Chương
6
Năm
Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận
Có năm phương cách để đối trị sân hận. Chúng giúp
xóa tận gốc rễ của sân hận. Đó là gì? Nếu
sân nổi lên, cần làm như sau: vun trồng tâm từ, vun trồng
tâm bi, vun trồng tâm xả. . . . Đừng để ý, đừng quan
tâm đến người đó. Nếu oán ghét nổi lên, hãy nhớ
đến quy luật làm chủ hành động của mình, đó là: “Người
làm hành động gì là chủ của hành động đó, sẽ thừa
hưởng hành động đó, sẽ tái sinh từ chúng, bị bó buộc
vào chúng, nương tựa nơi chúng, và những tốt, xấu người
ấy đã làm sẽ là di sản của người ấy.”
Anguttara-Nikàya
V.161
(Tăng
Chi Bộ – V.161)
Bất cứ ai đã kinh nghiệm trạng thái sân hận đều biết
chúng khó chịu thế nào. May mắn thay, Đức Phật đã dành
cho chúng ta những lời hướng dẫn rõ ràng về cách buông
bỏ sân, cách sống sao để tránh sân hận, và Đức Phật
đã truyền đạt lời dạy của mình bằng những câu chuyện
để giúp chúng ta ghi nhớ những lời giáo huấn ấy.
Tất cả chúng ta đều biết tâm sân hận khó chịu thế nào,
nhưng chúng ta lại thấy khó buông bỏ chúng, do đó lời dạy
thực tiễn của Đức Phật thật rất hữu ích. Bài thuyết
giảng đầu tiên, ngắn gọn về đề tài này được gọi
là: “Năm Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận”, và nó được
nói như sau:
Có Năm Phương Cách Để Đối Trị Sân Hận.
Chúng giúp xóa bỏ mọi dấu vết của sân hận. Đó là gì?
Nếu sân dấy khởi, đây là điều cần làm: Hãy vun trồng
tâm từ, vun trồng tâm bi, vun trồng tâm xả.
Nhưng làm sao chúng ta có thể vun trồng những tình cảm này
ngay ở giây phút ta đang cảm thấy sân hận? Nói cho cùng,
từ, bi và xả là ba trong bốn tình cảm cao thượng nhất.
Tình cảm thứ tư, hoan hỷ, không được nhắc đến ở đây
có lẽ là vì hoan hỷ với người ta vừa cảm thấy sân hận
là điều đòi hỏi quá sức, nhưng nếu chúng ta không thể
thực hiện bất cứ một trong ba điều kể trên, thì còn có
một cách thứ tư, đó là:
Đừng chú ý, đừng quan tâm đến người đó.
Nếu chúng ta nhận thức và chấp nhận rằng trong một số
trường hợp, chúng ta không thể kiểm soát tình cảm của
mình, không thể chế ngự sân hận, rằng chúng ta chỉ tự
hại mình, thì chúng ta có thể ít nhất cố gắng không trụ
tâm nơi đó. Chúng ta có thể tránh xa người đó hoặc
làm gì khác cho đến khi cơn sân hận đã giảm xuống chút
ít hay hoàn cảnh đã thay đổi đủ cho chúng ta có thể thực
hành tâm từ bi trở lại.
Vào một dịp khác Đức Phật đã cho một thí dụ như sau:
“Chúng ta nhìn thấy một người bạn ở bên đường, nhưng
chúng ta không tiến bước về phía đó, bắt tay, thăm hỏi
bạn; thay vào đó, chúng ta hành động như thể ta không nhìn
thấy anh ta”. Chúng ta ở phía bên nây đường vì chúng ta
biết rằng gặp mặt người ấy chỉ khiến ta tức giận.
Phương cách thứ năm đặc biệt quan trọng:
Nếu sân hận dấy khởi, ta cần nhắc nhở tâm về điều
luật mình làm chủ hành động của mình, đó là: “Người
hành động là chủ của hành động mình, người đó phải
thừa hưởng hậu quả hành động mình, người ấy sẽ sinh
ra từ các hành động của mình, người ấy bị trói buộc
vào chúng, nương tựa vào chúng, và bất cứ điều phải,
điều trái nào người ấy đã làm, sẽ là điều người ấy
phải nhận lãnh”.
Làm chủ hành động của mình có nghĩa là làm chủ nghiệp
của mình. Cách nhìn về nghiệp như thế -như là một sở
hữu- rất thông thường, nhưng nó có thể cho ta một cái nhìn
rất mực hữu ích. Nếu chúng ta giận dữ với ai vì họ đã
làm điều bất thiện, chúng ta cần phải tự nhủ rằng tất
cả mọi người đều lãnh nhận kết quả của sự chủ tâm
của mình. Luật nhân quả áp dụng cho tất cả mọi thứ trong
vũ trụ cũng như cho mỗi cá nhân. Những hành động có chủ
tâm sẽ mang đến hậu quả mà ta không thể nào tránh né.
