. Như thế kẻ thực tập nên biết.
Nghĩa học ấy có 3. Đó là Tăng
thượng giới học; hai Tăng thượng tâm học; ba là Tăng thượng huệ học. Như
thật giới; đây gọi là Tăng thượng giới học. Như thật định; đây nghĩa là
Tăng thượng tâm học. Như thật huệ; đây nghĩa là Tăng thượng huệ học. Đối
với người tọa Thiền kia; đây gọi là 3 học. Đối với việc kia, lấy niệm, tác
ý làm chỗ học, tu rồi, tu nhiều. Đây có nghĩa là sự học làm cho diệt mất
chỗ làm nơi thân. Khi ta thở vào phải biết (học) như thế.
Vì sao gọi tên là thân hành
vậy?
Đây nghĩa là hơi thở vào ra mà
làm nơi thân như thế. Thân hình của mình theo đó mà giao động rung chuyển.
Như thế đối với chỗ làm của thân, hiện ra làm cho yên lại. Lại nữa đối với
thân thô, việc làm ấy trong hiện tại làm cho yên lặng. Lấy chỗ tế của thân
mà tu hành nơi sơ thiền. Từ nơi kia lấy cái nhỏ nhất mà tu hành đệ nhị
thiền. Từ cái nhỏ nhất kia tu hành thành đệ tam thiền. Làm cho diệt hết
tất cả không còn gì thì gọi là đệ tứ thiền.
Hỏi rằng: Nếu vô dư mất thì hơi
thở vào ra lấy gì mà nhớ nghĩ đến An Ban?
Đáp rằng: Đó là giữ tướng thiện
là đầu tiên vậy. Lấy diệt làm hơi thở ra vào. Tướng nầy được khởi lên,
thành tướng tu hành. Vì sao vậy? Những tướng của người tu thiền biết vui
mà biết được hơi thở vào của ta. Như thế nên học (biết). Người kia nhớ
nghĩ trong hiện tại về hơi thở vào và nhớ nghĩ trong hiện tại về hơi thở
ra. Đối với chỗ thiền thứ 2, khởi lên niềm vui. Niềm vui kia lấy 2 việc
làm thành trí. Nên chẳng ngu si vậy. Lấy việc ấy cho nên đối với người tọa
thiền nhập định, thành rõ biết niềm vui. Lấy chẳng ngu si mà quán vậy. Lấy
đó mà đối trị. Lấy việc ấy thành biết vui về hơi thở vào của ta. Như thế
nên học (biết). Sự nhớ nghĩ về hơi thở hiện vào và sự nhớ nghĩ về hơi thở
hiện ra, mà nơi tam thiền khởi lạc. Niềm vui kia lấy 2 việc làm thành ra
biết. Cho nên chẳng ngu si vậy. Đó là việc ấy. Như lúc đầu đã nói, như tâm
đã làm, ta biết hơi thở vào của ta. Như thế kẻ học biết nói là tâm hành.
Đây nghĩa là tưởng thọ. Đối với cảnh của tứ thiền khởi lên chỗ làm của tâm
kia, lấy 2 việc làm ấy mà biết. Nên chẳng ngu si vậy. Việc ấy là như thế.
Cũng như ban đầu đã nói: Làm cho tâm yên tĩnh qua hơi thở vào của ta, như
thế kẻ học nói là tâm hành. Đây nghĩa là tưởng thọ.
Đối với tâm thô, làm cho yên
tĩnh, phải học cách làm như lúc ban đầu. Biết tâm của ta, lúc hơi thở ra
vào. Như thế phải biết (học). Kẻ kia hiện tại nhớ nghĩ đến hơi thở vào và
hiện tại nhớ đến hơi thở ra. Tâm nầy vào ra, việc ấy lấy 2 chỗ làm mà
thành ra biết. Cho nên chẳng ngu si vậy. Như trước đã nói. Làm cho tâm
hoan hỷ khi hơi thở của ta ra vào. Như thế kẻ thực hành nói làm cho hoan
hỷ và nói vui.
Đối với chỗ nhị thiền lấy sự
vui làm cho tâm tinh tấn. Phải học làm như nói lúc ban đầu. Ra lệnh giáo
hóa tâm về hơi thở vào của ta. Như thế kẻ học là người tọa thiền trong
hiện tại nhớ đến hơi thở vào và trong hiện tại nhớ đến hơi thở ra. Lấy
niệm làm chỗ tác ý. Tâm kia đối với việc nầy, làm cho ở yên, làm cho
chuyên môn. Một lòng giáo hóa để làm cho tâm kia ở yên. Phải học và làm
cho tâm giải thoát của ta khi hơi thở ra vào. Như thế kẻ học là người tọa
thiền kia, trong hiện tại nhớ đến hơi thở vào và trong hiện tại nhớ đến
hơi thở ra. Nếu tâm trì hoãn giải đãi thì phải làm cho giải thoát. Nếu tâm
biếng nhác, từ đây điều phục và phải làm cho giải thoát. Nếu tâm cao mạn,
từ đây bị nhiễm, phải học và làm cho giải thoát. Nếu tâm hạ liệt, từ đây
sân nhuế, làm cho giải thoát. Nếu tâm bị ô nhiễm từ những phiền não nhỏ
thì phải học làm cho giải thoát.
Lại nữa đối với việc nầy nếu
tâm chẳng đắm vào chỗ lạc, phải học về sự chấp trước ấy, thường thấy vô
thường khi hơi thở của ta vào ra. Như thế kẻ học kia trong hiện tại nhớ về
hơi thở vào và trong hiện tại nhớ về hơi thở ra. Việc vào ra của hơi thở
và khi hơi thở vào ra, tâm tâm số pháp thấy sự sanh diệt nầy phải biết
(học). Thường thấy chẳng ham nơi hơi thở vào của ta. Như thế phải học để
rõ hơi thở vào trong hiện tại và hơi thở ra trong hiện tại. Về pháp vô
thường kia và về pháp vô dục kia. Đây là chỗ đã vào Niết Bàn về hơi thở
vào ra. Thường hay thấy diệt ngã nơi hơi thở vào. Như thế kẻ học về pháp
vô thường kia như đang thấy thật là quá hoạn (lo lắng). Cái ta kia mất đi
tức là Niết Bàn. Đây là sự thấy tịch diệt. Thường thấy ra ngoài hơi thở
vào của ta. Như thế phải học. Pháp vô thường kia, thấy như thật là sự lo
lắng nầy. Đối với sự lo lắng ấy hiện tại phải xả bỏ, rồi dừng lại chỗ tịch
tịnh Niết Bàn. Làm cho tâm kia được an lạc phải biết (học). Như thế, sự
tịch tịnh đây gọi là diệu. Cho nên tất cả chỗ hành đều tịch tịnh. Tất cả
phiền não được xa rời, vô dục thì sẽ tịch tịnh Niết Bàn. Đối với 16 xứ
nầy, đầu tiên 12 xứ thành Sa Ma Tha (Samatha = chỉ, tịch tĩnh, năng diệt),
Tỳ Bà Xá Na (Vipasana = quán, kiến, chủng chủng quan sát). Thấy đầu tiên
là vô thường. Sau đó 4 xứ chỉ thành Tỳ Bà Xá Na. Như thế mà rõ biết đây là
Sa Ma Tha, Tỳ Bà Xá Na.
