III. PHẨM
PHÂN BIỆT THẾ GIAN
Phẩm này nói về kết quả của mê lầm (vô minh hữu lậu).
Do nghiệp lực riêng và chung (biệt nghiệp, cộng nghiệp) của chúng sanh cảm
ứng mà tạo ra.
a. Hữu tình thế gian, tức chánh báo, chỉ cho thân
phần của chúng sanh, nói theo nghĩa hẹp là nhân sanh.
b. Khí thế gian, tức y báo, là nơi nương tựa, sanh hoạt của hữu tình, đó
chính là vũ trụ thế giới.
Để giải thích rõ hai loại thế gian trên, trong phẩm này
sẽ lần lượt đề cập về các mục ba cõi, sáu nẽo luân hồi, bốn loại sanh, bốn
hữu luân chuyển, thể chất và hạn lượng thế giới, bốn kiếp thành, trụ,
hoại, không.
Đoạn I.
ĐẠI CƯƠNG BA CÕI
Vũ trụ thế giới tùy theo nghiệp lực, trình độ sai khác
của chúng sanh mà chia ba tầng gọi là ba cõi. Trong đó mỗi cõi lại tùy
theo lòng tham dục nặng nhẹ mà chia ra cõi Dục và sáu bậc trời thuộc cõi
Dục; tùy theo sức thiền định cạn sâu mà chia ra nhiều bậc thiền thuộc cõi
sắc và vô sắc, như đồ biểu sau đây:
BA CÕI |
DỤC |
- Bốn ác thú |
Địa ngục,
Ngạ quỉ,
Súc sanh,
A-tu-la. |
- Bốn châu nhân đạo |
Nam Thiệm bộ,
Đông Thắng thần,
Tây Ngưu hóa,
Bắc Câu-lô. |
- Lục dục thiên |
Tứ thiên vương,
Đao Lục dục lợi,
Dạ-ma, Đâu-suất thiên đà,
Hóa lạc,
Tha hóa tự tại. |
SẮC |
- Sơ thiền, 3 |
Phạm chúng
Phạm phụ
Đại phạm |
- Nhị thiền, 3 |
Thiểu quang
Vô lượng quang
Quang Âm |
- Tam thiền, 3 |
Thiểu tịnh
Vô lượng tịnh
Biến tịnh |
- Tứ thiền, 9 |
Vô Vân,
Phước sanh,
Quảng quả (Vô tưởng),
Vô thiền,
Vô nhiệt,
Thiện kiến,
Thiện hiện,
Sắc cứu cánh,
Ma-hê-thủ-la |
VÔ SẮC |
- Không vô biên xứ
- Thức vô biên xứ
- Vô sở hữu xứ
- Phi tưởng phi phi tưởng xứ |
|
CHÍN ĐỊA |
- Cõi dục, 1 |
Ngũ thú tạp cư địa |
- Cõi sắc, 4 |
Ly sanh hỷ lạc
Định sanh hỷ lạc
Ly hỷ Diệu lạc
Xả niệm Thanh tịnh. |
- Vô sắc, 4 |
Không vô biên,
Thức vô biên,
Vô sở hữu,
Phi tưởng phi phi tưởng |
Đoạn II.
HỮU TÌNH THẾ GIAN
* TIẾT I: BỐN HỮU LUÂN CHUYỂN
Thế gian, thế là đời, trải quá khứ, hiện tại, vị lai,
lưu chuyển biến hoại. Gian là trong, những gì lọt vào trong vòng luân
chuyển, biến hoại thì gọi là thế gian. Loài hữu tình là căn thân chánh báo
của chúng sanh và vũ trụ thế giới là y báo, chỗ nương dựa của chúng sanh,
tức là khí, khí cụ, đều ở trong vòng lưu chuyển biến hoại, nên gọi là hữu
tình và thế gian .
Đây trước nói về hữu tình thế gian, như đã biết hữu
tình trong ba cõi, bốn loài, sáu đường khác nhau nhưng đều ở trong vòng
luân hồi, sanh tử, sanh rồi chết, chết rồi sanh qua bốn giai đoạn hữu, là
tử hữu, trung hữu, sanh hữu, bản hữu, rồi lại tử hữu, trung hữu v.v...
Xét đến bốn giai đoạn hữu nơi nhân loại như sau sẽ rõ:
Tử hữu: Là giai đoạn con người do phiền não nghiệp
đời trước chiêu cảm lấy quả báo thân đời nay, sống cho đến sát na cuối
cùng, xả bỏ báo thân.