Tuy nhiên hai người cùng thực hiện một hành động giống
nhau có thể nhận lãnh những hậu quả khác nhau.
Đức Phật đã giải thích sự việc này bằng một thí dụ:
“Nếu bạn bỏ một thìa muối vào một ly nước, nước đó
sẽ không còn uống được. Tuy nhiên nếu bạn vãi muỗng muối
đó xuống sông Hằng, thì nước sông này không thay đổi chút
nào”. Ly nước đem so sánh với sông -tượng trưng cho sự
tích luỹ ít ỏi của các việc thiện: nếu chúng ta tạo thêm
một bất thiện nào trên chỉ một ly đầy các việc thiện,
chúng ta có thể biết là hậu quả sẽ nghiêm trọng thế nào.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có cả một con sông đầy các thiện
nghiệp ở phía sau, thì chỉ một hành động bất thiện có
thể không gây thiệt hại gì. Vì chúng ta không biết người
khác đã làm gì, nghĩ gì trong quá khứ, dầu trong kiếp này
hay trong các kiếp quá khứ, không có cách gì ta có thể đoán
biết được nghiệp quả của người khác. Tuy nhiên, ta biết
qua những gì ta có thể nhìn thấy nơi chính bản thân, là
tất cả mọi người đều hái quả của các hành động của
họ.
Nếu ai đã hành động không khéo léo khiến chúng ta do đó
bị thiệt hại, hay tổn thương, chúng ta có thể dễ dàng
trở nên sân hận. Điều quan trọng là ở ngay giây phút đó,
ta có thể nhớ rằng tất cả mọi người có cách sống riêng
ở đời, tạo nên những tập quán nhân quả của riêng họ.
Chúng ta như thế nào trong hiện tại hầu hết là do kết quả
của các hành động có chủ tâm của ta. Nếu không chú tâm
tìm hiểu giáo pháp của Đức Phật -nhiều người không có
hứng thú gì trong việc này- thì sẽ không có ai đọc quyển
sách này. Vì thế có đủ lòng ưa thích để đọc, để lắng
nghe Pháp là một cách để tạo nghiệp lành- nếu với chủ
tâm tốt, vì ta cũng có thể tạo ra nghiệp xấu khi làm việc
gì đó bên ngoài có vẻ là thiện. Vấn đề này khá phức
tạp, tuy nhiên, nếu ta có thể tự nhắc nhở mình về luật
nhân quả, có thể sẽ giúp ta dễ buông bỏ sân hận hơn.
Đó là năm phương cách để diệt bỏ các sân hận mà ta được
biết đến.
Trong một số trường hợp Đức Phật khuyên ta nên xa lánh
những hoàn cảnh có thể gây khó chịu cho ta. Chúng ta nên
tránh những sự gặp gỡ khiến ta nổi sân, nhất là khi tình
cảm ta không được quân bình và dễ kích động -cũng như
ta nên bảo vệ mình khỏi người xấu, lũ voi hoang dại, rừng
rậm và những thứ nguy hiểm khác. Dầu ta không nên chạy
trốn những hoàn cảnh khó xử, việc thú nhận rằng ta không
thể đối mặt với mọi hoàn cảnh, là điều hoàn toàn có
thể chấp nhận được. Chúng ta cần phải cố gắng hết
sức mình để hành xử trong mọi hoàn cảnh với tâm từ bi,
nhưng cũng phải chấp nhận rằng đôi khi ta phải bó tay, không
thể thích ứng với mọi hoàn cảnh.
Xả được coi là tình cảm cao thượng nhất, và không nên
nhầm lẫn nó với thái độ dửng dưng. Xả không chỉ
hàm chứa lòng từ bi -điều mà dửng dưng không có- mà nó
còn phát khởi từ tri kiến về vô thường, về thực chất
là mọi chuyện của ngày hôm nay sẽ khác đi ở ngày
mai. Bên trong ta hay bên ngoài, tất cả mọi thứ đều luôn
thay đổi; ngay chính niềm tin và quan điểm của ta hôm nay
cũng sẽ hơi khác đi ngày mai, và bất cứ cố gắng nào để
ngăn cản quá trình này cũng đưa đến khổ đau. Xả có nghĩa
là chấp nhận mọi thứ như chúng là, như thế đối với
người nguyện tiến bước trên con đường tâm linh, điều
ấy có nghĩa là không tạo ra xung đột bằng cách xen vào việc
của người.
Xả hàm chứa một sự chấp nhận và bằng lòng êm ái. Như
thế ta có thể làm gì với sự phiền não này? Điều cần
lưu ý trước tiên là phải chắc chắn rằng ta không làm điều
gì để tạo thêm khổ đau, rồi thì xem xét mỗi hoàn cảnh
với sự cảm thông, và sửa đổi những gì có thể. Nếu
chúng ta có thể sửa đổi những điều kiện bên ngoài mà
không đánh mất sự bình an nội tâm, thì càng tốt, nhưng
nói chung, chúng ta chỉ có thể có những sửa đổi sâu xa
nơi bản thân, và điều đó cũng đủ khó rồi.
