Ba tạng: Tu-đa-la-tạng, Tỳ-nại-da
tạng, A-tỳ-đạt-ma tạng. Chữ A-tỳ-đạt-ma luận thường để chỉ các luận
thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa.
Abhidharma Trung Hoa dịch âm là A-tỳ-đàm, A-tỳ-đạt-ma,
và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
A. ĐỊNH NGHĨA
Nguyên trong kinh A-hàm
đức Phật dùng chữ A-tỳ-đạt-ma với dụng ý tán mỹ các pháp nghĩa thâm
huyền, rộng lớn không gì sánh kịp, dần dần nó biến chuyển qua nhiều nghĩa
bởi các luận sư của các bộ phái. Như luận sư Bà-sa thì gọi A-tỳ-đạt-ma là
phục pháp, vì nó hàng phục được tất cả tà thuyết của ngoại đạo. Hóa địa bộ
thì gọi là chiếu pháp, vì nó có khả năng chiếu soi tất cả tánh tướng các
pháp. Thí dụ sư thì gọi là thứ pháp, vì Niết-bàn là tối thượng, nó dưới
pháp Niết-bàn một bực. Chánh lý sư thì gọi là Thông pháp, vì nó có khả
năng thấu đạt tất cả khế kinh. Hiếp Tôn Giả thì gọi là Cứu kính tuệ, Quyết
đoán tuệ v.v...đến ngài Thế Thân thì gọi là Đối pháp với hai nghĩa là đối
hướng và đối quán. Đối là đối diện hướng tới. Đối diện hướng tới Niết-bàn
gọi là Đối hướng Niết-bàn và đối diện quán sát pháp Tứ đế gọi là Đối quán.
Pháp của Phật dạy không ngoài hai thứ là pháp Vô lậu thắng nghĩa
(Niết-bàn) và pháp Hữu lậu pháp tướng. Trí tuệ quán sát pháp tướng và
chứng nhập Niết-bàn thì gọi là Đối pháp trí hay A-tỳ-đạt-ma.
Đạt-ma dịch là Pháp có
nghĩa là tự giữ lấy tính cách nó (nhậm trì tự tánh) và làm mẫu mực phát
sinh cho sự nhận biết (quỹ sanh vật giải).
Đạt-ma tức Dharma từ tự
căn Dhri (giữ lại, mang) tức là cái được nắm giữ, hay lý tưởng nếu giới
hạn ý nghĩa nó trong tác vụ tâm lý. Trình độ tâm lý sai biệt tùy sự tiếp
nhận của mỗi cá thể:
1. Ở đức Phật nó là sự
toàn giác hay viên mãn giác (Bồ-đề).
2. Lý tưởng diễn tả trong ngôn từ là giáo lý giáo pháp.
3. Lý tưởng đề ra cho đệ tử theo là luật nghi, đức lý, cấm giới.
4. Lý tưởng để chứng ngộ sẽ là nguyên lý, chân lý, bản tính, luật tắc,
điều kiện.
5. Lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sự thật thực tại,
sự kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo hay không bị tạo), tâm và vật, ý thể và
hiện tượng. Trong trường hợp phái duy thật của các luận sư A-tỳ-đạt-ma,
chữ Đạt-Ma được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ năm.
A-tỳ tức Abhi (tiếp đầu
ngữ) có nghĩa là hơn thế, nói về. Như vậy Abhidharma, có nghĩa là pháp tối
thắng, hay là "Thắng", hay trần thuật về pháp. Ngài Buddhagosa (Phật Âm,
Phật Minh) trong Na-tư-mạn-già-la Y-lạp-hy-ni (sách giải thích Dhiga
Nikaya) dẫn bài tụng:" Có pháp tăng thịnh đặc thù, tôn trọng, nói rõ, tối
thượng, thế gọi là A-tỳ-đạt-ma". Như vậy nó rốt ráo có hai điểm. Về nội
dung thì ý nghĩa thù thắng, về phương pháp luận cứu thì tường tận khúc
chiết. Ngài Phật Âm còn nói:". Trong kinh, pháp ngũ uẩn chỉ được thuyết
minh một cách đại khái chứ không đi sâu vào chi tiết, còn trong
A-tỳ-đạt-ma thì phân biệt kinh, phân biệt luận, phân biệt vấn đáp, nên
pháp ngũ uẩn được thuyết minh một cách cặn kẻ đầy đủ".
Luận Đại Trí Độ nói:
"A-tỳ-đạt-ma là gì? Đáp: Là đối vấn mà đáp, hoàn toàn là hình thức
luận cứu, nêu ra nhiều mặt để phân biệt, như nói về 18 giới, thì phân biệt
cái nào có sắc, cái nào không sắc? Cái nào có thể thấy, cái nào không thể
thấy? Cái nào hưũ lậu, cái nào vô lậu? Cái nào thiện, cái nào bất thiện?
Cái nào hữu báo, cái nào vô báo? v.v....như thế gọi là A-tỳ-đạt-ma".
