THIỀN
LUẬN NĂM
Ý
NGHĨA CỦA TÂM KINH BÁT-NHÃ
TRONG
PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG
I.
PHẠN VĂN TÂM KINH BÁT-NHÃ VÀ HÁN DỊCH
Bát-nhã
tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn
nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán
dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ. Đây là bản lưu
hành phổ biến nhất trong giới Phật tử Nhật bản, Chân
ngôn tông (Shingon), Thiên thai tông (Tendai) và Thiền tông (Zen).[42]
Chủ đích của thiên luận này là khảo sát xem Tâm kinh giữ
một địa vị quan trọng như thế nào trong giáo pháp của
Thiền tông. Do đó, cũng nên có một kiến thức khá về chính
bản kinh đó. Vì ngắn, nên dưới đây sẽ giới thiệu toàn
thể nguyên bản Sanskrit cùng với bản Hán dịch của Huyền
Trang, kèm theo là bản dịch Anh ngữ từ nguyên bản Sanskrit.
F.
Max Muller đã hiệu đính và ấn hành Tâm kinh Bát-nhã vào năm
1884, từ bản lá bối cổ lưu trữ ở Nhật.[43] Nhưng bản
dưới đây căn cứ trên bản Phạn Hán[44] của Huyền Trang
với một ít thay đổi dựa trên các bản Hán dịch khác. Huyền
Trang dịch Tâm kinh (Hṛdaya) ra chữ Hán vào năm 649, được
soạn tập vào ấn bản Đại tạng kinh Taishō, số hiệu 251,[45]
với bài tựa ngự chế của Vua nhà Minh. Nhưng bản này hình
như không được dịch từ bản Sanskrit của Huyền Trang, số
hiệu 256, vì cả hai không phù hợp nhau mấy.
TÂM
KINH LƯỢC BẢN: PHẠN VĂN
VÀ
CÁC BẢN HÁN DỊCH
1.
Bản Devanāgarī
(Essays
III 190)
2.
Bản phiên âm Latin
prajñāpāramitāhṛdayasūtram[46]
[
saṃkṣiptamātṛkā ]
//
namaḥ sarvajñāya //
āryāvalokiteśvarabodhisattvo
gambhīrāṃ[47] prajñāpāramitācaryāṃ[48] caramāṇo vyavalokayati
sma / pañca skandhāḥ, tāṃśca svabhāvaśūnyān paśyati sma //
iha
śāriputra rūpaṃ śūnyatā, śūnyataiva rūpam / rūpān na pṛthak
śūnyatā, śūnyatāyā na pṛthag rūpam / yad rūpaṃ sā śūnyatā,
yā śūnyatā tad rūpam //
evam
eva vedanāsaṃjñāsaṃskāravijñānāni //
iha
śāriputra sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā anutpannā aniruddhā
amalā na vimalā nonā na paripūrṇāḥ / tasmāc chāriputra śūnyatāyāṃ
na rūpam, na vedanā, na saṁjñā, na saṃskārāḥ, na vijñānāni
/ na cakṣuḥśrotraghrāṇajihvākāyamanāṃsi, na rūpaśabdagandharasaspraṣṭavyadharmāḥ
/ na cakṣurdhātur yāvan na manodhātuḥ //na vidyā nāvidyā na vidyākṣayo
nāvidyākṣayo yāvan na jarāmaraṇaṃ na jarāmaraṇakṣayo na
duḥkhasamudayanirodhamārgā na jñānaṃ na prāptir nābhisamayas
tasmād aprāptitvāt[49]//
boddhisattvasya[50]
prajñāpāramitām āśritya viharato’ cittāvaraṇaḥ[51] / cittāvaraṇanāstitvād
atrasto viparyāsātikrānto niṣṭhanirvāṇaḥ / tryadhvavyavasthitāḥ
sarvabuddhāḥ prajñāpāramitām āśritya anuttarāṃ samyaksaṃbodhim
abhisaṃbuddhāḥ
tasmāj
jñātavyaḥ prajñāpāramitā mahāmantro mahāvidyāmantro ‘nuttaramantro
‘samasamamantraḥ
sarvaduḥkhapraśamanaḥ
satyam amithyatvāt/ prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ / tadyathā
gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā //
iti
prajñāpāramitāhṛdayasūtraṃ samāptam
3.