Đoạn kế tiếp trong kinh là những lời giảng giải dài hơn
về cùng một chủ đề của Ngài Xá Lợi Phất, người là
“cánh tay mặt” của Đức Phật. Ngài Xá Lợi Phất nổi
tiếng thông thái, trí tuệ và thường diễn giải các bài
kinh của Đức Phật. Khi được hỏi rằng những lời dạy
của ngài Xá Lợi Phất có đúng không, Đức Phật luôn đáp
đúng.
Ngài Xá Lợi Phất dạy rằng: “Có năm cách để đối trị
sân hận, qua những phương cách này ta sẽ có thể đối trị
được sân hận. Năm cách đó là gì? Nếu một người không
trong sạch trong hành động, nhưng lời nói trong sạch, thì
sân hận đối với người đó cần được chế ngự. Nếu
một người có lời tà ngữ, nhưng trong sạch trong hành động,
thì sân hận đối với người đó cần được chế ngự.
Thêm nữa, nếu có người hành động lẫn lời nói đều không
trong sạch nhưng đôi khi họ cũng có lòng tin, thì sân
hận đối với người đó cần được chế ngự. Lại nữa,
nếu có người hành động lẫn lời nói đều không trong sạch,
mà lúc này lúc khác cũng không có lòng tin, thì sân hận đối
với người đó cũng cần được chế ngự. Lại nữa, nếu
có người lời nói lẫn hành động đều trong sạch, và lại
lúc này hay lúc khác mở lòng đón nhận niềm tin, thì sân
hận đối với người đó cần được chế ngự”.
Như vậy ngài Xá Lợi Phất đã kể ra năm loại người khác
nhau – và tiếp tục trình bày, bằng những ẩn dụ ngắn,
cách làm sao để đối phó với từng người, kiềm chế được
sân hận đối với họ. Lời nói của chúng ta có thể tốt
lành nhưng ta lại hành động xấu xa, hay những lời chúng
ta nói có thể không được khéo léo nhưng ta có hành động
thiện. Giả thuyết thứ ba là cả hành động và lời nói
có thể đáng trách, nhưng tâm cởi mở. Trường hợp thứ
tư, kể cả tâm cũng đóng chặt, cứng nhắc. Cuối cùng là,
lời nói và hành động đều đáng biểu dương, cùng với
một trái tim cởi mở.
Chúng ta làm thế nào để chế ngự sân hận đối với loại
người thứ nhất? Giống như một vị sa môn mặc y phấn tảo,
gặp giẻ rách nằm trên đường, vị ấy với chân trái giữ
tấm vải, chân mặt kéo thẳng ra, rồi xé lấy phần vải
còn nguyên vẹn, để mang theo, cũng thế với người có hành
động không trong sạch, nhưng lời nói trong sạch, tâm ta lúc
ấy nên nghĩ tới lời nói thanh cao hơn là việc làm uế nhiễm
của người ấy. Bằng cách đó lòng sân hận đối với người
ấy sẽ được chế ngự.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, tất cả vải vóc đều
dệt bằng tay, rất đắt tiền, nên chư tăng ni thường mặc
những y bằng vải chấp vá. Nếu họ tìm thấy những mảnh
vải trên đường hay giữa các đống rác, họ có thể nhặt
về để may lại với nhau. Trong câu chuyện thí dụ này, một
vi sa môn tìm thấy mảnh vải rách, ông xé lấy phần còn sử
dụng được, và bỏ lại các phần khác. Đó là cách ta nên
ứng dụng khi nghĩ đến người có hành động bất thiện,
nhưng lời nói thiện: chúng ta nên bỏ qua những hành động
xấu mà chỉ nghĩ đến lời nói của họ. Nói vậy không có
nghĩa là ta sẽ ngó lơ những hành động bất thiện họ đã
làm; ta vẫn nhìn ra nhưng không phán xét họ, vì kết án hay
buộc tội đều dẫn đến sân hận. Rất ít có gì hoàn hảo
trên thế gian, nên trên lý thuyết ta có thể bực bội từ
sáng đến tối. Nhưng nếu ta chỉ chủ tâm đến những tánh
tốt của người mà ta thấy giận ghét (không phải là không
có lý do), thì ta có thể chế ngự cơn giận của mình. Có
thể họ có rất nhiều điều xấu, mà chỉ có ti li điều
tốt, nhưng ta vẫn nên hướng chủ tâm đến điều tốt của
họ.