Lại như bảy kiết sử là dục
nhiễm, sân nhuế, hữu ái, kiêu mạn, vô minh, kiến, nghi (Kinh Mật Hoàn Dụ
số 115, Trung A-hàm) trong đó cái nào là dục giới hệ (trói buộc ở cõi
Dục)?. Cái nào là sắc giới hệ? Cái nào vô sắc giới hệ? Cái nào kiến đế
đoạn?. Cái nào tư duy đoạn? Cái nào biến sử? Cái nào bất biến sử? v.v...
Ngài Chân Đế và ngài Huyền
Trang đều dịch Abhidharina là Đối pháp, có nhiệm vụ tập hợp các pháp nghĩa
lại rồi đem ra phân loại, định nghĩa, giải thích và phân biệt. Đối pháp có
hai là Đối quán lý Tứ đế và Đối hướng quả Niết-bàn. Như vậy không thể hiểu
Abhi,A là vô, Bhi là tỷ một cách máy móc được.
B. NGUỔN GỐC CỦA
A-TỲ-DẠT-MA
Nó đã bao gồm trong sự
thuyết pháp của đức Phật. Đức Phật thuyết pháp một cách ung dung tự tại.
Lời Phật nói đơn giản minh bạch không có gì bí mật. Phật đã phân biệt và
phân loại một cách rõ ràng. Như vậy nguồn gốc của A-tỳ-đạt-ma xuất phát từ
Phật.
QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN LUẬN THƯ A-TỲ-ĐẠT-MA
Thời kỳ 1:
Luận thư còn giữ hình thức khế kinh. Trong
thời kỳ 100 năm sau Phật Niết-bàn, chưa chia kinh luận như kinh A-hàm còn
truyền đến ngày nay là do học phong của Giáo hội Tăng đoàn mà được chỉnh
lý và A-tỳ-đạt-ma hóa, cho nên trong đó có những kinh mang nhiều sắc thái
như luận, như kinh Tăng Nhất, Tạp A-hàm, kinh Thế Ký trong Trường A-hàm và
Phân Biệt Bộ trong Trung Bộ, kinh Chúng Tập trong Trường Bộ.
Thời kỳ 2:
Luận thư giải thích nghĩa kinh. Lấy kinh làm bối cảnh rồi định nghĩa, phân
loại, phân biệt, giải thích những điều đã nói trong kinh chứ chưa phát huy
vấn đề gì đặc sắc độc lập, như Vô Ngại Đạo Luận của Phật Âm,
Ma-ha-ni-luật-sa, Cưu-lạp-ni-luật-sa trong Tiểu Bộ hay như Hán dịch Pháp
Uẩn Túc Luận, Tập Dị Môn Túc Luận.
Thời kỳ 3:
Luận thư tiến tới độc lập. Thời kỳ này Luận thư không còn bàn giải nghĩa
kinh mà lấy tất cả đề mục của các kinh tập hợp lại rồi phân loại một cách
tường tận và theo mọi tiêu chuẩn để phân biệt tính chất các đề mục ấy, nội
dung dần dần bao hàm các vấn đề sự thật độc lập hẳn với kinh luật. Đó là
thời kỳ xuất hiện bảy bộ luận của Phật giáo Nam phương và Đại Tỳ-bà-sa
luận của Hữu bộ, Thành Thật luận của Kinh bộ.
Thời kỳ 4:
Là thời kỳ Luận thư cương yếu. Các luận thư A-tỳ-đạt-ma phát huy giáo
nghĩa của các bộ phái khi đã phát triển thì mắc phải cái nạn quá nhiều,
khó học hỏi nổi, nên đòi hỏi phải có các luận thư toát yếu. Bộ luận thư
toát yếu ra đời đầu tiên là bộ A-tỳ-đàm Tâm Luận của Pháp Thắng
(Đạt-ma-thi-la), đến Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận của Pháp Cứu, học trò Pháp
Thắng, rồi đến Câu-xá luận của ngài Thế Thân, Thanh Tịnh Đạo luận của ngài
Phật Âm, luận A-tỳ-đạt-ma Nghĩa Tập của ngài A-nậu-lâu-đà. Hai bộ sau này
thuộc Thượng tọa bộ Tích Lan.
Tóm lại, phương pháp xử lý
vấn đề của các A-tỳ-đạt-ma là trước hết nó hoàn toàn phụ thuộc vào kinh,
chỉ có kinh là có quyền chứng tuyệt đối. Rồi dần dần từ việc giải thích
từng mỗi câu kinh tiến lên thuyết minh toàn thể tư tưởng được gói ghém
trong các câu kinh, trong sự tiến bộ đó nó đã nảy sinh ra thái độ phê phán
tư tưởng trong kinh, cho đến khi không còn bị kinh chi phối, thậm chí
không tôn trọng kinh bằng luận. Luận Đại Tỳ-bà-sa cuốn 5 nói: "Nếu cứ khư
khư chấp chặt từng câu kinh mà không đạt quan chân lý của nó thì người ấy
là "Trước văn Sa-môn". Đó là thái độ của Hữu bộ lấy A-tỳ-đạt-ma làm trung
tâm. Và theo ngài Chân Đế thì Kê dẫn bộ còn cho rằng: "Kinh luật chẳng qua
chỉ là phương tiện, còn đệ nhất nghĩa đế chính thật nằm trong
A-tỳ-đạt-ma". Như vậy A-tỳ-đạt-ma đã có chỗ đặc sắc không giống khế kinh.
