|
.
VIPASSANA
- THIỀN MINH SÁT
Phạm
Doãn
|
|
Khi
tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên, là phải làm
ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng,
cũng không thể nào làm yên được những ý nghĩ tạp nham
trong đầu mình. Lúc mới đầu tập thiền tôi cũng gặp cái
khó khăn như thế. Hình như có quá nhiều sự việc, ý nghĩ,
xuất hiện trong đầu ta: chuyện quá khứ, chuyện tương lai,
chuyện mới vừa xảy ra, chuyện chưa xảy ra, những hình ảnh,
âm thanh, cảm xúc buồn vui, ham hố, sợ hãi…lung tung. Tất
cả như xuất hiện liên tục hoặc đồng thời. Kinh khủng!
và quả thực không chịu nổi. Ngồi thiền… thất bại! Một
đêm quá tuyệt vọng với cái đầu “nhiều chuyện” của
mình, tôi giận dữ trừng mắt nhìn chăm chăm vào nó, và nhận
ra rằng khi ta chăm chú nhìn vào cái mớ tư tưởng điên đảo
lộn xộn đó, dường như nó trở nên bớt kích động hơn,
và dần dần dường như nó yên tĩnh lại! Trong tình huống
này phải nói là “tức cười”: tôi quan sát sự chuyển
động loạn xạ của tâm tôi. Tâm tôi nhìn ngắm tâm tôi.
Tôi trở thành chứng nhân (witness) của chính bản tâm tôi.
Mới đầu làm chứng nhân hơi khó, nhưng với cố gắng, mọi
người đều có thể làm được thôi. Chính nhờ phương pháp
này mà nhiều người đã “an” tâm và ngồi thiền được.
Rồi
cũng kể từ đó, mỗi lần khi ngồi xuống để thiền, là
tự động tôi làm chứng nhân để quan sát tâm mình. Hành
động này lâu ngày như ăn sâu vào vô thức. Ngoài việc quan
sát tâm mình, để tâm trở nên yên ổn, tôi còn quan sát toàn
bộ cơ thể vật lý của mình, từng bắp thịt , từng khớp
xương. Vì làm vậy tôi cảm thấy rất “relaxing” và có
khi còn giảm được mọi cảm giác đau nhức nữa. Về sau
mới biết phương pháp này chính là VIPASSANA (Thiền minh-sát),
và Vipassana là phép quán của Phật giáo nguyên thủy.
Nguồn gốc
Vipassana
Không
thỏa mãn với các loại thiền định của các thày dạy của
mình (Alara,Uddaka, năm anh em Kiều Trần Như), ngay cả khi đạt
được định chứng cao nhất của bốn vô sắc định là Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, Đức Phật đã chọn một phương
pháp thực hành khác, để tiếp tục tu hành và chứng đắc,
đó là: Vipassana (thiền minh sát).
Vipassana
là tên gọi bằng tiếng Pali, thứ ngôn ngữ mà Đức Phật
dùng để thuyết pháp. Vipassana trong tiếng Sanskrit gọi là
Vipashyana. Cũng nên ghi nhận, Đức Phật dùng tiếng Pali, là
thứ tiếng dân giã, để thuyết giảng giáo lý của mình.
Vipassana nghĩa đen là nhìn (to look), nghĩa bóng là chứng nhân
(to witness).
Nguyên
lý của Vipassana là trở thành “chứng nhân” của chính cơ
thể, tư tưởng và cảm xúc của mình, đơn giản thế thôi!
Đây là một pháp thiền quán.
Thiền
của Phật giáo nguyên thủy chia làm hai pháp chính:
- Chỉ
(Samatha): Dừng yên tâm, còn gọi là định hoặc định
chỉ. Pháp “chỉ” đưa đến sự nhập định (Samadhi). Định
của Phật giáo nguyên thủy gọi là jhana. Tiếng Việt gọi
là tứ thiền hay bốn định hữu sắc (jhana). Những pháp “định
chỉ” không dẫn đến trí huệ, mà chỉ làm trí lực, định
lực mạnh mẽ lên. Người ta hay ví sự thực hành “định
chỉ” giống như là mài bén lưỡi gươm của đức Văn thù.
- Quán
(Vipassana): Theo dõi, quan sát các đối tượng thuộc thân
và tâm. Quán dẫn đến Huệ. Huệ mới dẫn đến cứu cánh
giải thoát.