Hán dịch của Huyền Trang
BÁT-NHÃ
BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
般若波羅蜜多心經
(Taishō
No 251)
唐三藏法師玄奘譯
觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識亦復如是。舍利子。是諸法空相。不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛故。說般若波羅蜜多咒即說咒曰
揭帝揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提僧莎訶
般若波羅蜜多心經
II.
BÁT-NHÃ TÂM KINH VIỆT DỊCH
1.
Việt dịch theo bản Anh của Suzuki[52]
Khi
(1) Bồ-tát Quán Tự tại (Avalokitésvara) thực hành tu tập
Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm,[53] trực nhận rằng, có năm uẩn
(skandha)(2); và thấy năm uẩn đó không có tự tính trong chúng(3).
“Này
Xá-lợi-phất (Śāriputra), sắc ở đây là không(4), không là
sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức
thị là không, không tức thị là sắc. Thọ, tưởng, hành
và thức cũng vậy.”
“Này
Xá-lợi-phất, hết thảy các pháp ở đây có đặc tướng
là không : chúng không sinh, không diệt; không cấu nhiễm, không
không cấu nhiễm; không tăng, không giảm. Vì vậy, này Xá-lợi-phất,
trong tính Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành,
thức(5), không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có
sắc(6), thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới(7),
cho đến(8) không có ý thức giới; không có minh, không có
vô minh(9), không có sự diệt tận của minh, không có sự diệt
tận vô minh[54] cho đến không có tuổi già và sự chết, không
có sự diệt tận của tuổi già và sự chết; không có khổ(10),tập,
diệt, đạo; không có trí, không có đắc, và không có chứng,++
bởi vì không có đắc.[55] Không có những chướng ngại+++
trong tâm của Bồ-tát an trụ do y chỉ trên Bát-nhã ba-la-mật;[56]
và bởi vì không có những chướng ngại trong tâm mình, Ngài
không có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo,
đạt đến Niết-bàn. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện
tại, và vị lai, do y trên Bát-nhã ba-la-mật, mà chứng đắc
giác ngộ viên mãn tối thượng.”
“Vì
vậy, nên biết Bát-nhã ba-la-mật là đại thần chú (mantra),
là chú của đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú
vô giá, có thể trừ diệt hết mọi khổ đau; đó là chân
lý vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong
kinh Bát-nhã ba-la-mật: gate, gate, pāragate, pārasaṅgate, bodhi,
svāhā!” (Này Bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến
bờ bên kia, Svāha!).
CHÚ
THÍCH (Suzuki)
(1)
Có hai bản kinh cùng nhan đề là Hṛdaya (Tâm kinh): một bản
được gọi là Lược bản, và bản khác được gọi là Quảng
bản. Bản dịch ở trên, của bản lược, thông dụng ở Trung
hoa và Nhật bản.
Đoạn
mở đầu của Quảng bản trong nguyên bản Phạn ngữ và Tạng
ngữ được tiết lược trong bản Lược như sau:
[Bản
Tạng ngữ có thêm một đoạn: “Kính lễ Bát-nhã ba-la-mật
vượt ngoài ngôn thuyết, tư tưởng và tán ngữ, vì tự tính
như hư không, không sinh, không diệt, là cảnh giới của huệ
và giới, hiển nhiên trong nội tâm chúng ta, và là mẹ của
hết thảy các đấng Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại và
vị lai.”] “Tôi nghe như vậy. Một thời, đức Thế Tôn
ngự tại thành Vương xá (Rājagṛha), trên đỉnh Linh thứu
(Gṛdhrakūta), cùng với đại chúng Tì khưu và Bồ-tát. Bấy
giờ đức Thế Tôn nhập vào tam-muội Chánh giác thậm thâm.[57]
Và cùng lúc đó Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại (Āryāvalokiteśvara)
đang thực hành tu tập trong Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.”[58]
Đoạn
kế tiếp, cũng tiết lược trong bản lược, như sau:
“Này
Xá-lợi-phất, như thế Bồ-tát phải tự mình thực hành trong
Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn rời
khỏi Tam muội và tán dương Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại
rằng: “Lành thay, lành thay, thiện nam tử! đúng như vậy!