Lại nữa cái kia tất cả có 4
loại. Một là tu như thế làm cho khởi lên sự xem xét đầy đủ. Có lúc thấy
hiện tại nhớ nghĩ về hơi thở vào và hiện tại nhớ về hơi thở ra. Đây được
gọi là tu biết về sự dài ngắn. Làm cho mất đi những hành động của thân và
làm cho mất đi những hành động của tâm, làm cho tâm trở nên hoan hỷ, làm
cho việc giáo hóa tâm, làm cho tâm giải thoát. Đây nghĩa là làm cho khởi
lên tất cả thân biết vui và biết chỗ làm của tâm. Biết tâm ở đây có nghĩa
là quán sát đầy đủ, thường hay thấy vô thường là chỗ làm đầu tiên trong 4
việc. Đây gọi là có lúc thấy.
Lại nữa người tu, lấy niệm An
Ban làm chỗ thọ trì để tu. Đây gọi là niệm An Ban thọ trì địa. Sự thọ trì
nầy gọi là hữu học. Đây là có giác, có quán và có mục đích quán. Biết niềm
vui ấy là nhị thiền vậy. Biết lạc tức là tam thiền. Biết tâm mình ấy là đệ
tứ thiền.
Lại nữa tất cả điều kia đều trở
thành 2 loại. Nghĩa là tu và đầy đủ. Lấy việc tu hành làm chính. Tuy nhiên
gọi kia là đầy đủ. Còn gọi là mãn. Giống như hoa quả, từ tướng giống nhau
mà sanh vậy. Nếu như thế mà tu hành, ấy là niệm An Ban. Thành đầy đủ Tứ
Niệm Xứ. Tu Tứ Niệm Xứ đầy đủ thành bảy phần Bồ Đề. Tu bảy phần Bồ Đề đầy
đủ thành minh giải thoát.
Hỏi rằng: Vì sao lại được như
thế?
Đáp rằng: Hơi thở vào ra dài là
chỗ đầu của tứ xứ, thành thân niệm xứ. Biết được chỗ khởi lên đầu tiên
được gọi là thọ niệm xứ. Biết được chỗ tâm đầu tiên thành tâm niệm xứ.
Thấy chỗ vô thường, đầu tiên thành pháp niệm xứ. Như thế tu niệm An Ban,
thành đầy đủ Tứ Niệm Xứ.
Vì sao lại lấy tu tứ niệm xứ để
thành đầy đủ 7 phần Bồ Đề? Lúc tu niệm xứ, lấy sự nhớ nghĩ thành trụ,
chẳng ngu si. Đây nghĩa là niệm giác phần. Kẻ tu thiền kia, như thế việc
nhớ nghĩ được ở yên. Biết về khổ và những việc vô thường; đây nghĩa là
chọn pháp của Bồ Đề phần. Như thế hiện tại chọn lựa pháp để tu, siêng năng
chẳng trì hoãn. Đây gọi là Tinh Tấn Giác Phần. Do sự tinh tấn mà khởi lên
hỷ, chẳng phiền não. Đây gọi là Hỷ Giác Phần. Do tâm hoan hỷ mà tâm nầy và
thân thành ra vui vẻ. Đây gọi là Y Giác Phần. Do thân vui vẻ, có lạc; nên
tâm nầy trở thành định. Đây gọi là Định Giác Phần. Như thế tâm định thành
xả. Đây gọi là Xả Giác Phần. Lấy tu tứ niệm xứ, thành đầy đủ thất Bồ Đề
Giác Phần.
Vì sao lấy tu thất Bồ Đề giác
phần thành đầy đủ minh giải thoát?
Như thế siêng tu hành thất Bồ
Đề phần, mà con đường sát na, trở thành sáng sủa đầy đủ. Dùng cái quả của
sát na ấy, thành việc giải thoát đầy đủ. Đây là tu thất Bồ Đề phần thành
minh giải thoát đầy đủ.
Hỏi rằng: Tất cả các hành, do
địa mà thành hữu giác, vô giác. Như thế niệm An Ban vì sao ở đây chỉ nói
niệm An Ban, chỉ trừ giác mà chẳng nói dư ra?
Đáp rằng: Chẳng nương vào điều
nầy để nói giác. Chẳng trụ vào nơi ấy vì là chướng ngại thiền. Cho nên trừ
giác mà nương vào nghĩa nầy để nói vậy.
Tại sao lại lấy gió mà vui với
xúc?
Do tâm vui mà giác như thế. Càn
Thát Bà nghe tiếng cũng theo đó mà đắm trước. Cho nên bị mất tính giác.
Lại nữa như làm cái đê, lấy tâm chuyên niệm, vui chẳng động ấy. Cho nên
nói là niệm An Ban trừ giác là vậy.
Hỏi rằng: Vì sao mà niệm tử? Tu
điều gì? tướng gì? vị gì? xứ gì và công đức nào? và vì sao tu?
Đáp rằng: Thọ mạng mất. Đây
nghĩa là chết. Niệm kia trụ chẳng loạn. Đây nghĩa là tu. Lấy việc thọ mạng
mất làm tướng. Sự lo lắng làm vị. Lấy vô nan làm xứ. Công đức nào? - Nghĩa
là nếu người tu hành nhớ đến việc chết thì lấy pháp lành cao nhất thành
chẳng phóng dật, trở thành ghét pháp chẳng lành. Lấy đồ phục sức chẳng
nhiều để mặc, tâm chẳng keo kiệt. Thấy thọ mệnh của thân, tâm chẳng tham
trước, liền nghĩ đến vô thường, nhớ đến khổ và vô ngã. Tất cả đều làm cho
đầy đủ, thành ra hướng đến cõi lành, hướng đến chỗ yên ổn. Khi lâm chung,
tâm chẳng lầm lẫn.