Thiền
quán Vipassana được thực hành trong Phật giáo nguyên thủy
(Theravada). Các tu sĩ của Phật giáo nguyên thủy có khi chỉ
thực hành pháp quán vipassana. Có khi vừa thực hành Vipassana,
vừa thực hành pháp định chỉ (samatha). Rất nhiều phương
pháp thiền khác, trong hoặc ngoài đạo Phật, mà cốt tủy
vẫn là Vipassana. Đó là phương pháp chứng nhân (witnessing).
Thực hành Vipassana
Gồm
có ba bước
Bước
một:
Trước
hết quan sát chính cơ thể của mình. Đây là một pháp nội
quán, nghĩa là phải quay ý thức vào trong để cảm nhận toàn
bộ thân thể của chính mình. Như vậy, ta quan sát từng hơi
thở vật lý của ta, ta quan sát từng động thái của ta, ta
quan sát từng tư thế của ta. Ta đứng làm chứng nhân để
quán sát và nhận biết toàn thể con người vật lý của ta.
Các
pháp quán hơi thở (anapranasati) đều có nguồn gốc là Vipassana
giai đoạn một. Hơi thở được nhận biết một cách tự
nhiên, không phải thay đổi như trong yoga. Sau khi đi qua các
nước châu Á khác như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật bản, Đại
Hàn… thì phép quán hơi thở (sổ tức) lại bị sửa đổi
hình thức như phải quán ở mũi hay ở rốn, thở nhịp này,
thở nhịp kia, hay ngưng thở v.v…
Pháp
Thiền hành mà Thày Nhất Hạnh phổ biến hiện nay chính là
Vipassana bước một. Ngày xưa, Đức Phật cũng từng có thói
quen đi rất chậm, nghe ngóng từng bước chân của mình chạm
trên mặt đường sỏi đá. Nói chung, ta có thể quán sát bất
cứ bộ phận nào của cơ thể hoặc bất cứ chuyển động
nào của thân như một đối tượng để thiền quán.
Quán
hơi thở hay theo dõi bước chân là giai đoạn đầu tiên, giai
đoạn chuẩn bị của Vipassana chứ không phải là toàn bộ
phương pháp. Có lẽ vì không hiểu tường tận, nên có nhiều
người thắc mắc rằng làm sao quán hơi thở mà đạt được
chân lý !
Bước
hai:
Khó
hơn một chút, bằng cách quán đến một đối tượng phức
tạp và ồn ào hơn nhiều; đó là những ý nghĩ, những tư
tưởng, đang ào ạt vụt qua óc ta. Ý nghĩ hay Tư tưởng, mặc
dù vô hình, thật ra vẫn có bản chất vật lý, chúng là sóng
điện não tức sóng vật lý. Quán sát tư tưởng chính là
quán sát cái biểu hiện của sóng vật lý, thế thôi!. Trước
cái đầu óc náo động điên loạn, ta chỉ đứng đó làm
chứng nhân, lặng lẽ quan sát, tuyệt đối không có một ý
kiến nào cả. Chỉ một niệm ý kiến hay phê bình khởi dậy
là ta bị lôi ngay vào dòng tư duy náo loạn đó. Phải tách
ra, đứng làm chứng nhân, im lặng nhìn dòng chảy của ý nghĩ
tuôn qua. Việc tách đôi giữa “ta” và “mình” lúc đầu
có thể hơi khó, nhưng chỉ một thời gian ngắn là ta có thể
thực hiện được. Sau một thời gian tập luyện, dòng chảy
tâm thức ồn ào kia sẽ dịu lắng và dừng lại.
Bước
ba:
Người
thực hành Vipassana phải tập quan sát những đối tượng vi-tế
hơn nữa. Đó là các cảm xúc của chính mình như buồn, vui,
giận dữ, ham hố, sợ hãi…. Ta, nhân chứng, phải luôn sẵn
sàng mỗi khi cảm xúc trổi lên, phải nhận ra rõ ràng từng
cảm xúc đó. Đối trị với biển cảm xúc, ta vẫn phải
luôn giữ chặt chẽ nguyên tắc: chỉ im lặng quan sát mà không
phê phán. Với thời gian, ta sẽ kiểm soát được tất cả
các cảm xúc của mình, ngay cả khi nó mới chỉ là ý đồ
muốn bùng dậy.
Sau
khi thực hành vững vàng ba bước của thiền quán Vipassana,
ta cũng sẽ có một định lực mạnh mẽ giống như tập samatha,
làm chủ được mọi ý nghĩ và cảm xúc. Tâm sẽ đạt trạng
thái yên ổn thanh tịnh. Trí huệ sẽ bí mật phát triển.
Bước thứ tư là một món quà tặng bất ngờ vào một ngày
nào đó không định trước: Sự giác ngộ.
