|
.
CHÁNH PHÁP
NHÃN TẠNG - Shōbōgenzō
Thiền
Sư Đạo Nguyên, Sơ tổ Thiền Tào Động Nhật Bản
Thomas
Cleary dịch University of Hawaii Press Bản in năm 1991 - Nguyễn
An Cư Việt dịch
Nhà
Xuất Bản: Thiện Tri Thức, 2003
|
|
Đại Trí
Huệ Siêu Việt
(Makahannyaharamitsu)
Chủ
đề của tiểu luận này, mahaprajđaparamita (đại trí huệ
ba la mật) trong tiếng Sanskrit, là tiêu đề tổng quát và vấn
đề căn bản của một nhóm kinh điển Phật giáo, và là một
trong những vấn đề quan trọng nhất của Phật giáo. Tiếng
Sanskrit maha nghĩa là lớn, cho ta ý niệm về tính phổ quát.
Prajđa, thường dịch là “trí huệ”, có thể dịch thành
hiểu biết triệt để ; nó thường được diễn tả như hiểu
biết về bản tánh chân thật của những sự vật, như “trống
không” hay không có hiện hữu độc lập, tuyệt đối. Paramita
nghĩa là “đến bờ bên kia” hay “đến cái tối hậu”,
và có nghĩa siêu việt khỏi những giới hạn thế gian, “bờ
bên kia” cái chỉ sự giải thoát của tâm thức.
Như
thế “đại trí huệ siêu việt” như chúng ta đọc ở đây,
có nghĩa là siêu việt do hiểu biết phổ quát và triệt để.
Luận về Đại Trí Huệ Siêu Việt (Luận Đại Trí Độ),
một công trình nổi tiếng về giáo lý này, nói : “Tất cả
mọi sự đều tùy thuộc vào những nguyên nhân và những điều
kiện, không có cái nào độc lập… Tất cả đều sanh từ
những nguyên nhân và những điều kiện, bởi vì vậy chúng
không có tự tánh. Vì không có tự tánh, chúng rốt ráo trống
không. Không bám chấp chúng vì chúng rốt ráo trống không
thì gọi là trí huệ viêu việt.”
Từ
đây có thể nói rằng hiểu biết “tánh Không” là hiểu
biết về tính điều kiện : tánh Không, sự không có độc
lập hay tự thể của các sự vật tùy thuộc điều kiện,
thì không lìa khỏi cái thuộc về điều kiện. Sự thật này
bao gồm mọi sự, dù cụ thể hay trừu tượng, thậm chí những
khoản của giáo lý Phật giáo. Từ đó trí huệ siêu việt
là cái nhờ đó mà thế giới, kể cả những giáo thuyết
và phương tiện của Phật giáo, được siêu việt, đến độ
không có sự bám níu vào bất cứ cái gì. Theo triết học
Phật giáo, bám níu là khởi nguyên của mê lầm, dù là bám
níu vào cái “phàm tục” hay cái “thiêng liêng”. Bởi thế
chứng ngộ tính tương đối của mọi sự là cốt lõi của
tự do và giác ngộ như Phật giáo Đại thừa đề nghị.
Tuy
nhiên, nếu chính vì tính tương đối hay tính điều kiện
mà mọi vật là “trống không”, thì cũng đúng là do chính
tính điều kiện này mà chúng hiện hữu một cách tùy thuộc
lẫn nhau. Khuynh hướng giải thích sai “tánh Không” một
cách hư vô, hoặc do hiểu lầm theo trí thức hay do những trạng
thái tập trung và quán chiếu sai lầm, được biết và đề
cập nhiều trong các bản văn Thiền, nơi có lẽ do quá nhấn
mạnh vào sự tập trung hình như là một vấn đề chung. Một
sự đọc kỹ Chánh Pháp Nhãn Tạng của Đạo Nguyên cho thấy
sự sửa chữa hay ngăn ngừa khuynh hướng giải thích mang tính
chất hư vô về tánh Không là một quan tâm chánh của Đạo
Nguyên. Trong tiểu luận này, Đạo Nguyên đồng hóa chính những
hiện tượng với trí huệ siêu việt, nhấn mạnh rằng trong
cái gọi là Không hay tánh Không, mọi sự vật được tìm
thấy, kể cả những phương tiện của những giáo lý Phật
giáo.
Hình
ảnh Đạo Nguyên dùng cho sự chứng đắc trí huệ là hư không
hay không gian. Như Đạo Nguyên nói, “Học trí huệ là hư
không, hư không là học trí huệ.” Như một ẩn dụ thông
thường của Thiền để chỉ cái tâm rỗng rang, hư không được
nói là chứa đựng mọi sự mà không dính dáng gì với chúng.