Chẳng hạn, ở khế kinh chú trọng giá trị tu chứng thực tiễn theo ch? trương
"chuyển mê khai ngộ" cho nên những điều gì không thiết thực giúp cho việc
chuyển mê khai ngộ thì đức Phật bỏ qua không nói đến. Trong những Pháp môn
Ngài dạy để chuyển mê khai ngộ, Ngài chỉ dạy những điều vừa đủ hiểu để tu
hành, nhưng đến A-tỳ-đạt-ma thì chuyển sang chú trọng nghiên cứu vấn đề sự
thật. Thay vì xử lý các vấn đề tu dưỡng trước, thì A-tỳ-đạt-ma lại lo
thuyết minh một cách tinh tế về sự thật liên quan đến nhân sanh vũ trụ
trước rồi sau mới đề cập vấn đề tu dưỡng. Chủ ý các luận sư A-tỳ-đạt-ma
tuy không coi thường vấn đề tu dưỡng nhưng muốn xác lập lý tưởng tu dưỡng
thì trước phải xác định sự thật.
Sau hết, nhìn vào phạm vi
phân chia các vấn đề cứu xét sự bất đồng giữa mới và cũ. Lúc đầu
A-tỳ-đạt-ma chỉ luận cứu những đề mục đặc thù như thiền định, trí tuệ...
Nhưng trong quá trình tiến bộ liên tục nó đã lấy việc thuyết minh các đề
mục đó một cách hệ thống làm nhiệm vụ và để tránh khó khăn nó lại chia các
vấn đề đó ra từng bộ môn (chư môn phân biệt). Do đó mới có nhiều luận thư,
và sau cùng để tiện việc học hỏi lại có các luận thư cương yếu ra đời.
C. CÁC LUẬN THƯ CỦA THƯƠ ?G
TỌA BỘ
1. Pháp Tụ Luận (Dhamma
Sanghani)
2. Phân Biệt Luận (Vibhanga)
3. Giới Thuyết Luận (Dhatu Katha)
4. Nhân Thi Thiết Luận (Pudgala Pannati)
5. Song Đối Luận (Yamaka)
6. Pháp Trí Luận (Patthana)
7. Thuyết Sự Luận (Kathavasthu)
Ngoài bảy luận thư cơ bản
này còn có các luận thư được sáng tác tiếp theo:
- Thanh Tịnh Đạo Luận
(visudhimagga) của ngài Phật Âm thế kỷ 5 TL, có giá trị như một bộ bách
khoa toàn thư Phật giáo, tính chất tương đương Câu-xá Luận đối với Hữu
bộ. Đây là sách tiêu chuẩn của tân Thượng tọa bộ.
- Trường Tập Kinh Chú Sớ (Sumangala Vilasini) sách giải thích Trường Tập
Kinh (Trường Bộ Kinh).
- Attha Salina, sách chú thích bộ Luận Pháp Tụ.
- Ngũ Thư Thuật Nghĩa (Panca-Pakarana Atthokattha): Năm sách Chú sớ Đối
pháp tạng.
Sau ngài Phật Âm có nhiều
tác phẩm ra đời, trong đó có giá trị nhất là bộ A-tỳ-đạt-ma Nghĩa Tập Luận
(Abhidharmattha Sangaha; H.T Minh Châu dịch Thắng Pháp Tập Yếu) này do
ngài A-nậu-lâu-đà (Anuruddha) viết thế kỷ 8 T.L. Đây là bộ sách ngắn gọn
toát yếu giáo nghĩa Phật giáo, làm sách chỉ nam của Phật giáo Nam phương,
với những giải thích xác đáng rõ ràng giáo nghĩa của Thượng tọa bộ nên
nhiều nơi đã dùng nó thay cho Thanh Tịnh Đạo Luận.
D. CÁC LUẬN THƯ CỦA HỮU BỘ
1. Pháp Uẩn Túc Luận
(Dharma Skandha): 12 cuốn, do Đại-Mục-kiền-liên (Mahamogalyayana), có
thuyết nói do Xá-lợi-phất viết lúc Phật tại thế.
2. Tập Dị Môn Túc Luận (Sangti paryaya pada) do Xá-lợi-phất viết lúc Phật
tại thế. (20 cuốn)
3. Thi Thiết Túc Luận (Prajnapti): Do Ca-chiên-diên (Kaiyaya) viết
lúc Phật tại thế, chưa dịch ra Hán văn.