Trung hữu: Là giai đoạn sau khi xả bỏ báo thân cho
đến khi đủ duyên đầu thai, sự hiện hữu của hữu tình giữa khoảng thời gian
đó, gọi là trung hữu. Song đối với vấn đề trung hữu này, Đại chúng bộ và
Hóa địa bộ không thừa nhận có. Vì họ dựa theo kinh chỉ nói đến " thuận tam
thọ nghiệp", chứ không nói đến trung hữu nghiệp và kinh cũng chỉ nói đến
hữu tình Dự lưu chỉ phải trải bảy phen sanh (bảy hữu) là chứng A-la-hán
chứ không nói đến trung hữu. Trái lại Tát-bà-đa-bộ thì dẫn kinh và lý để
chứng minh có thân trung hữu. Kinh nói: Có năm quả vị Bất hoàn (trong đó
có Trung ban Bất hoàn) và kinh cũng nói: "Khi nhập thai có ba sự hiện hữu
là tinh cha, huyết mẹ và Càn-thạc-phước, Tát-bà-đa còn chủ trương thân
trung ấm của loài người cỡ như con nít năm sáu tuổi, đủ cả sáu căn nhưng
vì đó là tịnh sắc cực vi tế, mắt thịt không thấy được, chỉ có thiên nhãn
cực tịnh và những hữu tình cùng ở giai đoạn trung hữu mới trông thấy được.
Và thời gian tồn tại của thân trung hữu cũng có bốn nhà chủ trương khác
nhau: Tỳ-bà-sư cho rằng nó chỉ có trong khoảnh khắc, chết liền đầu thai.
Luận sư Thế Hữu cho rằng nó tồn tại lâu nhất bảy ngày. Luận sư
Thiết-mat-đạt-đa cho rằng nó có thể tồn tại trong bảy bảy bốn mươi chín
ngày. Còn Luận sư Pháp Cứu thì cho rằng không nhất đ?nh vì tùy theo nhân
duyên thọ sanh bất thường. Do nghiệp lực rất mạnh thúc đẩy trung hữu đáng
thọ sanh vào loài người thì hội đủ duyên liền sanh vào loài người, trung
hữu đáng thọ sanh vào loài súc thì hội đủ duyên liền sanh vào loài súc.
Sanh hữu là giai đoạn từ trung hữu chết, do vọng
tưởng khởi lên tâm ái dục hoặc sân nhuế đối với cha mẹ, liền đầu thai, hay
gọi là kiết sanh. Chính ngay ở giây phút kiết sanh này gọi là sanh hữu.
Bản hữu: Chỉ thời gian từ sanh hữu cho đến tử hữu,
chấm dứt một đời. Về thân bản hữu này có chia hai giai đoạn là giai đoạn ở
trong thai và giai đoạn ra ngoài thai. Giai đoạn trong thai gồm năm trạng
thái:
1. Kiết-lạc-lam (kalala) như chút váng sữa trong bảy
ngày đầu thụ thai.
2. Át-bộ-đàm (Abbuda) như cục máu trong bảy ngày thứ hai.
3. Bế-thi (Pesi) thịt mềm trong bảy ngày thứ ba.
4. Kiện-nam (Ghana) thịt cứng trong bảy ngày thứ tư.
5. Bát-la-xa-khư (Paxakha) chi tiết bắt đầu tượng thành hình vóc, trong
bảy ngày thứ sáu trở đi cho đến khi hạ sanh.
Giai đoạn ra ngoài thai cũng có năm hình thức:
1. Anh hài, từ khi sanh đến 6 tuổi.
2. Đồng tử: từ 7 đến 15 tuổi.
3 .Thiếu niên: từ 16 đến 30 tuổi.
4. Thành niên: từ 31 đến 40 tuổi.
5. Lão niên: từ 41 đến chết.
Hỏi: Cứ liên tục với bốn giai đoạn hữu trải qua ba
đời như vậy nên chúng sanh luân hồi. Vậy tất phải có một chủ thể thống
nhất thường hằng mới có thể chuyển từ hữu này đến hữu khác và có thể tu
hành tích lũy công đức đến thành Phật. Nếu không có một chủ thể thống nhất
thường hằng đó thì làm sao chuyển từ hữu này đến hữu khác và làm sao thành
Phật được? Như vậy tu tập cũng vô ích sao?.