Làm vậy, chính chúng ta mới là người được nhiều lợi
ích hơn cả, vì có thể người kia không hề biết đến sự
bất mãn của ta. Ngay nếu như chúng ta có nói điều đó
ra, họ khó có thể chấp nhận ý kiến của ta. Có lẽ
tốt nhất là nhắc nhở rằng họ đã làm điều gì đó không
tốt, nhưng sẽ hoàn toàn không ích lợi gì nếu ta giận dữ
nói cho họ biết là ta cảm thấy oán trách họ. Phương cách
để chế ngự sân hận, và trở về với nội tâm tĩnh lặng
của mình, là hãy nghĩ đến những điều tốt của người.
Những xáo trộn nội tâm chỉ làm cho cuộc đời thêm khó
sống.
Ngài Xá Lợi Phất sau đó lại cho một thí dụ khác:
Giả dụ như có một mặt hồ bị bao phủ bởi những rong
rêu, một người đang nóng bức, chảy mồ hôi, mệt nhoài,
khát nước, nghĩa là đang chịu khổ, tiến gần đến hồ,
leo xuống hồ, gạt bỏ lớp rong rêu ở nhiều chỗ với cả
hai tay, vốc nước lên tay uống, rồi tiếp tục cuộc
hành trình. Cũng bằng cách đó đối với người có lời nói
không trong sạch, nhưng hành động tốt, ta phải chú tâm không
phải vào lời nói ô uế mà vào hành động thanh cao của người
ấy. Do đó ta có thể chế ngự sân hận đối với người
đó.
Vậy là ta thấy một người đang đi trong cái nắng cao độ,
mệt lả, khát nước. Vì rong rêu bao phủ mặt nước, anh ta
không thể giải cơn khát của mình ngay lập tức. Nhưng
anh ta đã biết nghĩ để đẩy lớp rong rêu qua một bên, uống
nước và được hồi sức. Tương tự, chúng ta có thể để
qua một bên những lời nói không tốt đẹp của một người
mà chỉ nghĩ đến những hành động trong sạch, tốt đẹp
của họ. Hãy nhớ đến, thí dụ như, những trường hợp
khi họ đã giúp đỡ người khác, hay nghĩ đến những đặc
tính của họ, và để qua một bên những điều họ khiến
ta bực bội trong giai đoạn này.
Những thí dụ như thế tạo thành những phương tiện hỗ
trợ mạnh mẽ, dễ nhớ cho việc thực hành này. Chúng ta chỉ
cần tưởng tượng ra những mảnh giẻ rách nằm đó, sờn
rách, nhưng có thể tái sử dụng được. Hay hình ảnh những
rong rêu được gạt sang một bên để phơi bày nguồn nước
sạch trong, tươi mát. Sau đây là câu chuyện ví dụ thứ ba:
Giả dụ trong lỗ chân trâu có một ít nước, và có một
người đang bị sức nóng chế ngự, sướt mồ hôi, mệt nhoài,
khát, do đó đang rất khốn khổ, đi ngang qua và nhìn thấy
nước. Anh ta nghĩ, “Nếu ta vớt chút nước ít oi đọng lại
trong lỗ chân trâu bằng hai tay hay với một vật chứa nào,
ta sẽ khuấy động nước khiến không uống được nữa. Do
đó, tôi thà là phải quỳ xuống giống như con bò trên bốn
chân để hớp được ngụm nước, rồi tiếp tục cuộc hành
trình”. Và đó là điều anh ta đã làm. Cũng thế,
với những ai có lời nói và hành động không thanh tịnh,
nhưng tâm họ đôi khi cũng mở rộng tiếp nhận niềm tin,
thì ta không nên để tâm đến hành động và lời nói uế
nhiễm của họ lúc ấy. Thay vào đó, ta nên quán chiếu
rằng tâm người đó đôi khi cũng rộng mở, cũng có niềm
tin. Do đó ta nên chế ngự sân hận đối với một người
như thế.
Nếu người lữ hành này vục tay hay dùng đồ múc vào nước,
thì nước sẽ bị vẩn bùn, không uống được. Cũng
thế, nếu chúng ta chỉ nghĩ đến những điều tồi tệ nhất
của một ai đó, nghĩ đến những lời nói khó nghe của họ
và phản ứng: chúng ta sẽ bị “khuấy động”. Khi tình
cảm khó chịu này càng tăng lên, chúng ta sẽ không còn thấy
an nhiên. Điều quan trọng trong câu chuyện thí dụ là
người lữ hành đã quỳ gối xuống để uống nước, vì
nói một cách bóng bẩy, chúng ta cũng phải quỳ gối xuống,
và hiểu với tất cả lòng khiêm hạ rằng chúng ta chỉ có
thể tìm được sự bình an ở nội tâm khi chúng ta biết chấp
nhận những hành động, lời nói không thanh tịnh của người.