Vì sao người tu hành mới tọa
thiền nhập vào tịch tĩnh?
Vì ngồi nhiếp tất cả tâm, lấy
tâm bất loạn nhớ đến sự chết của chúng sanh. Ta vào trong pháp chết, hướng
đến cõi chết; chẳng sợ pháp chết; giống như trong kinh Niết Đề Phúc Ba Đà
đã nói: Nếu có người vui quán về sự chết thì hãy nên quán về kẻ bị giết và
thấy nhơn duyên của sự chết, mà đối với niệm tử nầy có 4 loại. Tương ưng
với lo, tương ưng với sợ, tương ưng với người khác và tương ưng với trí.
Như có tâm yêu mến con, tâm sanh duyên niệm. Đây gọi là tương ưng với lo.
Thương nhớ con mình đã sớm mệnh chung. Đây gọi là niệm tương ưng với sự sợ
hãi. Như người bị thiêu nhớ đến sự lìa sự sống vậy. Đây gọi là niệm tương
ưng với người khác. Thường quan sát thế gian tâm sanh lo sợ. Đây gọi là
niệm tương ưng của trí. Đối với người tọa thiền nầy sự tương ưng của lo
sợ, sự tương ưng của sự sợ hãi, sự tương ưng với người khác chẳng nên tu
hành.
Vì sao chẳng nên trừ sự lo lắng
mà chỉ có trí tương ưng thì nên siêng năng tu hành?
Hay trừ sự lo lắng nầy, kẻ chết
có 3 loại. Đó là đẳng tử, đoạn tử và niệm niệm tử.
Vì sao gọi tên là đẳng tử?
Nương vào nơi chúng sanh vậy.
Đây gọi là đẳng tử; gọi tên là đoạn tử; nghĩa là A La Hán các phiền não đã
đoạn rồi. Tên là niệm niệm tử; vì các việc làm và các niệm đã diệt.
Lại nữa tử có 2 loại. Đó là
chết theo thời tiết và chẳng theo thời tiết. Hoặc tự giết; hoặc bảo người
khác giết; hoặc bịnh; hoặc chẳng có nguyên nhơn trung gian mà chết. Đây
gọi là chết chẳng đúng thời tiết. Hoặc thọ mạng đã hết cho đến việc già mà
chết. Đây gọi là chết đúng thời tiết. Nên nhớ đến 2 loại chết nầy.
Lại nữa có 8 loại hành như
trước đã nói về chỗ tu niệm nhớ nghĩ đến việc chết. Như người hung ác
theo; chẳng có nhơn duyên; lấy chỗ chấp gốc; lấy thân nhiều phụ thuộc; lấy
thọ mệnh chẳng còn sức; lấy sự phân biệt dài lâu; lấy vô tướng; lấy sát na
vậy.
Hỏi rằng: Vì sao lấy người hung
ác theo mà tu hành để nhớ về việc chết?
Đáp rằng: Như kẻ bị giết đã qua
chỗ giết, gặp người hung ác lấy dao rượt theo và thấy kẻ hung ác kia đánh
đập và như thế suy nghĩ: Người nầy giết ta, khi vào đó ta phải chết. Ta đi
mỗi một bước và đến bước vào đó ta chết. Ta chạy tất phải chết, ta đứng
cũng phải chết, ta ngồi cũng phải chết, ta ngủ cũng phải chết. Như thế
người tọa thiền lấy sự theo đuổi của ngưới hung ác kia mà niệm về sự chết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy chẳng có
nhơn duyên để tu nhớ về việc chết?
Đáp rằng: Vô nhơn duyên vô
phương tiện lại hay sanh nhớ nghĩ, làm cho chẳng chết như mặt trời mặt
trăng khi xuất hiện chẳng có nhơn duyên và cũng không có phương tiện và có
thể làm cho việc ấy chẳng mất đi. Như thế nên nói là vô nhơn duyên; nên tu
về sự nhớ nghĩ đến việc chết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy chỗ chấp
gốc mà tu nhớ nghĩ về việc chết?
Đáp rằng: Như người kia trước
đây như vua nhiều tiền, vua có nhiều xe lớn, vua có thế lực lớn, vua đại
thiện kiến, vua đảnh sanh v.v... Tất cả những vị vua kia đều phải vào chỗ
chết. Lại nữa chư tiên vương có đại thần thông, đại thần lực. Tỳ Sa Mật Đa
Xà Ma Đạt Lê Tiên Nhơn có thân hóa ra lửa, đều cũng phải đi vào chỗ chết.
Lại nữa như những vị Thanh Văn có đại trí tuệ, có đại thần thông, có đại
thần lực như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên v.v... họ cũng phải đi
vào chỗ chết. Lại nữa các vị Duyên Giác, tự sanh chẳng có Thầy dạy, tất cả
công đức đều thành tựu, lại cũng đi vào chỗ chết. Lại nữa chư Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Giác, Vô lượng vô thượng, minh hạnh đầy đủ, cho đến công đức
thật đầy đủ lại cũng vào phép sanh diệt. Hà huống là với ta có thọ mạng
nhỏ bé nầy, mà chẳng vào pháp chết được. Như thế đầu tiên lấy chỗ thủ chấp
mà nên tu nhớ nghĩ về việc chết.
Hỏi rằng: Vì sao dùng thân liên
hệ nhiều nầy mà tu nhớ nghĩ về sự chết?
Đáp rằng: Do gió đờm hòa hợp mà
thành ra pháp chết; hoặc các loại vi trùng hòa hợp; hoặc do ăn uống chẳng
điều hòa mà vào phép chết; hoặc do rắn độc, trùng dữ, chó sói, chuột độc
mà phải vào chỗ chết. Hoặc do sư tử, hổ báo, rồng, bò v.v... mà phải vào
chỗ chết; hoặc người, chẳng phải người bị giết phải lâm vào cảnh chết.