Như thế, tâm như hư không được phân biệt với cái tâm
trong hư không, cái trước là sự rỗng rang không lấy không
bỏ như Thiền thuyết giảng, cái sau là một trạng thái tập
trung, thường được những người chỉ riêng tìm yên tĩnh
và xa lìa thực hành. Ở đây Đạo Nguyên trình bày con đường
“trung đạo” trong đó tánh Không và sự hiện hữu của
mọi sự vật được chứng ngộ đồng thời. Đó chính là
điểm trung tâm, sự quân bình của Phật giáo Đại thừa.
Phần
lớn tiểu luận gồm những trích ra từ kinh, và có một số
từ chuyên môn. Không bắt buộc biết chính xác những từ
ấy ám chỉ cái gì mới hiểu được tinh túy của thông điệp,
vì chúng ám chỉ những giáo thuyết, những thực hành và diễn
tả của Phật giáo như là một phần của toàn thể hiện
tượng mà tất cả chúng hiện hữu nhưng trống không, trống
không nhưng hiện hữu. Để thuận tiện, những định nghĩa
được cung cấp trong một bảng thuật ngữ thêm sau tiểu luận.
Đại
Trí Huệ Siêu Việt
Khi
bậc Quán Tự Tại thực hành trí huệ siêu việt sâu xa thì
thấy rõ năm uẩn đều Không. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng,
hành và thức. Chúng là năm lớp của trí huệ. Thấy rõ là
trí huệ.
Khi
trình bày và biểu lộ rõ ràng thông điệp căn bản này, chúng
ta nói sắc tức là Không, Không tức là sắc, sắc là sắc,
Không là Không. Đó là trăm ngọn cỏ, đó là vô số sắc.
Mười
hai lớp trí huệ là mười hai xứ (sáu căn và sáu trần).
Cũng có trí huệ mười tám lớp – mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (mười hai xứ)
và sáu thức sanh ra giữa chúng. Cũng có trí huệ bốn lớp,
là khổ, tập, diệt, đạo. Cũng có trí huệ sáu lớp, đó
là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định
và trí huệ. Cũng có trí huệ một lớp, nó rỡ ràng rành
mạch trong hiện tại tức thời, nó là giác ngộ viên mãn
không gì sánh được. Cũng có ba lớp của trí huệ, đó là
quá khứ, hiện tại và vị lai. Cũng có sáu lớp của trí
huệ, đó là đất, nước, lửa, gió, hư không và thức. Cũng
vậy, trí huệ bốn lớp thường trực hiện hành – đó là
đi, đứng, ngồi và nằm.
Trong
hội của Phật Thích Ca Mâu Ni có một nhà sư nghĩ thầm, “Tôi
phải kính lễ trí huệ siêu việt sâu xa nhất. Dù trong đây
không có sự sanh và diệt của những hiện tượng, nhưng có
diệu dụng của năm phần pháp thân là giới, định, huệ,
giải thoát, giải thoát tri kiến. Cũng có diệu dụng của
Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai và quả A La Hán. Cũng
có diệu dụng của tự giác ngộ và những chúng sanh đang
giác ngộ. Cũng có diệu dụng của giác ngộ vô thượng. Cũng
có diệu dụng Phật, Pháp và Tăng. Cũng có diệu dụng chuyển
bánh xe Pháp cao cả và giải thoát cho chúng sanh.” Đức Phật,
biết điều nhà sư ấy nghĩ, nói với ông rằng, “Như vậy
đó, như vậy đó. Trí huệ siêu việt sâu xa nhất là cực
kỳ vi diệu và khó dò.”
Ngay
trong sự tự mình nghĩ đến của nhà sư, khi đó tất cả
mọi hiện tượng đều được tôn trọng, trí huệ vẫn không
có sanh không có diệt đang được kính lễ. Chính ngay lúc
kính lễ chúng, theo đó trí huệ với những diệu dụng trở
thành hiển lộ : đó là giới, định, huệ v.v… cho đến
giải thoát chúng sanh. Cái này được gọi là Không. Những
công dụng của Không là diệu theo cách này. Đây là trí huệ
siêu việt sâu xa nhất, cực kỳ vi diệu và khó dò.
Vua
của loài trời hỏi tôn giả Tu Bồ Đề, “Thưa Tôn Giả,
nếu các đại Bồ tát muốn học trí huệ siêu việt sâu xa
nhất, các vị nên học thế nào ?” Tu Bồ Đề trả lời,
“Nếu các đại Bồ tát muốn học trí huệ siêu việt sâu
xa nhất, các vị nên học nó giống như hư không.”
Thế
nên học trí huệ là hư không, hư không là học trí huệ.