Ví dụ này có lẽ dễ nhớ, vì uống từ nước đọng trong
dấu chân trâu không phải là một điều tốt đẹp để tưởng
nghĩ đến. Những nếu chúng ta đang khát lả -ý chỉ nỗi
bất an trong tâm do sân hận mang đến- chúng ta sẽ chấp nhận
uống bất cứ thứ nước nào có thể tìm thấy. Chúng ta chịu
đựng những uế nhiễm của người, chúng ta tránh khuấy động
chúng lên, kết quả là ta có thể giữ được sự bình an
trong nội tâm mình. Người lữ hành trong câu chuyện thí dụ
được uống chút gì đó, và chúng ta thì cũng có thể tìm
được điều gì đó để làm dịu bớt căng thẳng trong sự
liên hệ giữa ta với người mà hành động và lời nói quá
uế nhiễm. Chúng ta tự nhắc nhở mình rằng họ cũng có tấm
lòng đôi khi cũng rộng mở để đón nhận niềm tin. Hơn thế
nữa, kể cả khi ta nghĩ đến hành động và lời nói của
họ, ta cũng có thể nhớ lại rằng một con người như vậy
cũng có điểm tốt nơi họ. Nhìn được họ như thế, chúng
ta có thể có sự chấp nhận và giảm bớt sự nóng nảy,
sôi sục trong ta.
Đây là câu chuyện thứ tư:
Hãy tưởng tượng ra một người, bịnh nặng, đau đớn, đang
bước đi trên đường. Anh ta đang ở một nơi cách xa các
làng mạc ,không thể tìm được đồ ăn hoặc thuốc
men, hay ai đó để trông nom, chỉ dẫn giùm anh ta. Nhưng
rồi cũng có người nhìn thấy anh ta, cảm thấy thương xót,
phát khởi tâm thiện với ý nghĩ, “Mong rằng người đàn
ông đó tìm được thức ăn, thuốc men thích hợp, một ai
đó để chăm sóc cho anh, dẫn đường cho anh, nếu không anh
ta khó thoát chết!” Cũng thế, đối với một người
mà hành động, lời nói đều không trong sạch, và cũng chưa
từng mở lòng đón nhận niềm tin, chúng ta cần phải có lòng
từ bi, thương xót, thiện ý, với tư tưởng, “Mong rằng
con người cao quý này có thể từ bỏ những tánh xấu trong
ý nghĩ, hành động, lời nói, và mong rằng anh ta có thể thực
hành những ý nghĩ, lời nói, hành động thanh cao; mong
anh ta, khi thân đã hoại sau khi chết, không phải đọa vào
thế giới hạ tiện, đi trên con đường đau khổ". Bằng
cách đó, chúng ta có thể chế ngự được sân hận đối
với một người như thế.
Thí dụ này trình bày cho ta thấy những liên hệ nghiệp quả,
người ta sẽ phải đối mặt với hậu quả của các hành
động của mình ra sao, do đó chúng ta có thể phát khởi lòng
thương xót cho họ như thế nào. Nếu nói hay hành động hay
có những ý nghĩ bất thiện, chúng ta thật sự đang bị tham
sân hành hạ, như thể đang bị bịnh hành khổ. Chúng ta nói,
hoặc hành động do sân hận, hay hành động hoặc lời nói
của ta phát xuất từ lòng tham. Tất cả chúng sanh đều khổ
đau như thế do sự độc hại của vọng tưởng, mà như Đức
Phật đã giải thích, là do sự độc hại tiềm ẩn của tham
và sân. Tất cả đều tạo cho ta bất an, và bao điên đảo
trên thế giới: trong gia đình, trong thương trường và giữa
các quốc gia.
Nếu tham sân có thể được coi như một dịch bịnh, thì Đức
Phật có thể được xem như một vị đại dược sư,
và Pháp, giáo lý của Ngài, là thuốc chữa. Thuốc chữa bịnh
có thể không dễ uống, nhưng chắc chắn là ta sẽ được
chữa lành. Câu chuyện ẩn dụ của người bịnh không tìm
được sự giúp đỡ, do đó thật đúng và dễ nhớ. Chúng
ta đã gặp rất nhiều người đau khổ vì những hành động
bất thiện, những lời nói không thanh tịnh, và sự thiếu
lòng tin của họ, và phản ứng hợp lý duy nhất của ta là
đối xử với họ bằng lòng thương cảm, với hy vọng rằng
họ sẽ chóng khỏi bịnh, tìm được sự bình an nội tâm,
do đó chấm dứt việc phải gặt hái những hậu quả đớn
đau của họ. Chúng ta thường mong mọi người thân được
sức khỏe, thì không khó khăn gì để chúc họ một loại
sức khỏe tốt khác: không bị tham sân chế ngự. Cách
nhìn sự vật như thế có thể mang nhiều lợi ích cho sự
tu tập của ta.