Thân nầy như thế, có nhiều chỗ liên hệ; nên phải tu nhớ nghĩ về việc chết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy chỗ thọ
mạng không có lực mà tu nghĩ về việc chết?
Đáp rằng: Lấy 2 việc làm. Đó là
lấy thọ mệnh chẳng còn lực để tu và nhớ nghĩ về việc chết. Nơi ấy không có
lực nương vào nơi không lực để trở thành thọ mệnh vô lực.
Hỏi rằng: Vì sao xứ vô lực mà
thọ mệnh cũng vô lực?
Đáp rằng: Thân nầy vô tự tánh
giống như bọt nước; giống như cây chuối. Dụ như nước bọt, chẳng có chơn
thật, lìa chơn thật vậy. Như vậy cho nên nơi chốn vô lực, thành thọ mệnh
cũng vô lực.
Hỏi rằng: Vì sao nương vào vô
lực, nên trở thành đời sống thọ mạng vô lực?
Đáp rằng: Đây gọi là sự vào ra
của hơi thở, chỗ nối kết. Do 4 loại kết lại mà thành, do ăn uống dính
liền; do 4 oai nghi trói buộc; do lệ thuộc ấm lạnh. Như thế nương vào vô
lực mà thành thọ mệnh vô lực. Như vậy đây là 2 hành. Dùng thọ mệnh vô lực
để tu niệm về việc chết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy sự phân
biệt xa để tu nghĩ về cái chết?
Đáp rằng: Từ nơi xa xôi, tất cả
đều đã sanh. Đối với đời hiện tại chẳng quá một trăm năm, tất cả đều cũng
phải vào chỗ chết; cho nên phải phân biệt chỗ xa xôi mà tu và nhớ nghĩ về
cái chết.
Lại nữa nên tu, ta đối với ngày
đêm há có thể được thông. Suy nghĩ về ngày đêm.
Đức Thế Tôn dạy các pháp tu
được ân lớn. Như thế mỗi ngày ta há có thể thông suốt; hoặc lại nửa ngày
ta há có thể thông suốt; hoặc lại lúc nhỏ ta há có thể thông suốt; hoặc
lúc một bữa ăn, lúc nửa bữa ăn ta há có thể thông suốt; hoặc 4, 5 đoạn ta
có thể thông suốt; hoặc khi hơi thở vào há có thể đến lúc hơi thở ra; hoặc
lúc thở ra há ta có thể rõ lúc thở vào. Lấy sự phân biệt xa xôi mà tu và
nhớ về sự chết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy vô tướng
để tu và nhớ nghĩ về sự chết?
Đáp rằng: Lấy chẳng có tướng vì
chết không có lúc; nên lấy vô tướng để tu và nhớ nghĩ về sự chết.
Hỏi rằng: Vì sao lấy sát na để
tu và nhớ nghĩ về sự chết?
Đáp rằng: Lấy chẳng phải số đến
của quá khứ vị lai, cho đến số đến trong hiện tại là do duyên của chúng
sanh mà thọ mạng, mà một niệm dừng lại rồi từ kia, không có 2 niệm dừng
lại. Tất cả chúng sanh đối với sát na tâm ấy nổi trôi. Như trong A Tỳ Đàm
nói: Đối với tâm quá khứ đã chẳng sanh ra, sẽ chẳng sanh ra và chẳng có
sanh trong hiện tại, nhẫn đến tâm vị lai cũng chẳng sanh ra. Không sanh ra
trong hiện tại, chẳng sanh ra trong tương lai, mà đối với tâm hiện tại
trong sát na ấy chẳng sanh ra và cũng chẳng sẽ sanh ra, nên chẳng có sanh
trong hiện tại. Lại có bài kệ rằng:
Thọ mệnh và thân tánh
Khổ lạc và sở hữu
Cùng với tâm tương ưng
Sát na liền sanh khởi
Chẳng hề sanh, không sanh
Với hiện tại có sanh
Tâm mất; nên đời mất
Nên nói đời tận diệt.
Như thế lấy sát na để nói về
việc sanh tử. Người tọa thiền vào cửa nầy để thực hành. Như thế mà nhớ
nghĩ về hiện tại để tu và nhớ nghĩ về việc chết, khởi lên sự lo sợ. Do lo
nghĩ mà tự tại. Lấy niệm tự tại ấy thành tâm chẳng loạn. Nếu tâm chẳng
loạn thì các sự che đậy liền mất. Thiền phân thành khởi ngoại hành thiền
được giữ yên.
Hỏi rằng: Vô thường tưởng đến
việc chết. Việc nầy có 2 việc khác nhau?
Đáp rằng: Chỗ che kia mất nên
gọi là vô thường tưởng, niệm các căn hoại đi; nên nhớ nghĩ đến việc chết;
lấy việc tu tướng vô thường, tướng vô ngã để trừ đi kiêu mạn và lấy tu nhớ
nghĩ về sự chết, tướng vô thường cho đến tướng khổ để giữ lại và lấy việc
thọ mạng mất và tâm đoạn diệt. Đây nghĩa là sự sai biệt.
Hỏi rằng: Vì sao lại nhớ nghĩ
về thân? Tu cái gì? Với tướng gì? Với vị gì? Và với công đức nào? Và vì
sao phải tu?
Đáp rằng: Tu nhớ nghĩ về tánh
của thân. Niệm kia tùy theo niệm mà chánh niệm. Đây gọi là niệm thân. Niệm
nầy trụ chẳng loạn. Đây gọi là tu. Làm cho khởi lên tánh nơi thân lấy làm
tướng. Lo lắng làm vị; thấy vô thật mà khởi.
Với công đức nào tu nhớ nghĩ về
thân để thành sự kham nhẫn?
Hay nhận sự sợ hãi, hay chấp
nhận việc lạnh nóng v.v... tưởng đến vô thường, vô ngã, tưởng đến bất
tịnh, tưởng đến việc lo lắng. Tưởng kia đầy đủ, thành ra tùy theo ý để
được 4 thiền mà làm rõ ràng các pháp. Sự tu ấy làm cho đầy đủ, hướng về
chỗ lành, hướng về chỗ mát mẻ.
Vì sao lại tu?
Kẻ mới tọa thiền nhập vào tịch
tịnh, ngồi nhiếp tất cả tâm. Tuy tâm chẳng loạn; nhưng tu về tánh của tâm.
Vì sao lại tu tánh của tâm?