Đáp: Giải đáp câu hỏi này, Đại chúng bộ gọi chủ thể
luân hồi đó là căn bản thức, mạt phái Hóa địa bộ gọi Cùng sanh tử uẩn,
Kinh lượng bộ gọi là Nhất vị uẩn, Tế ý thức, Căn biên uẩn, Thượng tọa bộ
gọi là Hữu phần thức. Độc tử bộ gọi là Phi tức uẩn phi ly uẩn ngã, Duy
thức tông thì gọi là A-lại-da-thức. Còn ngoại đạo thì cho có một thật ngã
biệt lập với thân tâm. Nhưng chủ trương của Hữu bộ mà luận Câu-xá trình
bày thì khác. Theo Hữu bộ, chính thân tâm năm uẩn này do mê hoặc mà tạo
nghiệp, do tạo nghiệp mà thọ quả, rồi do từ quả khởi lên mê hoặc, do mê
hoặc mà tạo nghiệp, rồi do tạo nghiệp mà thọ quả...liên tục như vậy thành
luân hồi. Giống như người cầm ngọn đèn đi từ chỗ này đến chỗ khác, ngọn
đèn tuy cứ từng sát na diệt, nhưng vẫn có thể tiếp tục đến chỗ khác. Và
không phải thân tâm năm uẩn đời này chuyển thẳng đến đời khác mà là thân
tâm năm uẩn từng sát na biến diệt, liên tục từ trạng thái này đến trạng
thái khác qua đời này và đời sau. Giống như do hạt nẩy mầm, do mầm nẩy
cành lá. Hạt, mầm, cành, lá v.v....không phải một nhưng không phải khác.
Như tụng văn nói:" Không có ngã, chỉ có các uẩn, do phiền não nghiệp
tác động từ thân trung hữu tiếp nối vào thai giống như ngọn đèn".
* TIẾT II: 12 NHÂN DUYÊN
Như trên do hoặc, nghiệp, khổ (cũng gọi hoặc, nghiệp,
sự) mà chúng sanh trải qua bốn giai đoạn hữu lưu chuyển từ quá khứ đến
hiện tại, đến tương lai,vô chung vô thủy. Và hoặc, nghiệp, sự lại là cách
diễn đạt khác về 12 nhân duyên, như hoặc sanh hoặc tức ái duyên thủ; hoặc
sanh nghiệp tức vô minh duyên hành; thủ duyên hữu; nghiệp sanh sự tức hành
duyên thức; hữu duyên sanh; sự sanh sự đó là thức duyên danh sắc, sự sanh
hoặc đó là thọ duyên ái; rồi lại hoặc sanh hoặc....như trước.
Mười hai duyên khởi nếu phân tích thì có bốn loại sai
khác:
1. Sát-na duyên khởi là trong một sát na gồm đủ cả
mười hai duyên khởi.
2. Liên phược duyên khởi là mười hai duyên khởi tiếp liền nhau.
3. Phân vị duyên khởi là mười hai duyên khởi khác nhau.
4.Viễn tục duyên khởi là mười hai duyên khởi trải qua nhiều đời tiếp
tục.
Không có một thật ngã hay một chủ thể thống nhất trong
sự luân hồi mà chính là do mười hai duyên khởi tuần hoàn diễn tiến theo
luật nhân quả tạo ra trạng thái luân hồi. Như kinh Tạp A-hàm 13 nói:" Khi
mắt sinh không từ đâu đến, khi mắt diệt không đi về đâu. Như vậy mắt sanh,
không thật sanh, diệt không thật diệt, có nghiệp báo nhưng không có người
làm. Thân ngũ ấm này diệt thì thân ngũ ấm khác tiếp tục, trừ tục số pháp:
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy, trừ tục số pháp. Tục số pháp là cái
này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi, như vô minh duyên
hành, hành duyên thức, nói rộng cho đến thành nhóm tụ tập thuần khổ lớn".
Đoạn
III. KHÍ THẾ GIAN
* TIẾT 1. HẠN LƯƠ ώG THẾ GIỚI
Khí thế gian tức là thế giới y báo, nơi sinh sống của
hữu tình. Tiểu thừa Đại thừa đều nói đến mười phương thế giới, vô số vô
lượng. Luận Đại Trí Độ 4 nói: Thế giới trải khắp mười phương nhiều vô số
lượng, nhưng không lộn vị trí, bởi nghiệp lực của hữu tình mà sự khu hoạch
khác nhau. Chỉ một khu vực cũng đủ rộng lớn vô cùng. Có thể chia ra ba
hạng: Tiểu thiên thế giới, gọi chung là Tam thiên Đại thiên thế giới.