Thí dụ thứ năm và cũng là cuối cùng tươi sáng hơn:
Giả dụ có một hồ nước trong, sạch sẽ, mát mẻ, ở một
vị trí rất đẹp, một nơi chốn đặc biệt, dưới bóng
những rặng cây xanh. Và hãy tưởng tượng có người đi ngang
qua đấy mệt lả vì nóng, mồ hôi tuôn tràn, khát lả, nghĩa
là đang rất khốn khổ. Anh ta bước xuống hồ, tắm mát,
uống nước hồ đó. Rồi leo trở ra ngoài, ngồi hay nằm dưới
bóng cây. Cũng thế, với người mà hành động, lời nói thanh
tịnh, và lòng luôn cởi mở, đầy lòng tin, chúng ta lúc đó
phải chú tâm, quán chiếu về sự thanh tịnh trong lời nói
và hành động, cũng như tấm lòng cởi mở, có tín tâm của
người ấy. Do đó ta có thể chế ngự sân hận đối với
một người như thế.
Người mà hành động, lời nói thanh tịnh và tâm thường
cởi mở được so sánh với một hồ nước tuyệt vời với
nước trong lành, mát mẻ. Ngay nếu như ta có thể
bị tổn thương bằng cách nào đó bởi một người như thế,
ta có thể chế ngự bất cứ sự phát khởi nào của sân hận
bằng cách nhận ra rằng họ là nguồn phước báu cho chúng
ta và cho bao người khác, và rằng không có cơ sở nào để
ta gán ép tình cảm sân hận đối với họ, vì cách cư xử
của họ trong đời quá đỗi thanh tịnh, đời sống tình cảm
của họ thì tràn đầy tình thương, bi mẫn. Bài kinh
kết thúc với câu kinh sau đây:
Tâm ta có thể tìm được sự bình an ở người mà trong mọi
hoàn cảnh đều phát khởi tín tâm và sự tự tin.
(Anguttara-Nikaya v. 162 – Tăng Chi Bộ số 162)
Chúng ta có thể tăng trưởng thêm sự an bình nội tại gấp
bội bằng cách thường xuyên tiếp xúc với người mà ta hoàn
toàn tin tưởng. Đức Phật thường nhấn mạnh với chúng
ta điều quan trọng là phải giữ bạn hiền, tìm kiếm thiện
hữu tri thức: những người sống đời thanh cao, đi theo con
đường đạo, và có thể giúp ta làm giống như họ.
Một người như thế sẽ nhìn cuộc đời rất khác với kẻ
chỉ thích vật dục, và người ấy có thể giúp ta làm được
như thế. Tuy nhiên, ta cần phải duy trì lòng tin vào một người
bạn như thế. Nếu lòng tin của ta đối với họ bị lung
lay, chúng ta sẽ không tìm được sự bình an cho đến khi ta
có thể thiết lập lại được niềm tin đó. Nếu không, có
thể ta cần phải buông bỏ tình bạn đó.
Sân và tâm luyến ái muốn được thương yêu là hai mặt của
một đồng tiền. Trong mỗi hoàn cảnh chúng ta đều có cùng
một trở ngại tiềm ẩn. Nếu có ai đó xúc phạm đến ta,
đó có thể là biểu hiện của việc họ thiếu sót tình thương
đối với ta, những cũng có thể là do họ không được khoẻ,
hay có thể chỉ là họ không biết phải giao tiếp với người
khác như thế nào. Tuy nhiên, đối với chúng ta, hành
vi của họ có thể được coi là một sự chống đối. Nếu
ta muốn được thương yêu, nhưng không được như thế, ta
sẽ cảm thấy buồn, rồi đưa đến sân hận. Tình thương
có thể là thuốc chữa cho tất cả mọi người, giúp cho thân
tâm của họ được tốt hơn -nhưng đây không phải là loại
tình yêu đòi hỏi điều kiện, cũng như tùy thuộc vào ta
có thể tìm được người nào đáng yêu không. Nói cho cùng
thì chỉ có bậc Giác ngộ mới hoàn toàn đáng yêu. Ta hướng
tâm mình đến tình thương yêu, và khi tình thương yêu đó
đã trở thành một đặc tính của tâm thì sẽ không còn là
vấn đề nếu đối tượng có đáp trả lại tình thương
của ta không. Dẫu cho người kia có thương yêu hay không thể
thương yêu, không ảnh hưởng gì đến ta cả. Ước muốn
được yêu thương chỉ là một khía cạnh khác của ngã chấp.
Nếu chúng ta không chắc rằng mình có đáng yêu hay không,
và ta chọn để người khác quyết định điều đó cho ta,
chắc là ta sẽ thất vọng, vì tất cả mọi người thường
hay thay đổi ý kiến, cũng như chúng ta.