4. Thức Thân Túc Luận (Vijnanakaya): 16 cuốn do Đề-bà-thiết-ma
(Devasarman) viết sau Phật Niết-bàn 100 năm . 5. Phẩm Loại Túc Luận
(Ptrakarama): 18 cuốn do Thế Hữu viết sau Phật Niết-bàn 300 năm, cũng dịch
là Chúng Sự Phần A-tỳ-đàm Luận (1).
6. Giới Thân Túc Luận (Dhatukaya): 3 cuốn do Thế Hữu viết sau Phật
Niết-bàn 300 năm [*]
7. Phát Trí Luận (Janna Prasthana, A-tỳ-đàm Bát-kiền-độ Luận): 20
cuốn do Ca-chiên-diên tử (Katyayaniputra - Ca-na-diễn-ni tử) viết sau Phật
Niết-bàn 300 năm.
[*] Có trước Đại Tỳ Bà Sa
. Có giá trị nhất trong các luận khác thời đó . Sau đệ tử thấy nhiều mới
gom lại thành Giới Thân Túc Luận.
Bảy bộ luận này, bộ Phát
Trí gọi là Thân Luận, còn sáu bộ kia gọi là Túc Luận, vì nó là chỗ dựa cho
luận Phát Trí được thành, và vì nghĩa lý chứa đựng trong nó ít ỏi không
bằng nghĩa lý trong Phát Trí Luận rộng hơn. Trong đó ba bộ viết ra lúc đức
Phật còn tại thế, bốn bộ viết ra sau khi Phật Niết-bàn. Ngoài bảy bộ luận
cơ bản này, Hữu bộ còn có các luận thư để quảng diễn nghĩa lý các bộ trên
như:
- Luận Đại Tỳ-bà-sa
(Mahavibhasa) 200 cuốn, là kết quả của Đại hội Kiết tập lần thứ tư vào
giữa thế kỷ 2 T.L tại Ca-thấp-di-la (Kasmir, Kế Tân) do các ngài Thế Hữu,
Diệu Âm, Giác Thiên, Pháp Cứu, Hiếp Tôn Giả chủ trì với sự ủng hộ tận lực
của vua Ca-nị-sắc-ca (Kaniska). Bộ này quảng diễn giáo nghĩa của luận Phát
Trí.
- A-tỳ-đàm Tâm Luận
(Abhidharmahridaya) do Pháp Thắng (Đạt-ma-thi-la) tạo vào thế kỷ 6 sau
Phật Niết-bàn (đầu thế kỷ 3 T.L), toát yếu Đại Tỳ-bà-sa Luận.
- Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận
(Samyutara Abhidhar-mahridaya) do đệ tử của ngài Pháp Thắng là Pháp Cứu
(Tăng-già-bạt-ma) tạo vào thế kỷ 7 sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 4 T.L)
nhằm làm rõ nghĩa trong A-tỳ-đàm Tâm Luận, vì cho A-tỳ-đàm Tâm Luận quá
giản lược.
- Câu xá Luận
(Abhidharma Kosa) do Thế Thân (Vasubhandhu) tạo vào 900 năm sau Phật diệt
độ (đầu thế kỷ 5 T.L), 30 cuốn.
- Thuận Chánh Lý Luận:
80 cuốn, do Chúng Hiền đồng thời Thế Thân tạo, nhằm bác lại Câu-xá.
- Hiển Tông Luận:
40 cuốn do Chúng Hiền tạo, nhằm nêu bật tông nghĩa của Hữu bô.
- Kinh Lượng Bộ
- Có Thành Thật Luận 20 cuốn.
Đ. CÁC LUẬN THƯ DO AI NÓI?
Theo ngài Phật Âm trong Nam
phương Phật giáo thì cho rằng, sau khi thành đạo, đức Phật ngồi tư duy
dưới cội Bồ-đề, và về sau trong các buổi thuyết pháp cho thân mẫu trên
cung trời Đao-lợi, chính đức Phật đã nói sáu bộ luận đầu trong bảy luận
thư thuộc Thượng tọa bộ. Sáu luận thư này đã được hình thành tại Đại hội
Kiết tập lần thứ ba, còn bộ Luận Sự thứ bảy do Mục-kiền-liên tử Đế-tu làm
ra khoảng 200 năm sau Phật Niết-bàn, nhưng cũng do lời Phật chú ký mà làm,
nên về quan hệ vẫn được xem như do chính Phật nói. Trái lại, về phía Bắc
phương Phật giáo thì cho rằng các luận thư A-tì-đàm không phải do Phật nói
mà là do các đệ tử Phật nói trong các thời gian khác nhau, hoặc trong lúc
Phật tại thế, hoặc sau khi Phật Niết-bàn. Quan điểm của Bắc phương sát với
sự thật hơn.