Sự tu tập Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm cần phải được thực
hành như vậy. Đúng như lời ông đã giảng thuyết, các đức
Như Lai và [59] A-la-hán cũng tán dương như thế.” Đức Thế
Tôn hoan hỉ nói như thế. Trưởng lão Xá-lợi-phất và Đại
Bồ-tát Thánh Quán Tự tại cùng với toàn thể chúng hội,
và thế giới của chư Thiên, loài người, A-tu-la (Asura) và
Càn-thát-bà (Gandharva), tất cả đều ca ngợi lời của đức
Thế Tôn.”
(2)
Nhìn từ quan điểm khoa học hiện đại, khái niệm về Skandha
(uẩn) có vẻ quá mơ hồ và bất định. Nhưng chúng ta phải
nhớ rằng nguyên tắc phân tích của đạo Phật không phát
xuất từ hứng thú khoa học suông; nó có mục đích giải
cứu chúng ta ra khỏi ý tưởng về một thực tại cá biệt
với ảo tưởng là nó hiện hữu như thế suốt mọi thời.
Vì khi ý tưởng này được nhận làm cứu cánh, thì vướng
mắc phải cái sai lầm của sự chấp trước,và chính do chấp
trước đó đã từng bắt chúng ta làm tôi mọi cho bạo lực
ngoại giới. Năm uẩn (skandha) (các tập hợp thể, hay các
yếu tố) là: sắc chất (rūpa), cảm thọ hay tri giác giác
quan (vedanā), suy tưởng (saṁjñā), tập thành hay sự tác thành
(saṁskāra), và thức (vijñāna). Uẩn thứ nhất là thế giới
vật chất hay chất thể của mọi vật; bốn uẩn còn là thuộc
về tâm giới. Vedanā xuất hiện qua các quan năng của chúng
ta; saṁjñā, suy tưởng hay tư duy (thought) theo nghĩa rộng nhất,
không có từ ngữ tương xứng ở Anh ngữ; hay nó là cái mà
tâm phức biến; saṁskāra là một từ rất khó, không có tương
đương trong Anh ngữ; nó chỉ cho cái tạo nên hình chất, là
nguyên lý tạo hình; vijñāna là thức hay tâm thái. Có những
hình thái của tâm thái khá rõ như thấy, nghe, ngửi, nếm,
xúc chạm, và nghĩ tưởng.
(3)
Bản dịch của Huyền Trang có thêm: “(Vị ấy) thoát khỏi
tất cả khổ ách 度一切苦厄.”
(4)
Không (śūnya) hay “tính Không” (śūnyatā) là một trong những
khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa và đồng
thời cũng gây nhiều rắc rối khó hiểu nhất cho những độc
giả ngoài đạo Phật. Tính Không không có nghĩa là “tương
đối tính“ (relativity) hay “hiện tượng tính“ (phenomenality),
hay “cái không chi.” (nothingness). Nó chỉ cho Tuyệt đối
thể, hay cái gì có bản tính siêu việt, dù nói thế cũng
dẫn đến sai lầm như chúng ta sẽ thấy ở sau. Khi các nhà
Phật học tuyên bố hết thảy mọi vật đều Không, họ không
xướng xuất một quan điểm hư vô luận; ngược lại nó hàm
ngụ một thực tại tối hậu, vốn không thể đặt dưới
các phạm trù luận lý. Với các phạm trù đó, nếu nói đến
tính cách hữu vi của vạn hữu thì cũng nói luôn hiện hữu
của cái hoàn toàn vô vi siêu việt tất cả mọi xác định.