Trước hết ta phải xác định với chính mình là chúng ta
thực sự đáng yêu, và với ý nghĩ này trong tâm ta nhận thức
rằng mọi người cũng đáng yêu như thế. Dầu ta đều có
những lỗi lầm như mọi người khác, chúng ta vẫn xứng đáng
được thương yêu. Như thế ta cũng phải nhận thức rằng
ta không cần phải đi tìm ai đó để yêu thương ta, vì cội
nguồn thực sự của tình thương yêu đã được tìm thấy
ở trong tim ta. Do đó sẽ không cần phải sân hận hay buồn
khổ nếu có ai đó không màng đến ta. Vì họ chưa hoàn toàn
có khả năng yêu thương, ta nên thương cảm cho họ.
Do đó khi đoạn diệt sân hận, chúng ta cũng cần buông bỏ
việc tìm kiếm tình thương yêu từ người khác. Như thế
là tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết, vì sân
hận không thể phát khởi từ trái tim tràn đầy tình thương
yêu. Nhưng tình cảm thì luôn thay đổi, và trái tim mấy ai
luôn bền vững, nên việc chế ngự sự không bền vững này
là một trong những khía cạnh quan trọng trên con đường thực
hành tâm linh của ta. Nếu chúng ta có thể thành công,
thoát khỏi quyền lực tình cảm của kẻ khác, khỏi những
điều kiện bên ngoài nói chung, bằng cách vun trồng sức mạnh
nội lực của tình thương yêu để nó không còn phải khuất
phục trước những quyền lực này, thì chúng ta mới thực
sự thực hành tâm linh. Dầu chúng ta có đến được cuối
con đường thực hành này hay không, không phải là vấn đề;
chúng ta chỉ cần tiếp tục đi theo con đường thanh tịnh
hoá đó.
Chương
7
Chúng
Ta Phải Tin Vào Gì?
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn đi du hành qua Kosala
cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đến Kesaputta, thị trấn của
các người Kàlàmà. Bấy giờ, người Kàlàmà ở Kesaputta
nghe tin rằng: Sa-môn Gotama, là vị khổ hạnh, Thích tử, Phật,
người đã rời bỏ cung điện sống đời xuất gia, đã
đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau về Sa-môn
Gotama được lan truyền rộng rãi:
‘Ngài là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật. Sau khi tự thực
chứng, Ngài đã giảng dạy cho chư thiên và loài người, hàng
tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân, Ngài đã giảng
Pháp vi diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng
cuối; Ngài đã giảng về đời sống phạm hạnh chi tiết
và rõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn thanh cao.
Lành thay, nếu chúng tôi được yết kiến một vị Ứng Cúng
như vậy.”
Anguttara-Nikaya
iii.65
Tăng
Chi Bộ - Kinh Kalama iii.65 (5)
(5)
Hòa Thượng Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ Kinh, Tập 1, trang 337,
NXB Tôn Giáo 2005
Kinh Kalama là một trong những bài kinh nổi tiếng nhất của
Đức Phật, và kinh này đặc biệt quan trọng đối với những
ai muốn đi theo con đường tâm linh, nhưng phải đối mặt
với một số lượng lớn những giáo pháp trước mắt
-không biết phải đi theo con đường nào. Bộ tộc Kalama là
một trong nhiều bộ tộc ở Ấn Độ vào thời Đức Phật
còn tại thế. Đức Phật đã hướng dẫn cho họ cách
tìm ra lời giải cho câu hỏi trên.
Kinh bắt đầu bằng câu "Như vầy tôi nghe,' xác định là
bản kinh đã được đọc lại sau khi Đức Phật nhập diệt
bởi tôn giả Ananda, là em bà con đồng thời cũng là thị
giả của Đức Phật suốt hai mươi năm.
“Như vầy tôi nghe. Một thời Đức Thế Tôn du hành
qua Kosala cùng với đại chúng tỳ kheo, đi đến Kesaputta, thị
trấn của các người Kalama. Bấy giờ các vị Kalama ở
Kesaputta nghe tin rằng Sa-môn Gotama, là vị khổ hạnh, Thích
tử, Phật, đã từ bỏ cung điện sống đời xuất gia, đã
đến Kesaputta. Và những lời tốt đẹp như sau về Đức
Thế Tôn được lan truyền rộng rãi:
‘Ngài là Đức Thế Tôn, bậc Ứng cúng A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật. Sau khi
tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy cho chư Thiên và loài
người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân.
Ngài đã giảng Pháp vi diệu từ chặng đầu, chặng giữa,
cho đến chặng cuối. Bằng lời nói và trí tuệ, Ngài đã
giảng về đời sống phạm hạnh hoàn toàn tinh khiết.
Lành thay, nếu chúng ta được yết kiến một vị Ứng cúng
như vậy’.