Nguyên lý Vipassana
Trong
kinh điển, Vipassana là pháp quán (contemplation) cơ thể vật
lý và các hiện tượng tự nhiên đang xảy ra trong cơ thể.
Cơ thể vật lý và các hiện tượng tự nhiên đang xảy ra
trong cơ thể là biểu hiện của ngũ uẩn (five aggregates): sắc,
thọ, tưởng, hành, thức. Quán “ngủ uẩn” tức là đã
quán toàn bộ tất cả sự hiện hữu của ta: Cái đang là
(being). Vipassana không chọn đối tượng quán là các vật,
các sự vật, các khái niệm ngoài thân, ngoài sự hiện hữu
chân thật của ta. Ví dụ nếu chọn đối tượng quán là
hình ảnh một vị Phật, thì ta sẽ mắc sai lầm ở chỗ:
bất cứ hình ảnh của một vị Phật nào đó, luôn luôn là
do khái niệm từ tâm ta dựng nên, mà bản chất của tâm chưa
giác ngộ luôn luôn là một ảo tưởng. Nếu ta chọn sự quán
tưởng về bất cứ điều tốt đẹp nào, ví dụ quán về
lòng từ bi hoặc lòng bác ái, thì lòng từ bi hay bác ái đó
cũng chỉ là: Cái đã được đặt tên (named or labelled), cái
mà ta không thể nào biết nội dung chân thật của nó. Khoa
học khảo sát các vật, sự vật, hiện tượng ở ngoài ta,
cho nên cái biết của nhà khoa học là cái biết bên ngoài.
Nói cách khác khoa học chỉ biết cái thể hiện bên ngoài
của một nội dung bí mật bên trong. Vipassana khảo sát chính
nội dung chân thật của bản thể ta bằng chính ý thức tự
thức của ta. Như vậy, Vipassana nhận thức được hiện hữu
chân thực của ta một cách trực tiếp, mà không phải thông
qua một khái niệm hay tên gọi nào.
Vipassana
chọn đối tượng quán là ngủ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,
Thức. Ngũ uẩn là toàn bộ sự hiện hữu của ta. Bình thường
ta chỉ nhận biết được cái "thân bên ngoài" của ta. Rất
khó để ta nhận ra cái "thân bên trong". Đó là toàn bộ sự
vận động phức tạp và vi tế, của ý thức và mọi cảm
xúc, bên trong của ta. Vipassana là pháp quay vào trong, quan sát
tất cả mọi thực tại mọi diễn biến bên trong tức quan
sát cái "thân bên trong" cùa ta. Vì thế Vipassana còn được
gọi là pháp quán "thân trong thân".
Pháp
quán Vipassana, không hẳn là một cực đối lập với pháp
định Samatha. Định là cột chặt ý thức vào một đối tượng.
Quán là cột chặt ý thức vào một chuỗi hiện tượng hoặc
sự kiện đang xảy ra. Như thế trong quán vẫn có định. Cả
hai Samatha và Vipassana đều dẫn đến Jhana. Người ta dùng
nội dung của Jhana để phân định các giai đoạn tiến triển
của Vipassana. Vipassana-jhana được mô tả như định chứng
của Vipassana. Ngài Ajhan Chah có phân tích rất rõ về trải
nghiệm Vipassana. Ngài cũng giải thích bằng thực chứng về
tính nhất quán giữa jhana và Vipassana.
Kết luận
Vipassana
là phương pháp chân truyền của đạo Phật, được Phật
giáo nguyên thủy Theravada lưu giữ. Tuy nhiên, Vipassana không
phải là một pháp bí truyền hay độc quyền của bất cứ
giáo phái nào. Nguyên lý của Vipassana có thể nhìn thấy trong
tất cả các phương pháp thiền định khác. Đứng trên nguyên
lý của Vipassana, bạn có thể nhìn lại tất cả các phương
pháp thiền định của mọi tông phái khác với một nhãn quan
sáng tỏ và rõ ràng hơn.
- Ví
dụ bạn đang tập quán niệm hơi thở (anapranapati) thì đây
là Vipassana bước một. Bạn đang quán cái chuyển động cụ
thể nhất của cơ thể đó là hơi thở.
- Ví
dụ khi đi Thiền hành với từng bước chân chăm chú đầy
tỉnh thức, bạn sẽ biết rằng đó là bước đầu tiên của
Vipassana.
- Ví
dụ như được dạy rằng “Thấy vọng liền buông”. Bạn
sẽ biết buông bằng cách nào hiệu quả nhất? Không thể
bằng ý chí buông bỏ, mà buông bằng Vipassana hiệu quả nhanh
hơn.