Śūnyatā như thế thông thường cũng được diễn dịch rất
chính xác là Tuyệt đối thể. Khi kinh nói rằng năm uẩn có
đặc tướng (yếu tính) là Không (Không tướng), hay trong tính
Không, không có sinh và diệt, không có nhiễm, tịnh, v.v…,
thì có nghĩa rằng: đừng có gán cho Tuyệt đối thể những
phẩm tính quyết định; trong khi nó tiềm tại trong tất cả
mọi vật thể cụ thể và cá biệt, nó hoàn toàn không thể
định tính. Do đó, phủ định toàn diện trong triết lý Bát-nhã
là một hệ quả tất yếu.
(5)
“Không có mắt, tai, v.v…” chỉ cho sáu quan năng. Trong triết
học Phật giáo, ý thức (manovijñāna) là quan năng đặc biệt
để tri nhận các pháp (dharma) hay các đối tượng của tư
tưởng.
(6)
“Không có sắc, thanh. v.v…” là sáu phẩm chất của ngoại
giới, chúng làm đối tượng cho sáu quan năng.
(7)
“Nhãn giới v.v…,” chỉ cho mười tám giới (dhātu) hay các
yếu tố của hiện hữu, chúng gồm sáu giác năng (indriya:
căn), sáu phẩm tính (viṣaya: cảnh) và sáu thức (vijñāna).
(8)
“Cho đến” (Skt: yāvat; Hán: nãi chí 乃至), rất thông dụng
trong văn học Phật giáo dùng để tránh lặp lại những đề
tài đã biết. Những lối phân loại này hơi có vẻ phức
tạp và chồng chéo.
(9)
“Không có minh, không có vô minh…” là phủ định toàn bộ
12 chi duyên khởi (pratītyasamutpāda), gồm vô minh (avidyā), hành
(saṁskāra), thức (vijñāna), danh sắc (nāma-rūpa), sáu xứ
(ṣaḍāyatana), ái (tṛṣṇā), thủ (upādāna), hữu (bhava),
sinh (jāti), già và chết (jarāmaraṇa). 12 chi duyên khởi này
đã được các học giả đạo Phật thảo luận rất nhiều.
(10)
Đương nhiên ám chỉ bốn Thánh đế (satya): 1. Đời sống
là đau khổ (duḥkha); 2. Do sự tích tập (samudaya) của các
nghiệp xấu; 3. Có thể diệt tận nguyên nhân của khổ (nirodha);
4. Có con đường (mārga) dẫn tới diệt nguyên nhân của khổ.
2.
Việt dịch theo bản Hán của Huyền Trang
A.
Phiên âm Hán-Việt
Quán
Tự tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu
kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-lợi
Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc, sắc tức thị
Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc
phục như thị.
Xá-lợi
Tử, thị chư pháp Không tướng bất sinh, bất diệt, bất
cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm; thị cố Không trung
vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới
nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận,
nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt,
đạo; vô trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố. Bồ-đề-tát-đỏa
y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại
cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng,
cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa
cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Cố
tri Bát-nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh
chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ
nhất thiết khổ, chân thật, bất hư cố; thuyết Bát-nhã
ba-la-mật-đa. Tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế,
ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, Bồ đề, tăng sa-ha.
B.
Việt dịch[60]
Bồ-tát
Quán Tự tại trong khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm
thâm, soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả mọi
khổ ách.
Xá-lợi
Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc. Thọ, tưởng,
hành, thức cũng vậy. Xá-lợi Tử, đặc tướng Không của
các pháp ấy không sinh,[61] không diệt, không cấu, không tịnh,
không tăng, không giảm; do đó, trong Không không có sắc, thọ,
tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới
của con mắt, cho đến không có giới của ý thức; không có
vô minh, cũng không có sự diệt tận của vô minh, cho đến,
không có già và chết, cũng không có sự diệt tận của già
và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng
không có đắc. Vì vô sở đắc.