Vì thân nầy do tóc, lông, móng
tay, răng, da, thịt, gân cốt, tủy não, ruột gan, tim, phổi, tì, vị, bao
tử, ruột non, ruột già, đường đại tiện, tiểu tiện, máu nóng, chất đờm;
nước mắt, nước mũi... đều bất tịnh. Người mới tọa thiền đối với 32 loại
hành nầy từ chỗ đầu tiên đến chỗ cuối cùng phải dùng miệng nói lời lành và
thường nên nói, thường nên quan sát. Lành thay lấy việc thường quán nơi
miệng mà nói lời nói. Lúc ấy lấy từng loại một mà hành. Chỉ có lấy tâm rõ
biết các sắc mà hành, lấy hình tướng, lấy xứ, lấy phân biệt mà khởi lên
tướng thô. Hoặc một, hoặc hai, hoặc lành nhiều, chấp lấy sự tương ưng. Kẻ
tọa thiền kia như thế khởi lên tướng của sắc. Kẻ tọa thiền kia do sắc, tất
cả nhập vào tự tại nên tác ý. Nếu người tọa thiền lấy sự xa lìa mà khởi
tướng, thì người tọa thiền kia nên lấy bất tịnh mà tác ý. Nếu người tọa
thiền kia dùng không để khởi thành tưởng, thì người tọa thiền kia lấy giới
mà tác ý. Nếu kẻ tọa thiền kia nương vào tất cả nhập mà khởi nơi tứ thiền;
hoặc người tọa thiền kia nương vào việc bất tịnh mà khởi nơi sơ thiền;
hoặc người tọa thiền kia nương vào giới mà khởi thiền ngoại hành, thì đây
là do người làm việc sân nhuế mà do sắc khởi lên tướng ấy. Kẻ làm việc
tham dục lấy sự xa lìa mà khởi tướng. Kẻ hành trí tuệ lấy giới mà khởi
tướng. Lại nữa sân si hành nhơn lấy sắc mà tác ý. Tham dục hành nhơn lấy
sự xa lìa mà tác ý. Huệ hành nhơn lấy giới mà tác ý. Lại nữa dùng 13 loại
hành để niệm về tánh của thân. Như thế lấy loại, lấy nơi, lấy duyên, lấy
lưu rồi lần lượt dùng hình, dùng các loại trùng, dùng xứ yên ổn, lấy chỗ
tụ lại, lấy sự giận, lấy bất tịnh, lấy nơi chốn, dùng đến việc chẳng biết
ơn và lấy việc giới hạn.
Hỏi rằng: Vì sao lấy các loại
để nhớ nghĩ về tánh của thân?
Đáp rằng: Như giống độc thì sẽ
sanh mầm chẳng tốt và sẽ sanh ra tiếp tục. Như thân nầy là thân từ cha mẹ
bất tịnh sanh ra. Vì giống loại bất tịnh ấy sanh ra thân nầy; nên trở
thành bất tịnh. Như thế lấy các loại giống để nhớ nghĩ về tâm tánh.
Hỏi rằng: Vì sao lấy xứ để nhớ
nghĩ về tánh của thân?
Đáp rằng: Thân nầy chẳng từ hoa
Uất Đa La sanh ra, lại cũng chẳng phải từ hoa Câu Ni Đà Phần Lợi Già sanh
ra, mà do từ nơi bụng mẹ sanh ra. Chỗ bất tịnh, hôi thối, bức bách mà sanh
ra. Từ lúc sanh các hình thái đều sanh. Từ hai bên hông trái phải bị chằng
chịt trói buộc xương cốt. Nơi nầy là nơi bất tịnh thân nên thành bất tịnh.
Như thế lấy nơi chốn ấy mà nghĩ về tánh của thân.
Hỏi rằng: Vì sao lấy sự duyên
vào mà nhớ nghĩ đến tánh của thân?
Đáp rằng: Đây do thân bất tịnh,
sự khổ hay tăng trưởng và trụ lại. Chẳng phải dùng vàng bạc của quý có thể
làm cho tăng trưởng. Lại cũng chẳng thể lấy mùi thơm Chiên Đàn và hương
thơm của Đa Già La mà tẩm vào để làm cho tăng trưởng, mà thân nầy từ bụng
mẹ sanh ra. Chỗ ăn uống của mẹ, chỗ nước mũi, dãi, máu, đờm tạp nhạp và
nơi bào thai mẹ sanh ra hôi thối. Nhờ đồ ăn thức uống lưu hành mà làm cho
thân nầy tăng trưởng. Rồi từ đó mà sinh ra. Từ chỗ ăn uống, sữa đậu, hòa
hợp với nước mắt, mũi tạp nhạp. Ở đây thân nầy lấy chỗ hôi thối bất tịnh
ấy mà lưu hành nuôi dưỡng để có thể tăng trưởng và tồn tại. Như thế lấy sự
duyên vào nầy mà nhớ nghĩ đến tự tánh của thân.
Hỏi rằng: Vì sao lấy sự lưu
hành mà nhớ nghĩ về tự tánh của thân?
Đáp rằng: Như đống da thối trở
thành chỗ tiểu dãi, rồi sanh ra nhiều mầm bất tịnh lưu xuất. Thân nầy lại
cũng thịnh hành bởi tiểu dãi. Như vậy thân nầy là chỗ chứa đồ ăn uống và
tạp nhạp những nước hôi thối xú uế, gồm nhiều loại bất tịnh. Từ chín lỗ mà
chảy ra, rồi sanh ra nhiều việc vậy. Cũng chẳng trở thành đầy đủ, như thế
mà lưu hành và; nên nhớ nghĩ đến tự tánh của thân.
Hỏi rằng: Vì sao lấy hình thái
lần lượt mà nhớ nghĩ đến tự tánh của thân?
Đáp rằng: Thân nầy đầu tiên do
nghiệp rồi sau đó lần lượt tạo thành. Bảy ngày đầu thành Ca La La. 14 ngày
thành A Phù Đà. 21 ngày thành Bi Thi. 28 ngày thành A Ban. 35 ngày thành 5
tiết. 42 ngày thành 4 tiết. 49 ngày thành ra 4 tiết nữa. 56 ngày lại sanh
ra 28 loại nữa. 63 ngày và 70 ngày lại sanh ra xương. 77 ngày lại sanh ra
300 xương. 84 ngày sanh ra 100 tiết. 91 ngày lại sanh ra 900 dây gân. 98
ngày lại sanh ra 100 loại thịt tròn. 105 ngày lại sanh ra máu. 112 ngày
lại sanh ra màng (mô). 119 ngày sanh ra da. 126 ngày thành màu sắc của da.