-ooOoo-
A. TÁC GIẢ VÀ THỜI GIAN TẠO
LUẬN
Tác giả luận này là Luận
sư Bà-tấu-bàn-đậu (Vasubandhu - cựu dịch là Thiên Thân, tân dịch là Thế
Thân), người Bắc Aán Độ, sanh trong khoảng 900 năm sau Phật nhập diệt, tại
đô thành Bố-lâu-sa-bố-sa (Purusapura), nước Kiền-đà-la (Gandhara), họ
Kiều-thi-la, chủng tộc Bà-la-môn, Ngài có ba anh em đều xuất gia theo bộ
phái Tát-bà-đa (Sarvàstivada: Nhất thế hữu bộ, gọi tắc là Hữu bộ, một
trong hai mươi bộ phái Tiểu thừa), nhưng anh ngài là Vô Trước (Asanga) sớm
tỏ ngộ không lý (Sunyata) của Tiểu thừa, không còn bị bế tắc ở nơi
đó, nên thông suốt thật tướng, quay về nghiên cứu và hoằng dương
giáo lý Đại Thừa. Em ngài là Tỷ-lân-trì-đạt-đa thì chỉ theo giáo nghĩa
Tiểu thừa mà thôi. Riêng ngài là bậc thông tuệ tuyệt vời, khi còn theo
Tiểu thừa đã viết 500 bộ luận để xiễn dương giáo nghĩa này. Về sau, được
sự khuyến dẫn của anh là Vô Trước, ngài trở về Đại thừa và cũng viết 500
bộ luận để hoằng dương giáo nghĩa này. Vì thế, đương thời tôn ngài là
Thiên Bộ Luận Sư. Câu-xá Luận là một trong 500 bộ luận Tiểu thừa do ngài
trước tác. Đến năm 80 tuổi ngài viết bộ luận cuối cùng là "Duy Thức Tam
Thập Tụng". Như vậy, có thể ước định, ngài viết luận Câu-xá vào khoảng
từ 40-50 tuổi, tức khi ngài đang theo Tiểu thừa.
Theo Tây Vức Ký 2, cách
thành Bố-lâu-sa-bố-la, khoảng tám, chín dặm về phía đông, có một cây
tất-bát-la, phía nam cây này có một ngôi tháp cao do vua A-nị-sắc-ca
(Kaniska, 120TL) dựng lên khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, phía tây
ngôi tháp có một ngôi chùa cao rộng, với nhiều tầng, tên là Quỳnh Lâm,
cũng do vua Ca-nị-sắc-ca lập. Tầng thứ ba là một Tăng phòng, nơi mà trước
kia ngài Hiếp Tôn Giả ở, phía đông Tăng phòng có một gian nhà, chính nơi
đây ngài Thế Thân viết bộ luận Câu-xá này.
B. Y ٠HƯỚNG TẠO LUẬN
Khi tách khỏi Thượng tọa
bộ, Hữu bộ có kiến giải riêng về Phật pháp. Theo Hữu bộ mục đích của toàn
bộ Phật pháp ở chỗ chỉ ra sự khổ của thế giới hiện hữu và phương cách
thoát ly sự khổ đó để đạt Niết-bàn an ổn vĩnh cửu. Nói đầy đủ hơn là chỉ
rõ sự khổ mà người cầu giải thoát cần phải biết, nguyên nhân sự khổ mà
người cầu giải thoát cần phải diệt trừ, phương cách diệt khổ cần phải tu
và cảnh giới Niết-bàn an vui cần phải chứng. Đó là bốn Thánh đế bao gồm
tất cả mọi sự vật thế gian và xuất thế gian. Mọi sự vật này lại có thể
chia ra năm vị là sắc, tâm, tâm sở, tâm bất tương ưng và vô vi. Sắc tức
năm căn, năm trần và vô biểu sắc. Tâm tức tinh thần, khả năng nhận thức,
tức tâm vương. Tâm sở là công dụng tinh thần đặc thù như cảm giác, tri
giác, tưởng tượng v.v... Công dụng đặc thù này không phải là công dụng của
tâm vương nhưng nó có tự thể riêng hợp cùng với tâm vương thành có cảm
giác tri giác, như thọ tâm sở hợp với tâm vương thành có sự cảm thọ vui
khổ. Tâm bất tương ưng hành, hành là tạo tác, những pháp có công dụng tạo
tác gọi là hành như sanh, trụ, dị, diệt v.v... nó từ tâm và sắc mà có
được, chứ không phải như tâm sở tương ưng với tâm vương, nên gọi tâm bất
tương ưng hành. Vô vi pháp tức ba thứ trạch diệt, phi trạch diệt và hư
không vô vi. Năm vị pháp này theo chỗ tiện nghi chia làm năm uẩn và vô vi,
hoặc chia làm mười hai xứ, hoặc chia làm mười tám giới. Năm uẩn, mười hai
xứ, mười tám giới hợp lại gọi là ba khoa, thể nó thường hằng bất diệt, chỉ
khi tác dụng nó chưa khởi gọi là pháp vị lai, khi đã khởi rồi gọi là quá
khứ, khi đang khởi gọi hiện tại. Đây là chủ trương "ba đời thật có", "pháp
thể hằng có" của tông phái Hữu bộ. Pháp thể tuy hằng có, nhưng tác dụng
của nó sanh khởi được phải nhờ đến sự hòa hợp của các cái khác và sự quan
hệ trước sau, tức là nhờ nhân duyên, chứ không thể đơn độc khởi lên tác
dụng. Tự thể mỗi pháp riêng còn không thể khởi lên tác dụng huống là có
một chủ tể thường nhất để gọi đó là ngã được sao? Do đó tông này còn được
gọi là "Pháp hữu ngã vô tông".