Cứ một mặt trăng mặt trời hay một thái dương hệ với ánh
sáng chiếu khắp các cõi các châu ở cõi Dục, cho đến Sơ thiền ở cõi Sắc,
trong chu vi đó gọi là một thế giới. Gồm 1.000 thế giới gọi là Tiểu thiên
thế giới. Gồm 1.000 Tiểu thiên thế giới gọi là một Trung thiên thế giới.
Gồm 1.000 Trung thiên thế giới gọi là một Đại thiên thế giới. Đại thiên
thế giới này là Tam thiên Đại thiên thế giới. Đây là phạm vi hóa độ của
một đức Phật (Phật sát). Theo nhã ngữ gọi là Ta-bà thế giới, Kham nhẫn.
Kinh Bi Hoa nói, chúng sanh ở đây nhẫn chịu ba độc tham, sân, si và sự
thống khổ nên gọi là nhẫn độ. Các Bồ-tát hành đạo tại đây gặp nhiều sự oán
ghét, bức não khó nhọc phải nhẫn chịu lướt qua, nên gọi Kham nhẫn.
Theo kinh Tăng Chi 1 (bản Việt) chép, một mặt
trăng, một mặt trời đến cõi Phạm thiên gọi là một thế giới. 1.000 thế giới
cộng lại thành một Tiểu thiên, 1.000 Tiểu thiên thế giới cộng lại thành
một Trung thiên, 1.000 Trung thiên cộng lại thành một Đại thiên, tức Tam
thiên Đại thiên thế giới. Như Lai có thể làm cho tiếng mình được nghe xa
khắp Đại thiên thế giới, hay xa hơn nữa, nếu muốn. Tại sao vậy? Như Lai
chiếu ánh sáng cho đến 3.000 Đại thiên thế giới, cho đến khi nhận thức
được ánh sáng ấy, rồi Ngài mới phát âm làm cho tiếng mình được nghe. (Theo
Khuy Cơ, phạm vi cõi Dục mới bằng một Sơ thiền, 1.000 Sơ thiền mới bằng
một Nhị thiền, 1.000 Nhị thiền mới bằng một Tam thiền, 1.000 Tam thiền mới
bằng một Tứ thiền. Đây gọi là một Tam thiên Đại thiên thế giới).
* TIẾT II: THỂ CHẤT CỦA THẾ GIỚI NHƯ THẾ NÀO?
Thế giới được cấu thành bằng bốn trần sắc, hương, vị,
xúc. Và bốn trần này lại do cực vi hợp thành. Cực vi là vật thể rất vi tế,
không thể chia chẻ được nữa, nếu chia chẻ ra nữa thì nó hóa thành hư
không, nên cực vi cũng gọi là lân hư trần. Cứ bảy cực vi hợp thành một vi
trần, bảy vi trần hợp thành một kim trần (mảy bụi có thể lọt qua kim khí),
bảy kim trần hợp thành một thủy trần (mảy bụi có thể lọt qua nước), bảy
thủy trần hợp thành một thố mao đầu trần (mảy bụi có thể để trên đầu sợi
thỏ), bảy thố mao đầu trần hợp thành một dương mao đầu trần (mảy bụi có
thể để lên đầu sợi lông dê), bảy dương mao đầu trần hợp thành một ngưu mao
đầu trần (bụi để trên đầu lông trâu, bảy ngưu mao đầu trần hợp thành một
khích du trần (mảy bụi bay qua kẻ hở thấy được khi có ánh nắng chiếu qua).
Cứ như vậy chồng lên thành vạn vật. Nếu ta trở lại chia vật gì ra bảy
phần, rồi bảy phần... đến khi đo còn lại cực vi thì không thể chia được
nữa, và mắt thường cũng không thể thấy được.
Tánh chất của cực vi thế nào? Mỗi cực vi đều có đủ bốn
tánh chất là cứng, ướt, nóng, động (cố thể, dịch thể, nhiệt lực, động lực
hay khí thể).
- Tánh cứng rắn có tác dụng bảo trì mọi vật.
- Tánh thấp ướt có tác dụng gom dính mọi vật.
- Tánh ấm nóng có tác dụng thành thục mọi vật.
- Tánh chuyển động có tác dụng làm tăng trưởng mọi vật.