133 ngày sanh ra nghiệp do gió biến hóa nơi nơi. 140 ngày đủ cửu khiếu
(chín lỗ). 175 ngày sanh ra một vạn bảy ngàn chỗ thẩm thấu. 182 ngày thành
vai thân. 189 ngày có sức lực. 196 ngày sanh ra 9 vạn 9 ngàn lỗ chơn lông.
203 ngày thành tất cả thân phận đầy đủ.
Lại nói: 49 ngày thì có thân
thể, nương vào hông của mẹ mà dựng đầu lên đến 294 ngày (nghĩa là tuần lễ
thứ 42) do nghiệp sanh ra gió, rồi chuyển chân lên trên, đầu trút xuống
dưới và hướng về cửa mình rồi sanh ra. Ở đời gọi tên là con người. Rồi lần
lượt lấy hình hài ấy mà niệm đến tánh của thân.
Hỏi rằng: Vì sao lấy các loại
trùng mà niệm về tánh của thân?
Đáp rằng: Nơi thân nầy có
80.000 chỗ để cho trùng ở và ăn tại đó. Ở nơi tóc cũng có trùng sống trong
tóc. Ở nơi đầu cũng có trùng tại đầu. Ở nơi não cũng có trùng phá não. Đây
gọi là trùng sân cuồng. Loại nầy lại có 4 loại khác. Một tên là Khu Câu
Lâm Ba; hai tên là Thấp Ba La; ba tên là Đà La Kha; bốn tên là Đà Kha Thi
La. Nương vào nơi mắt có trùng tên là Thiết Nhãn. Nương vào tai có trùng
tên là Thiết Nhĩ. Nương vào mũi có trùng tên là Thiết Tỉ. Lại có 3 loại
tên là Lầu Khẩu Mẫu Ha; hai tên là A Lầu Khâu; ba tên là Ma Na Lầu Mẫu
Khả. Nương vào lưỡi lại có trùng tên là Vật Già; nương vào nơi gốc lưỡi có
trùng tên là Mẫu Đản Đa. Nương vào răng có trùng tên là Cẩu Bà. Nương vào
chân răng có trùng tên là Ưu Bà Câu Bà. Nương vào cổ có trùng tên là A Bà
Li Ha. Nuơng vào cuống cổ có 2 loại trùng. Một tên là Hô Ha La; hai tên là
Tỳ Hô Ha La. Nương nơi lông có trùng tên là Thiết Mao. Nương nơi móng tay
có trùng tên là Thiết Trảo. Nương vào da có 2 loại trùng. Một tên là Đẩu
Na; hai tên là Đẩu Nan Đa. Nương vào nơi màng có 2 loại trùng. Một tên là
Cách Lam Bà; hai tên là Ma Bi Lam Bà. Nương vào thịt lại có 2 loại trùng.
Một tên là A La Bà; hai tên là La Bà. Nương vào máu có 2 loại trùng. Một
tên là Bà La; hai tên là Bà Đa La. Nương vào gân có 4 loại trùng. Một tên
là Lại Đa Lỗ; hai tên là Hỉ Đa Sa; ba tên là Sa La Sa Đa La; bốn tên là La
Na Bà La Na. Nương vào mạch có trùng tên là Giá Phiêu Hiếp Na. Nương vào
động mạch có 2 loại trùng. Một tên là Thi Bà La; hai tên là Ưu Bà Thi Bà
La. Nương vào xương lại có 4 loại trùng. Một tên là Dương Thiết Tì Đà; hai
tên là A Na Tì Đà; ba tên là Đãi Phúc Đà Tì Đà; bốn tên là Dương Thiết Đản
Khả La. Nương vào tủy có 2 loại trùng. Một tên là Nhi Đổ; hai tên là Nhi
Đỗ Thi La. Nương vào lá lách có 2 loại trùng. Một tên là Ni La; hai tên là
Tỉ Đa. Nương vào tim lại có 2 loại trùng. Một tên là Tử Tì Đa; hai tên là
Ưu Bát Đà Tì Đa. Nương vào gốc của tim lại cũng có 2 loại trùng. Một tên
là Mân Khả; hai tên là Thi La. Nương vào mỡ lại có 2 loại trùng. Một tên
là Ca La; hai tên là Ca La Thi La. Nương vào bàng quang lại có 2 loại
trùng. Một tên là Nhĩ Ca La; hai tên là Ma Ha Ca La. Nương vào gốc của
bàng quang lại có 2 loại trùng. Một tên là Ca La; hai tên là Ca La Thi La.
Nương vào bụng lại có 2 loại trùng. Một tên là Sa Bà La; hai tên là Ma Ha
Sa Bà La. Nương vào gốc của bụng lại cũng có 2 loại trùng. Một tên là Lại
Đa; hai tên là Ma Ha Lại Đa. Nương vào ruột non lại cũng có 2 loại trùng.
Một tên là Qui Lại Đa; hai tên là Ma Ha Lại Đa. Nương vào gốc của ruột lại
có 2 loại. Một tên là Ba; hai tên là Ma Ha Tử Ba. Nương vào gốc của ruột
già có 2 loại trùng. Một tên là An Na Bà Ha; hai tên là Bát Quả Bà Ha.
Nương vào dạ dày có 4 loại trùng. Một tên là Ưu Thọ Ca; hai tên là Ưu Xã
Ba; ba tên là Tri Xã Bà; bốn tên là Tiên Thị Bà. Nương vào thục trạng lại
có 4 loại trùng. Một tên là Bà Ha Na; hai tên là Ma Ha Bà Ha Na; ba tên là
Đà Na Bàn; bốn tên là Phấn Na Mẫu Khả. Nương vào mật lại có trùng tên là
Tất Đa Ly Ha. Nương vào nước dãi lại có trùng tên là Sám Ha. Nương vào mồ
hôi lại có trùng tên là Đà Li Ha. Nương vào mỡ tảng lại có trùng tên là
Nhĩ Đà Li Ha. Nương vào sức mạnh lại có 2 loại trùng. Một tên là Số Bà Ha
Mẫu và hai tên là Đỗ Ma Khế Đa. Nương vào gốc của sự cứng cáp lại có 3
loại trùng. Một tên là Xứ Ha Mẫu Kha; hai tên là Lỗ Ha Mẫu Kha; ba tên là
Bà Na Mẫu Kha. Có 5 loại trùng nương vào thân, trước khi ăn; nương vào
thân sau khi ăn và nương vào thân bên trái để ăn bên trái của thân. Nương
vào thân bên phải để ăn bên phải của thân. Trùng nầy tên là Đàn Đà Tử La
Thìn Ha. Tử La Bất Tu La v.v... Nương vào 2 lỗ phía dưới có 3 loại trùng.