- Ngay
cả nếu như bạn đang thực hành Mười bức tranh trâu của
Thiền tông (tức mười giai đoạn tiến triển của tâm trong
quá trình tu tập). Thực hành Vipassana, bạn có thể ung dung
chăn trâu qua cả mười giai đoạn này.
Ở
Việt nam, Thiền tông và các tông phái khác, được phổ biến
nhiều hơn Thiền nguyên thủy. Nhưng hiểu biết về Vipassana
và nguyên lý của nó, dù sao cũng sẽ mang lại một thông tin
cần thiết và hữu ích với tất cả mọi người. Sau cùng
cũng mong cầu được các bậc Thiện tri thức bỏ chút thời
gian chỉnh sửa lại các kiến giải chưa đúng.
Chú thích:
Hình
post ở đầu trang là tranh truyền thần của Sakya Muni năm 41
tuổi, do học trò của ngài là tôn giả Phú Lâu Na (Punna Mantàniputta)
vẽ, hiện đang lưu trữ tại Viện Bảo tàng Hoàng Gia Anh quốc.
Ảnh này tôi lấy từ cuốn sách "Giải thoát trong lòng bàn
tay", do sư cô Trí Hải dịch. Không biết nguồn gốc tranh
có chính xác hay không nhưng tôi cảm thấy hình ảnh Đức
Phật thực hơn so với những hình ảnh truyền thống. Hình
đã được chuyển sang gam màu nâu đỏ cho phù hợp với font
chữ.
Phật
giáo nguyên thủy (Theravada): hình thành và phát triển ở
Tích Lan (Sri Lanca), ngay sau thời Phật diệt độ, bởi các
vị trưởng lão của đạo Phật lúc đó. Hiện tại Theravada
vẫn đang thịnh hành tại Sri Lanca, Miến Điện, Thái Lan, Laos,
Cambodia và một số nước khác. Phật giáo nguyên thủy chia
tiến trình Thiền từ thấp lên cao bằng bốn mức: Sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Bốn thiền (jhanas) này đưa
đến bốn định gọi là Sắc định (rupa jhana)
Phật
giáo tiểu thừa (Hinayana): hình thành sau Theravada, tồn tại
một thời gian ở Ấn độ, hiện nay đã suy tàn và theo một
học giả Tiểu thừa không còn tồn tại nữa. Hội Phật giáo
thế giới cũng không dùng đến tên gọi tiểu thừa từ 1950.
Phật
giáo đại thừa phát triển ngoài Ấn độ, tại các nước
như Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn..Chính cách dùng
chữ “Đại-thừa”, bánh xe lớn, mà người ta luôn luôn
có ấn tượng đây là Đại tông môn ưu việt hơn những tông
phái khác. Bây giờ là thời đại Internet, không có thông tin
nào không thể không biết, bạn chỉ cần vài cú click là có
thể biết được những điều từ lâu chưa từng biết!
Jhana
là âm latin hóa từ tiếng Pali có nghĩa là Thiền. Jhana là
định của cõi sắc
Dhyana
là âm Latin hóa từ tiếng Sanskrit cũng dịch là Thiền. Nhưng
bản chất của Dyhana thì khác hẳn Jhana. Dhyana (Thiền của
Đại thừa) đưa đến bốn định gọi là Vô sắc định,
mà có người gọi là Tưởng định. Bốn định Vô Sắc là:
Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi
tưởng phi phi tưởng xứ. Sakya Muni lúc đi tìm đạo, đã từng
đạt được định vô sắc cao nhất là Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, nhưng ngài đã bỏ đi vì thấy nó vô ích.
Thiền
của Thiền tông hoàn toàn khác với Thiền của Phật giáo
nguyên thủy và đại thừa, được dịch từ chữ Zen (Nhật
bản), chan (Trung quốc), hay son hoặc seon (Hàn quốc). Thiền
tông là một tông phái rất đặc thù chủ trương kiến tánh
thành Phật, phủ nhận mọi phương-pháp và phủ nhận mọi
quả-vị. Thiền tông lại chia ra nhiều tông phái nhỏ hơn.
Những tông phái này hoặc tham công án, hoặc khán thoại đầu,
hoặc có ngồi thiền, hoặc có khi chẳng cần ngồi thiền.
Chú
ý: Cũng một chữ Thiền trong tiếng Việt, mà ta có rất nhiều
cách hiểu, với nội dung hoàn toàn khác nhau.
Phạm
Doãn
|