Hình thức biểu hiện của bốn tánh ấy gọi là bốn đại:
đất, nước, lửa, gió. Cực vi có sẳn bốn tánh chất và bốn tác dụng như thế
nên có thể cấu thành vũ trụ vạn hữu, tùy theo sự phối hợp không đồng đều
về phần lượng giữa bốn tánh chất cực vi mà cấu thành mọi vật sai khác. Nếu
tánh cứng nhiều hơn ba tánh kia thì sẽ thành những vật cứng rắn như vàng,
đá... Như vậy, vũ trụ vạn vật, núi sông thế giới đều do cực vi tạo thành.
* TIẾT III: THỜI KỲ THÀNH HOẠI CỦA THẾ GIỚI
Thế giới cứ xoay vần tiếp nối qua bốn thời kỳ thành,
trú, hoại, không. Mỗi thời kỳ là một Trung kiếp, đủ bốn Trung kiếp là một
Đại kiếp. Chữ kiếp là chỉ khoảng thời gian rất dài,trái với chữ sát na là
chỉ khoảng thời gian rất ngắn. Ngắn như thế nào? Như trong khoảng thời
gian kẻ lực sĩ gãy móng tay đã có tới 65 sát-na. Cứ 120 sát-na tiếp nối
nhau thành một hàng sát-na, 60 hàng sát-na thành một lạp phược, v.v...
chồng lên dần đến 30 ngày là một tháng, 12 tháng là một năm. Trong khoảng
thời gian vô cùng, tuổi thọ con người có hai định mức. Thấp nhất là mười
tuổi, cao nhất là 80.000 tuổi. Tromg đó từ 10 tuổi, cứ 100 năm là tăng một
tuổi, tăng cho đến 80.000 tuổi, rồi lại cứ 100 năm giảm một tuổi, giảm
xuống đến 10 tuổi thượng thọ. Tức là trải qua một lần tăng một lần giảm
như vậy gọi là một Tiểu kiếp (ước độ 15.998.000 năm), và 20 mươi Tiểu kiếp
thành một Trung kiếp. Thế giới khi thành, trụ, hoại, không đều trải qua
một Trung kiếp (ước 15.998.000 x 20 = 319.960.000 năm).
Vậy thế giới ta hiện đang sống đây thành lập khi nào?
Thế giới này đã trải qua thành kiếp và hiện ở giữa trụ kiếp, như vậy là
trọn 20 mươi Tiểu kiếp của thời kỳ thành lập và 10 Tiểu kiếp của thời kỳ
trụ (ước 15.998.000 x 30 = 479.940.000 năm).
Trạng thái khí thế giới thành lập như thế nào?
Như trên đã nói thời gian thế giới thành lập chiếm trọn
20 Tiểu kiếp. Trong đó một tiểu kiếp đầu thành lập khí thế gian, tức y báo
(vũ trụ); 19 Tiểu kiếp kế thành lập hữu tình thế gian, tức chánh báo. Đây
là giai đoạn loài vật xuất hiện từ trên xuống. Câu-xá-luận 12 nói:
"Do năng lực cọng nghiệp của loài hữu tình làm tăng thượng duyên mà ở giữa
không luân dần dần có ngọn gió nhẹ thổi lên, nó là tướng trạng đầu tiên
của thế giới sắp thành. Gió mạnh dần mà lập thành phong luân, rồi thủy
luân, rồi kim luân (khối vòng tròn gió, nước chuyển động...)". Cũng
Câu-xá-luận 11 nói: "Do nghiệp lực của loài hữu tình làm duyên tăng
thượng, đầu tiên ở dưới đất nương nơi hư không mà có phong luân nổi lên
với một phạm vi vô cùng rộng rãi và dày 16 ức du-thiên-na (do tuần, có ba
cỡ: 20 dặm, 40 dặm), thể chất rất rắn chắc, kín chặt, và cũng do nghiệp
lực của chúng sanh làm duyên tăng thượng có đám mây nổi lên và đổ mưa
xuống trên phong luân, hạt mưa lớn như trục xe, chứa lại thành thủy luân,
sâu tới 11 ức 2 vạn du-thiên-na.., lại cũng do nghiệp lực của chúng sanh
làm duyên tăng thượng, một luồn gió khác nổi lên kích động dồn ép thủy
luân đông lại thành lớp cứng chắc trên đó gọi là kim, nghĩa là phần rắn
cứng, tức là qủa đất.
Như vậy, từ giữa trống không, do nghiệp lực của chúng
sanh làm duyên tăng thượng nổi lên phong luân, rồi thủy luân, rồi kim
luân. Đó là sự cấu thành tuần tự của địa cầu này vậy. (Tham chiếu
Trường A-hàm 18, Khởi Thế Nhân Bản kinh I, Lâu Thấn Kinh, Lập Thế Tỳ-đàm
I).