Bồ-đề-tát-đỏa,
do y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không bị bưng kín. Do không
bị bưng kín, nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả điên
đảo và mộng tưởng, đạt đến Niết-bàn cứu cánh. Chư
Phật trong ba đời do y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng
đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Do
đó nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là thần chú vĩ đại,
là minh chú vĩ đại, là chú vô thượng, là chú không gì có
thể so sánh, diệt trừ tất cả khổ, chân thật, vì không
hư dối, được gọi là chú Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Tức thuyết
chú rằng: yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế,
bồ-đề, tăng sa-bà-ha.
*
Các chú thích một phần do chính tác giả; một số khác là
tham chiếu của dịch giả. Những chú thích tham chiếu này
đều có ghi TS.
[42]
Nhật bản, kinh được gọi là Hannya Shingyô 般若心經 hay
nói gọn là Shingyô 心經. Tại một thiền viện, kinh được
tụng trong mọi thời. Có nhiều bản chú giải và các thiền
sư thường cho một khóa giảng về kinh này.
[43]
Thủ bản lưu trữ từ năm 609 tại chùa Hôryoji (法隆寺 Pháp
long tự), Yamato, một trong những ngôi chùa tối cổ ở Nhật.
Nó khá hấp dẫn về mặt khảo cổ vì cung cấp chúng ta “dạng
bản tối cổ của mẫu tự Sanskrit được dùng cho các mục
đích văn học.” Người ta nói thủ bản này được Bồ-đề
đạt-ma mang vào Trung hoa, rồi sau đó tới Nhật bản.
[44]
Bản Phạn-Hán, có nghĩa là bản phiên âm từ tiếng Sankrit
sang tiếng Trung hoa, ấn hành trong Đại tạng Taishô, tập VIII,
số hiệu 256: Đường Phạn phiên đối tự âm Bát-nhã ba-la-mật-đa
tâm kinh 唐梵翻對字音般 若波羅蜜多心經, Quán Tự tại
Bồ tát trực tiếp truyền cho Tam tạng Pháp sư Huyền Trang
bản Phạn không nhuận sắc. TS
[45]
T8n251, tr. 848c4 Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh 般若波羅蜜多心經,
Đường Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch 唐三藏法師玄奘譯.
)
[46]
Phiên âm theo bản Devanāgari của Suzuki, tham chiếu Mahāyāna-sūtra-saṁgraha,
ed. By Vaidya, The Mithila Institute, 1961, p.97.
[47]
Vaidya: gambjīrāyāṃ. TS
[48]
Vaidya: prajñāpāramitāyāṃ caryāṃ. TS
[49]
Vaidya: na jñānaṁ na prāptitvam. TS
[50]
Vaidya: bodhisattvasya(śca?). TS
[51]
Vaidya: viharati cittāvaraṇaḥ. TS
[52]
Bản Việt này cố gắng dịch sát theo bản Anh làm cơ sở
tham chiếu cho các bản Hán dịch. Các chú thích trong phần
cước chú là của người dịch được đánh dấu hoa Ả-rập
(không ngoặc). Một số cước chú của tác giả (Suzuki) được
đánh dấu thập (+). Chú thích của tác giả (Suzuki) được
được đánh số Ả-rập trong ngoặc đơn ghi ở cuối bản
dịch Việt này.
+ Có
hai điểm đáng lưu ý trong đoạn dịch này: 1) Bản Hán của
Huyền Trang: chiếu kiến ngũ uẩn giai không 照見五蘊皆空;
bản Hán của Cưu-ma-la-thập: chiếu kiến ngũ ấm không 照見五陰空;
khác với lối nói: soi thấy có năm uẩn (ấm) rồi mới thấy
tự tánh của chúng là không. 2) Cả hai bản Hán vừa dẫn
đều có câu: vượt qua mọi khổ ách 度一切苦厄, tức nói
tới hiệu lực của Bát-nhã. Bản Sanskrit hiện hành và bản
phiên âm Taishô VIII, No 256 đều không có câu này. TS