Vì thế người Kalama của Kesaputta đi đến nơi Đức Phật
đang trú ngụ. Có người cung kính đảnh lễ Đức Phật
rồi ngồi xuống một bên; có người chào Đức Thế Tôn rồi
ngồi xuống; người khác chấp hai tay lại vái Đức Thế Tôn;
người lại xướng tên họ gia tộc mình; người khác nữa
chỉ ngồi xuống mà không nói gì”.
Theo đoạn kinh này rõ ràng người Kalama không phải là đệ
tử của Đức Phật. Họ biết điều quan trọng là đi
đến gặp Đức Phật, nhưng không phải tất cả đều thấy
việc phải nghe Đức Phật là điều quan trọng. Họ đơn
giản là muốn tìm hiểu các giáo lý, và danh tiếng của Đức
Phật –đã đến tai họ trước khi Ngài đến- rằng Ngài
rất khéo giảng dạy giáo thuyết về sự thanh tịnh bản thân.
Mọi người chào hỏi Đức Phật theo cách mà họ cho là đúng.
Ta có thể hình dung ra được khung cảnh ấy có lẽ hơi lộn
xộn một chút, với hàng trăm người đến, đảnh lễ, cung
kính thưa hỏi, thông báo tính danh, hay chỉ tìm một chỗ để
ngồi xuống. Giá mà tất cả đều là đệ tử Đức
Phật thì khung cảnh có lẽ sẽ trật tự, yên tĩnh hơn: mọi
người có lẽ sẽ chỉ vái chào rồi ngồi xuống – nhưng
đó rõ ràng không phải là trường hợp như thế ở đây.
Ở đây thính giả là những người đang trên cuộc hành trình
tìm đến tâm linh, những người đã từng nghe được những
điều tốt lành về thái tử Siddhattha Gotama của dòng họ
Thích Ca, hay Đức Phật như ngài đã trở thành.
Sau khi đã ngồi xuống như thế, người Kalama ở thành Kesapputta
bạch cùng Đức Thế Tôn.
Có lẽ là vị trưởng lão trong thành đã đứng lên trình
bày vấn đề mà hình như là của tất cả đám đông:
‘Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta.
Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng
quan điểm của người khác, họ bài xích, khinh miệt, chê
bai, xuyên tạc. Bạch Thế Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn
[đẳng cấp giáo sĩ – không phải tất cả bà-la-môn đều
là giáo sĩ, nhưng tất cả giáo sĩ đều là bà-la-môn] khác
đến Kesaputta, cũng làm như thế: Họ làm sáng tỏ, làm
chói sáng quan điểm của mình, nhưng quan điểm của người
khác, họ bài xích khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Ðối với
họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân trong
những vị Sa-môn, Bà-la-môn này, ai là người đã nói lên
sự thật và ai đã gian dối.’
Dĩ nhiên đó là điều khiến cho bài kinh này trở nên khá
phổ biến: bất cứ người có chút thông minh nào ngày nay
cũng đã trải qua kinh nghiệm này. Từ mỗi và mọi phía,
ta sẽ được nghe những điều khác nhau, và có quá nhiều
kẻ nói lên quan điểm, lập trường của họ với ta, với
đầy vẻ thuyết phục như nhau. Do đó, ở đây, người
Kalama cũng đã nhận xét thấy là các vị diễn giả này tung
hô những ý kiến của họ, không kể gì đến người khác,
miệt thị quan điểm của người khác, và tuyên bố rằng
chỉ có ý kiến của họ là có giá trị nhất. Kết quả
là người Kalama đã trở nên rất nghi ngờ, phân vân không
biết phải tin vào đâu. Đây là câu trả lời của Đức Phật:
‘Đúng thế, các vị Kalama, các vị đáng phải nghi ngờ,
các vị đáng phân vân. Đối với việc người ta không
thể chắc chắn, thì phải phát sinh nghi hoặc trong lòng’.
Đức Phật đồng ý; Ngài đã hiểu vì sao họ phải nghi ngờ
trước bao nhiêu quan điểm khác nhau, nhất là khi có nhiều
vị giáo sĩ đã lăng mạ, sỉ vả lẫn nhau. Vì lẽ đó, Ngài
đã đưa ra mười nguyên tắc, mà giờ chúng ta đều được
biết. Không cần phải nói, những nguyên tắc này cũng dành
cho cả chúng ta. Thật thú vị khi Đức Phật khuyên rằng,
chính bản thân Đức Phật, và những lời dạy của Ngài,
cũng phải được phán xét bởi các nguyên tắc ấy. Sau
đó, Đức Phật cũng đưa ra những quy luật tương ứng theo
đó người ta có thể tìm được những phương hướng đích
thực của mình, nhưng để bắt đầu Ngài đã liệt kê những
tiêu chuẩn được coi như không chính đáng, không đầy đủ.
‘Chớ có tin bởi những lời đồn đãi, . . . hay bởi người
ta nói với bạn, . . . hay bởi truyền thống, . . . ‘