Hỏi:
Nếu không có ngã thể chủ tể thường nhất thì cái gì dẫn đến sự khổ của thế
giới hiện thực này?
Đáp:
Dẫn đến sự khổ của thế giới hiện thực không ngoài nghiệp nhân và phiền não
duyên, nếu dứt hết nghiệp nhân và phiền não duyên thì quả báo sự khổ tự
dứt, đồng thời chứng đắc diệu thể Niết-bàn. Phương pháp dứt nghiệp phiền
não này nói lược là Thánh đạo tám chi, nói rộng là bảy khoa ba mươi bảy
giác phần. Tóm lại, tông phái Hữu bộ rất chú trọng lý tánh, chú trọng dùng
tuệ giản trạch các pháp để dứt mê hoặc chứng chân lý. Cho nên trên bước
đường tu đạo không ngoài vận dụng tuệ thế tục (hưũ lậu tuệ) và tuệ thắng
nghĩa (vô lậu tuệ) tuần tự tiến theo ba đạo là kiến đạo, tu đạo, vô học
đạo. Kiến đạo là dựa vào tuệ trạch pháp thấy biết một cách xác thật về lý
Tứ đế, dứt được kiến hoặc cũng gọi mê lý hoặc. Tu đạo là tiến lên dùng sức
tuệ trạch pháp tiếp tục quán sát lý Tứ đế, để dứt trừ tư hoặc cũng gọi là
mê sự hoặc (sự là sự trạng). Nhưng hai đạo này còn trên đường tu tập dứt
hoặc chứ chưa hòan toàn thanh tịnh, nên còn gọi chúng là hữu học, cho đến
khi hòan toàn sạch hết mê hoặc chứng đạt Niết-bàn mới gọi là vô học đạo,
còn gọi là vô học vị. Lại do căn cơ người tu có hạ, trung, thượng nên kết
quả khác nhau. Hạ căn phải nhờ nghe giáo pháp Phật để tu mới được giải
thoát, đây là chủng tánh thanh văn, kết quả chứng A-la-hán. Trung căn
không nhờ sự nghe giáo, chỉ do tự lực quán sát lý Mười hai Nhân duyên mà
dứt hoặc ngộ đạo. Đây là chủng tánh duyên giác, kết quả chứng độc giác
Phật. Thượng căn trải nhiều kiếp tu hành đầy đủ nhất thế chủng trí, dứt
sạch mê hoặc, viên mãn công hạnh tự lợi lợi tha, chứng vô thượng giác. Đây
là chủng tánh đại giác.
Giáo nghĩa của Hữu bộ từ
khi tách khỏi Thượng tọa bộ cho đến khi luận sư Ca-đa-diễn-ni tử ra đời
mới tổ chức hoàn chỉnh có hệ thốngvới bộ luận Phát Trí của ông, được
truyền bá mạnh nhất tại nước Ca-thấp-di-la (Kasmir, Kế Tân) ở Bắc Aán. Đến
giữa thế kỷ thứ hai TL, vua Ca-nị-sắc-ca của Ca-thấp-di-la triệu tập Đại
hội Kết tập Kinh điển lần thứ tư dưới sự chủ trì của các ngài Hiếp Tôn
Giả, Pháp Cứu, Thế Hữu, Diệu Âm, Giác Thiên thuộc Hữu bộ (trong đó, Thế
Hữu làm Thượng thủ), kết quả đặc bi?t của cuộc kết tập là cho ra đời bộ
luận A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa 200 cuốn, nhằm giải thích luận Phát Trí. Từ
trước các học giả A-tỳ-đạt-ma được gọi là Đối pháp sư, từ khi luận Đại
tỳ-bà-sa ra đời thì các học giả này được gọi là Tỳ-bà-sa sư, nghĩa là vị
thầy giải thích tỉ mỉ. Họ truyền bá rất mạnh Hữu bộ, tôn trọng luận Lục
Túc, Phát Trí hơn kinh, mạt sát các kinh luận của các bộ phái khác hành
trì và cứ mê chấp chủ trương "Ba đời thật có, ba khoa đều thật", cho đó là
chân lý, rồi chê bai kẻ khác.