* TIẾT IV: TRẠNG THÁI KHI THẾ GIỚI TRỤ, HOẠI VÀ TRỐNG
KHÔNG NHƯ THẾ NÀO?
Thế giới trong thời trụ gồm 20 Tiểu kiếp. Trong 20 Tiểu
kiếp này, tuổi thọ con người có 19 lần tăng lên đến 80,000 tuổi, và 19 lần
giảm xuống 10 tuổi là thượng thọ. Khi tuổi thọ con người ở định mức 80.000
thì thân hình đẹp đẽ, tự phát ánh sáng, đi lại nhẹ nhàng như bay, và sống
rất lâu. Từ đó dần dần đắm sắc, tham ăn, mê lợi, thích quyền, tánh tình
lười biến, cất chứa tài sản riêng, càng có càng tham lam bỏn xẻn, không
biết bố thí, đưa đến cảnh nghèo cùng trộm cướp, giặc giã, giết chóc ghê
gớm, lòng người khiếp đảm, che dấu tội lỗi, dối trá quanh co, phát sanh
nhiều hành động hung ác mỗi ngày mỗi nhiều, làm cho tuổi thọ mỗi ngày mỗi
giảm, cho đến khi tuổi thọ con người giảm đến định mức 10 tuổi, thì có ba
tai biến nhỏ xảy ra, đó là đao binh tai, tật dịch tai và cơ cẩn tai. Khi
đao binh tai khởi lên, tà pháp lộng hành,lòng người hung hiểm, thấy nhau
muốn giết giống như thợ săn đối với mảnh thú. Những gì cầm trong tay cũng
đều trở thành binh khí giết nhau, trải qua bảy ngày bảy đêm chết vô số kể.
Tiếp theo là tật dịch tai, do ác nghiệp dãy đầy và thây chết tràn lan gây
thành tật dịch, không thể cứu chữa, cũng không nghe đến tiếng thầy tiếng
thuốc, trải bảy ngày bảy đêm chết vô số kểú. Tiếp đến cơ cẩn tai là hạn
hán trường kỳ, hoa màu tiêu hủy, thân hình tiều tụy, đói giơ xương trắng,
bới tìm các khúc xương nấu nước, bà con chia nhau đỡ đói, trải bảy năm bảy
tháng bảy ngày chết vô số kể. Cho đến hết thời kỳ tiểu tam tai của lần
giảm ở Tiểu kiếp thứ 20, thì có đại tam tai khởi lên. Đại tam tai là ba
tai biến lớn, hỏa tai, thủy tai, phong tai. Đầu tiên do cọng nghiệp lực
của chúng sanh chiêu cảm, có sức nóng của bảy mặt trời xuất hiện, biến
toàn cõi Tam thiên Đại thiên thế giới thành đống lửa, cháy tiêu không còn
một thứ gì, biển khô, đất thành tro bụi, lên đến Sơ thiền (vì cúng sanh ở
đây, trong tâm còn có tầm, tứ thiêu đốt như lửa làm nội ứng); rồi đến thủy
tai, một trận hồng thủy tràn ngập lên đ?n Nhị thiền (vì chúng sanh ở đây
trong tâm còn có hỷ ái, khinh an thấm nhuần thân thể như nước làm nội
ứng); rồi tiếp đến phong tai, một trận gió ghê gớm thổi lên đến cõi Tam
thiền (vì chúng sanh ở đây, còn có hơi thở như gió làm nội ứng), Tam tai
ấy làm cho thế giới trống không, giai đoạn này cũng kéo dài 20 tiểu kiếp,
sau đó bắt đầu thành lại; thành rồi thì trụ, trụ rồi thì hoại, hoại rồi
thì không, không rồi lại thành... như một vòng tròn không manh mối, thành
không phải đầu, hoại không phải cuối. Như thế thế giới là vô thỉ vô chung.
Riêng ở Tứ thiền và Vô sắc giới không bị ảnh hưởng của
đại tam tai này, nhưng vẫn biến chuyển không thường theo nghiệp lực thọ
mạng của chúng sanh ở các cõi đó vậy.
---o0o---
Mục lục |
1
| 2 | 3 |
4 | 5 | 6 |
7 | 8
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn
Đạo Hữu Bình An Sơn đã gởi tặng tập sách này
Cập nhật ngày: 01-08-2002