Một tên là Câu Lâu Câu La Duy Thâu; hai tên là Già La Thâu; ba tên là Hàn
Đầu Bà Đà. Như thế các trùng dừng ở nơi nhớ nghĩ về tánh của thân.
Vì sao lấy sự an ổn để nhớ nghĩ
về tự tánh của thân được?
Đối với xương chân, gân cốt giữ
vững thì xương đầu gối là nơi làm cho xương an trụ. Xương đầu gối làm
xương bắp vế ở yên. Xương bắp vế làm cho xương mông ở yên. Xương mông ở
yên thì xương nơi lá lách sẽ giữ yên. Xương lá lách làm cho xương vai giữ
yên. Xương vai làm cho xương trán giữ yên. Xương trán làm cho xương đầu
giữ yên. Xương đầu làm cho xương gò má giữ yên. Xương gò má làm cho xương
răng giữ yên. Như thế thân nầy xương gân cột lại với da thịt để trở thành
thân hôi thối. Từ hành nghiệp mà sanh, chẳng dư khả năng tạo ra. Như thế
lấy sự an ổn mà nhớ nghĩ đến tự tánh của thân.
Vì sao lấy sự tụ họp ấy mà nhớ
nghĩ đến tự tánh của thân về 9 xương cốt của đầu; hai xương hai bên má; 32
chân răng; bảy xương trán; 14 xương ngực; 24 xương hông; 18 xương sườn; 2
xương chậu; 64 xương tay; 64 xương chân. Nương vào thịt có 64 xương nhỏ. Ở
đây có 300 xương khác. 800 gân; 900 dây chằng; 900 thịt cục; 17.000 mạch.
8.000.000 sợi tóc; 99.000 sợi lông; 60 khoảng trống. 80.000 con trùng.
Mật, nước dãi, não. Mỗi một thứ có Ba Lại Tha. Chúng nặng 4 cân. Huyết A
Tha nặng 3 cân. Như thế chẳng thể tính đến các loại hình tướng ấy. Chỉ có
nước tiểu dãi tụ hợp nơi thân. Như vậy cho nên 2 nơi tụ hợp ấy phải nhớ
nghĩ về tự tánh của thân.
Vì sao lại lấy sự giận hờn mà
nhớ nghĩ đến tự tánh của thân?
Nơi kia dùng những vật tốt để
làm đẹp như mặc áo quần tốt; xức dầu thơm vào thân. Sửa soạn áo quần, ngủ
nghỉ chỗ yên, dùng những loại sang trọng để làm chỗ ngồi, giường nằm
v.v... Rồi nhiều loại đồ ăn thức uống dùng để cúng dường, tâm sanh yêu
thích, sau trở thành mến tiếc giận hờn. Như thế rồi lấy sự giận hờn xấu ác
ấy nên phải nhớ nghĩ đến tự tánh của thân.
Vì sao lấy việc chẳng thanh
tịnh mà nhớ nghĩ đến tự tánh của thân?
Như thế nương vào những đồ ăn
mặc cho nên chẳng tinh khiết: rồi giặt giũ lại trở nên sạch sẽ. Vì sao
vậy? - Vì tánh ấy thanh tịnh vậy. Thân nầy bất tịnh chẳng thể làm cho sạch
được. Lại nữa lấy hương thơm để xoa vào thân rồi lấy nước hoa để tẩy rửa
cũng chẳng thể làm cho sạch được. Vì sao vậy? - Vì tánh chẳng sạch vậy.
Đây là lấy việc chẳng sạch mà nhớ nghĩ về tự tánh của thân.
Vì sao lại lấy nơi chốn để nhớ
nghĩ đến tự tánh của thân?
Như hoa nương vào nước trong ao
để sống. Như trái nương vào nơi quả để tồn tại. Như thế thân nầy từ đủ
loại phiền não tật hoạn mà sanh ra. Ví như bịnh mắt, bịnh tai, bịnh mũi,
bịnh lưỡi, bịnh thân, đau đầu, đau miệng, đau răng, đau đường ruột, ngộp
trhở, nóng lạnh,đau bụng. Tâm lo lắng cuồng loạn, bịnh cảm gió. Cho đến
thổ huyết, mụt nhọt, bịnh hủi, ghẻ lở, sốt rét, bịnh sởi, bịnh hàn v.v...
Thân nầy có quá nhiều sự lo lắng. Như thế nơi phải lấy nơi chốn ấy để nhớ
nghĩ về tự tánh của thân.
Vì sao mà lấy chẳng biết ân để
nhớ nghĩ về tự tánh của thân?
Người nầy dầu có thể tạo đồ ăn
cho chính mình những thức ăn tuyệt hảo; hoặc tắm rửa xức dầu thơm vào mắt,
vào chỗ ngồi, vào y phục và tự trang điểm thật khéo. Nhưng thân nầy như
cây độc; ngược lại chẳng biết ơn, nó hướng tới già, tới bịnh và hướng tới
chết. Như người bạn lành mà chẳng biết ơn. Như thế lấy việc chẳng biết ơn
mà nhớ nghĩ về tự tánh của thân.
Vì sao lại lấy hữu biên để nhớ
nghĩ về tự tánh của thân?
Thân nầy, hoặc có thể đổi mới;
hoặc có thể ăn uống; hoặc có thể bị phá hoại; hoặc có thể bị tiêu diệt.
Nên thân nầy hữu biên (có giới hạn). Như thế lấy hữu biên để nhớ nghĩ về
tự tánh của thân. Kẻ tọa thiền kia đối với cửa ngõ nầy; đối với việc làm
nầy lấy đó làm tự tánh; nên nhớ nghĩ về thân nầy. Lấy sự nhớ nghĩ tự tại,
dùng huệ tự tại, thành tâm chẳng loạn. Nếu tâm chẳng loạn thì các sự che
đậy mất đi. Thiền phần sẽ khởi lên. Tùy theo đây mà được an lạc và trở
thành tốt đẹp.