Đến đây các luận thư của
Hữu bộ đã phong phú, lý nghĩa dồi dào đến chi li phiền toái, người học khó
theo nổi, đòi hỏi đến sách tóm lược. Đáp ứng nhu cầu đó, Pháp Thắng đã
viết A-tỳ-đàm Tâm luận, rồi Như Y ٠Luận sư viết Vô Y Hư Không Luận giải
thích Tâm Luận. Pháp Cứu, đệ tử của Pháp Thắng (cũng gọi Pháp Thượng,
Đạt-ma-thi-la), không đồng ý Hư Không Luận nên viết Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận
để giải thích Tâm Luận của thầy mình. Các luận này tuy nói là tóm lược Đại
Tỳ-bà-sa nhưng đã có nhiều điều không trung thực với Đại Tỳ-bà-sa, nghĩa
là không trung thực với lý thuyết Hữu bộ, nên khi Tâm Luận ra đời được
truyền bá tại nước Càn-đà-la trở thành đối lập với sự truyền bá của Đại
Tỳ-bà-sa ở Ca-thấp-di-la. Ngài Thế Thân sinh tại Càn-đà-la đọc đến Tâm
Luận, Tạp Tâm Luận, cùng giáo nghĩa của Kinh bộ có chỗ đồng tình, ngược
lại không đồng tình một số giáo nghĩa chính của Hữu bộ nhưng Hữu bộ đã tôn
trọng nó hơn cả kinh Phật nói, nên ngài muốn thẩm định lại thị phi, bèn
cải trang đến tại Ca-thấp-di-la nghiên cứu giáo nghĩa Hữu bộ, nhất là
nghiên cứu bộ luận Đại tỳ-bà-sa, được giữ nghiêm ngặt tại nước đó. Khi đến
nơi ngài được vị A-la-hán Ngộ Nhập (Tác-kiện-đà) (Tây Tạng truyền rằng
ngài học với Chúng Hiền là học trò của Ngộ Nhập) truyền dạy giáo nghĩa Hữu
bộ cho. Sau 4 năm học hiểu thấu trọn giáo nghĩa Hữu bộ ngài được ngài Ngộ
Nhập ngầm khuyên trở về. Khi ngài trở về nước bắt đầu giảng Đại Tỳ-bà-sa,
tập hết yếu nghĩa tạo thành 600 bài tụng, trong đó thường thêm chữ "truyền
thuyết" biểu thị sự không tin hẳn chủ trương "Ba đời thật có, pháp thể
hằng có" của Hữu bộ. Sáu trăm bài tụng này được đưa đến Ca-thấp-di-la, các
học giả Ca-thấp-di-la rất hoan nghênh và yêu cầu giải thích, ngài đã giải
thích và đúc kết thành bộ luận Câu-xá với nội dung trình bày theo sự hiểu
biết độc lập của mình chứ không thiên vị tông phái nào. Tuy ngài theo Hữu
bộ, nhưng nếu giáo nghĩa nào của Hữu bộ không đúng thì ngài đều bỏ qua,
còn nếu giáo nghĩa nào của Kinh bộ mà đúng thì thì ngài thu lấy, mục đích
là trừ bỏ bịnh tình chấp ngoan cố hẹp hòi từ trước của nhà Hữu bộ, để phát
huy chân lý Phật, và phát huy chân lý Phật tức là để giúp cho chúng sanh
khai sinh trí tuệ, đoạn trừ phiền não, lấy đó làm cách duy trì Chánh pháp
tồn tại lâu dài ở thế gian. Xem bài tụng cuốn luận này đủ thấy ngài không
theo hẳn giáo nghĩa chính thống của Hữu bộ: "Nghĩa lý của Ca-thấp-di-la
đã hoàn bị. Có một ít điều chê bai đó là lỗi ở tôi, nhưng phê phán đâu là
chính, điều đó chỉ do ở đức Mâu-ni". Đối với luận Câu-xá này, Tây Vức
Ký cuốn 4 đã viết: "Bấy giờ có Bồ-tát Thế Thân chuyên tâm đạo mầu, tìm
hiểu nghĩa lý bên ngoài ngôn ngữ, phá chỗ mê chấp của Tỳ-bà-sa, tạo luận
Câu-xá, lời lẽ nghĩa lý tinh vi, lý trí cao siêu trong sáng".
Do lẽ trên nên khi luận
Câu-xá ra đời được mọi người hoan nghênh nghiên cứu và được tôn là Thông
minh luận, khiến Luận sư Chúng Hiền viết Thuận Chánh Lý luận 80 cuốn để
kích bác lại.
C. TỒ CHỨC CỦA BỘ LUẬN
CÂU-XÁ.
Như đã biết, luận này nhằm
mục đích phá thiên chấp của Hữu bộ để làm sáng tỏ chân lý của giáo pháp.
Tuy nhiên, để thấy rõ chân lý ấy, Luận được trình bày như sau: Toàn bộ
luận này có 30 cuốn chia làm 9 phẩm:
1. Phẩm Phân biệt giới,
2 quyển
2. Phẩm Phân biệt căn, 5 quyển
3. Phẩm Phân biệt thế gian, 5 quyển
4. Phẩm Phân biệt nghiệp, 6 quyển
5. Phẩm Phân biệt tùy miên, 3 quyển
6. Phẩm Phân biệt hiền thánh, 4 quyển
7. Phẩm Phân biệt trí, 2 quyển
8. Phẩm Phân biệt định, 2 quyển
9. Phẩm Phân biệt ngã, 1 quyển
Chín phẩm này nhằm thuyết
minh hai điều:
1. Tám phẩm đầu (29
quyển): Thuyết minh sự tướng của các pháp.
2. Phẩm Phá ngã (1 quyển): Thuyết minh lý vô ngã.
Hoặc nói rõ hơn, toàn bộ
Luận không ngoài thuyết minh về bốn nghĩa chính sau đây:
1. Thể dụng của vũ trụ
vạn hữu (phẩm Giới và Căn).
2. Nhân và quả của mê (các phẩm 3, 4 và 5).
3. Nhân và quả của ngộ (các phẩm 6, 7 và 8).
4. Đạo lý vô ngã (phẩm 9).
Đồ biểu:
1. Thể dụng các pháp |
Thể (P.1) |
Nói tổng quát pháp hữu
lậu, vô lậu. |
Dụng (P.2) |
2. Nhân quả của mê |
Quả (P.3) |
Nói riêng về hữu lậu
(mê) |
Thân nhân (P.4) |
Sơ duyên (P.5) |
3. Nhân quả của ngộ |
Quả (P.6) |
Nói riêng về vô lậu
(ngộ) |
Thân nhân (P.7) |
Sơ duyên (P.8) |
4. Đạo lý vô ngã |
(P.9) |
|
D. TÔN CHỈ CỦA LUẬN
Như tổ chức của Luận này
chắc chắn nó phải có đối tượng tôn sùng và có chủ đích để làm tôn chỉ. Vậy
tôn chỉ của nó là gì? Đó là: "Quán sát cùng tột lý nhân quả của mê và
ngộ để đạt đến chân trí vô lậu của Niết-bàn". Tại sao nói như vậy? Bởi
lẽ, nếu không nhằm mục đích ấy, thì thuyết minh về thể tánh, tác dụng của
vạn hữu ở hai phẩm Giới và Căn gồm 7 quyển để làm gì? Thuyết
minh về nhân và quả của mê ở ba phẩm Thế gian, Nghiệp, Tùy miên gồm
14 quyển, để làm gì? Thuyết minh về nhân và quả của ngộ ở ba phẩm Hiền
Thánh, Trí, Định gồm 8 quyển, để làm gì? Và đả phá chủ trương Hữu ngã
của luận phái cổ đại Aán Độ như Số luận (Samkhya) và Thắng luận
(Vaisesika) và Độc tử bộ ở phẩm Phá ngã 1 quyển, để làm gì? Tất cả
đều nhằm mục đích phát khởi chân trí vô lậu của chúng sanh để quét sạch
trần cấu vọng niệm vô minh mà đạt đến Niết-bàn. Cứ xem đề mục của Luận thì
càng thấy rõ tôn chỉ của nó. Đề mục của Luận là: A-tỳ-đạt-ma Câu-xá
(Abhidharma Kosa). A-tỳ (Abhi) dịch là đối; Đạt-ma (Dharma)
dịch là pháp; Câu-xá (Kosa) dịch là tạng. Vậy A-tỳ-đạt-ma
Câu-xá là Đối pháp tạng.
Đối có hai nghĩa: 1. Đối
quán lý mê ngộ (lý Tứ đế). 2. Đối hướng quả Niết-bàn. Nhưng lấy cái gì để
đối quán và đối hướng? Đó là trí tuệ vô lậu chân chính. Luận
này chứa đựng trọn vẹn trí tuệ ấy nên mệnh danh là Đối pháp tạng.
Đã gọi là Đối pháp tạng, thì tôn chỉ được thuyết minh trong đó không ngoài
trí tuệ đối pháp.
Tóm lại, giáo nghĩa của
Luận này tuy trăm sai ngàn biệt, nhưng tôn chỉ trọng yếu không ngoài khai
phát trí tuệ vô lậu mà thôi.
Đ. PHIÊN DỊCH VÀ HOẰNG
TRUYỀN
Luận được truyền sang do
hai nhà dịch: Chân Đế - người nước Ưu-thiền-ni (Ujyaini) ở Aán Độ
sang Trung Hoa dịch thành 22 quyển dưới triều Trần Văn Đế, niên hiệu Thiên
Gia thứ 4 (563 TL), được các Ngài Trí Khải đời Trần và Tịnh Huệ đời Đường
viết sớ giải truyền bá. Người thứ hai là Huyền Trang đời Đường dịch
thành 30 quyển, trong những năm 650 TL và có các Ngài Thần Thái, Phổ
Quang, Pháp Bảo, Viên Huy, Huệ Huy viết sớ giải truyền bá. Từ đó, Luận này
trở thành bộ Luận căn bản của Câu-xá tông tại Trung Hoa.
---o0o---
Mục lục |
1
| 2 | 3 |
4 | 5 | 6 |
7 | 8
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn
Đạo Hữu Bình An Sơn đã gởi tặng tập sách này
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-08-2002