Hỏi rằng: Vì sao nhớ nghĩ đến
sự tịch tĩnh? Tu cái gì? Tướng gì? Vị gì? Xứ nào? Công đức gì? Vì sao phải
tu?
Đáp rằng: Tịch tĩnh nghĩa là ở
tâm thân diệt sự động loạn, lại dứt trừ hẳn. Đây là tịch tịnh. Hiện nhớ
nghĩ đến sự tịch tịnh, kia nhớ nghĩ tùy theo chánh niệm. Đây gọi là niệm
tịch tịnh. Lấy sự nhớ nghĩ trụ lại chẳng loạn. Đây nghĩa là tu. Làm cho
khởi lên chẳng động, lấy tướng làm công đức. Lấy chẳng điều phục làm vị.
Lấy diệu giải thoát làm nơi chốn. Có được công đức gì? - Nếu tu hành nhớ
nghĩ đến tịch tịnh sẽ được ngủ yên mà thức cũng yên. Trở thành tịch tịnh.
Các căn tịch tịnh, tâm nguyện đầy đủ, thành dễ thương, biết xấu hổ đầy đủ.
Thường vì người mà quý trọng. Hướng đến cõi lành, hướng đến cõi giải
thoát.
Vì sao phải tu?
Kẻ mới tọa thiền ngồi vào chỗ
yên tĩnh, nhiếp tất cả tâm, chẳng khởi lên tâm loạn. Như thế vị Tỳ Kheo
kia các căn được an ổn. Tâm an ổn rồi vui mọi nơi đều yên ổn. Lấy tương
ưng để trụ. Vị Tỳ Kheo kia dùng thân, khẩu, ý để thấy, để nghe và để nhớ
nghĩ tịch tịnh. Lấy sự tịch tịnh ấy làm công đức. Như Đức Thế Tôn đã dạy:
Vị Tỳ Kheo kia giới đầy đủ, định đầy đủ, tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ,
tri kiến đầy đủ. Nếu một Tỳ Kheo được thấy một Tỳ Kheo khác thì ta nói kẻ
kia được ân đức thật lớn. Nếu nghe vị Tỳ Kheo kia, ta nói được ân lớn. Nếu
đến vị Tỳ Kheo kia, ta nói được ân lớn. Nếu thấy, cúng dường nhớ nghĩ vị
kia; hoặc theo vị kia xuất gia, ta nói kẻ kia được ân đức lớn. Vì sao lại
như vậy? - Vì các Tỳ Kheo khi nghe pháp nầy được xa rời 2 sự quen ồn ào.
Đó là thân được lìa chỗ quen ồn và tâm cũng được lìa chỗ quen ồn. Vị Tỳ
Kheo kia nhập vào sơ thiền, lấy sự an ổn nhớ nghĩ; nên các sự che đậy mất
đi. Nếu nhập vào nhị thiền nhớ nghĩ người kia thì giác quán diệt. Nếu nhập
vào đệ tam thiền, nhớ nghĩ đến kia thì hỉ diệt. Nếu nhập vào đệ tứ thiền,
nhớ nghĩ về kia thì lạc diệt. Nếu nhập vào Hư không định, nhớ nghĩ về sắc
tưởng, sân nhuế tưởng và tất cả các loại tưởng đều diệt. Nếu nhập vào Thức
định, nhớ nghĩ đến kia thì hư không diệt. Nếu nhập vào Vô sở hữu định nhớ
nghĩ đến kia thì thức nhập tưởng diệt. Nếu nhập Phi tưởng Phi phi tưởng
định, nhớ nghĩ đến kia thì Vô sở hữu tướng diệt. Nếu nhập Tưởng thọ diệt,
nhớ nghĩ đến kia thì tưởng thọ diệt. Nếu được quả Tu Đà Hoàn, nhớ nghĩ
thấy một nơi thì phiền não diệt. Nếu được quả Tư Đà Hàm thì sự nhớ nghĩ
thô về dâm dục, sân nhuế, phiền não diệt. Nếu được A Na Hàm quả thì sự nhớ
nghĩ tinh tế về phiền não, dâm dục, sân nhuế diệt. Nếu được quả A La Hán
nhớ nghĩ kia về tất cả phiền não diệt. Nếu nhập Niết Bàn, dùng tịch tĩnh
nhớ nghĩ tất cả đều diệt. Kẻ tọa thiền kia lấy cửa nầy, việc làm nầy như
thế là những công đức nhớ nghĩ tịch tĩnh. Tâm kia thành niềm tin. Lấy tin
ấy mà tự tại. Dùng niệm để tự tại, tâm ấy trở nên chẳng loạn. Nếu tâm
chẳng loạn thì các sự che đậy sẽ mất. Thiền phần khởi lên bên ngoài. Thiền
ấy thành trụ ở sự nhớ nghĩ, đã đến cảnh giới tịch tĩnh rồi.
Đối với 10 niệm xứ thì đây là
những câu tán thán. Hoặc niệm quá khứ, vị lai công đức của Phật. Đây gọi
là tu niệm Phật. Như thế niệm Duyên Giác công đức cũng vậy; hoặc niệm
lành, nói tất cả pháp. Đây gọi là tu niệm Pháp. Hoặc nhớ về một Thanh Văn
tu hành công đức. Đây là tu niệm Tăng. Niệm về giới kia. Đây nghĩa là tu
niệm giới. Niệm về thí kia thì đây nghĩa là tu niệm thí. Nếu muốn vui nhớ
về bố thí thì thí ấy có công đức nơi người, lấy tướng chấp thọ. Nếu có
người thọ thí mà chưa thí, cho đến một miếng cũng chưa nên ăn. Niệm thiên
là thành tựu niềm tin có 5 điều. Do pháp ấy mà nên niệm thiên.
Luận về Con Đường Giải Thoát
Hết quyển thứ bảy
--o0o--
Mục Lục
|
Quyển 1 |
Quyển 2
|
Quyển 3 |
Quyển 4
|
Quyển 5 |
Quyển 6
Quyển 7
|
Quyển 8
| Quyển
9 |
Quyển 10
| Quyển
11 |
Quyển 12
--o0o--
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật : 10/2006