Vua
của loài trời lại thưa với Phật, “Thưa Thế Tôn, nếu
thiện nam thiện nữ nào chấp nhận và hộ trì trí huệ siêu
việt sâu xa nhất này mà ngài đã giải thích, lập lại nó,
tư duy chân thật về nó, và giảng nói cho những người khác,
con sẽ bảo vệ họ thế nào ?” Bấy giờ Tu Bồ Đề nói
với vua của loài trời, “Ngài thấy có cái gì để bảo
vệ ?” Vua trời nói, “Nếu thiện nam thiện nữ sống tương
ưng với trí huệ siêu việt sâu xa nhất như họ đã được
dạy, đó là sự bảo vệ. Nếu thiện nam thiện nữ an trụ
trong trí huệ siêu việt sâu xa nhất như được dạy ở đây,
và không bao giờ lìa khỏi nó, thì không có loài người hay
loài chẳng phải người nào có thể tìm cách gì để làm
hại họ. Nếu ngài muốn bảo vệ những Bồ tát sống trong
trí huệ siêu việt sâu xa nhất như đã được dạy, điều
này không khác gì muốn bảo vệ hư không.”
Chúng
ta cần biết rằng nhận lấy, hộ trì, đọc tụng và tư duy
chân thật không gì khác hơn bảo vệ trí huệ. Muốn bảo
vệ là nhận lấy và hộ trì và đọc tụng v.v…
Vị
thầy quá cố của tôi đã nói, “Toàn thân thì giống như
một cái miệng treo giữa hư không ; bất kể gió đông, tây,
nam hay bắc, nó đều nói với những người khác về trí huệ.
Từng giọt từng giọt đóng băng.” Đây là nói về trí huệ
của dòng chư Phật chư Tổ. Nó là trí huệ toàn thân, trí
huệ toàn tha, trí huệ toàn tự, trí huệ toàn đông tây nam
bắc.
Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni nói, “Xá Lợi Phất, chúng sanh nên an
trụ trong trí huệ siêu việt này như chư Phật an trụ. Họ
nên cúng dường, kính lễ, và tham thiền trí huệ siêu việt
như họ cúng dường và kính lễ đức Phật. Tại sao ? Bởi
vì trí huệ siêu việt không khác với Phật, Phật không khác
với trí huệ siêu việt. Trí huệ siêu việt là Phật, Phật
là trí huệ siêu việt. Tại sao ? Chính bởi vì những bậc
chứng ngộ tánh như, những bậc xứng đáng, đã giác ngộ
hoàn toàn, có xuất hiện là nhờ trí huệ siêu việt. Chính
bởi vì tất cả chư đại Bồ tát, chư Độc Giác, chư A La
Hán, Bất Lai, Nhất Lai, Nhập Lưu v.v… có xuất hiện là nhờ
trí huệ siêu việt. Chính bởi vì mọi hành động đức hạnh
trong thế gian, bốn thiền, bốn định vô sắc, và năm lực
đều xuất hiện là nhờ trí huệ siêu việt.”
Thế
nên, đức Phật bậc Thế Tôn là trí huệ siêu việt. Trí
huệ siêu việt là tất cả mọi sự. “Tất cả mọi sự”
này là những tướng (những tính chất) của tánh Không, không
sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm.
Sự biểu lộ của trí huệ siêu việt này là sự biểu lộ
của Phật. Người ta cần thăm dò nó, truy cứu nó, tôn vinh
và đảnh lễ nó. Đây là thân cận và hầu hạ Phật, nó
là Phật để thân cận và hầu hạ.
Thuật
Ngữ
Những
chúng sanh đang giác ngộ : ám chỉ những bồ tát, người hướng
đến giác ngộ vì tất cả.
Vấn đề
(công án) trước mắt
(Genjōkōan,
Hiện Thành Công Án)
Từ
genjōkōan hình như xuất hiện lần đầu vào thế kỷ thứ
chín ở Trung Hoa và thường được dùng trong Thiền Tào Động
Nhật Bản để ám chỉ cái hiện tiền như là chủ đề thiền
định hay vấn đề của Thiền. Gen (hiện) nghĩa là “biểu
lộ” hay “hiện tại”, jo (thành) nghĩa là trở thành. Genjo
là thực tại, thực tế – đang là một cách trực tiếp,
hay đã hoàn thành, như một sự kiện đã hoàn thành. Kōan
(công án) là một chữ thông thường của Thiền, thường để
nguyên không dịch, ở mức độ nào đó trở thành một chữ
tiếng Anh tự nhiên. Kō nghĩa là chính thức, công khai hay mở
ra, ngược với riêng tư hay cá nhân ; an là một sự xem xét,
hay một quyết định đã xem xét. Một công án (kōan) trong
văn Trung Hoa nghĩa là một báo cáo chính thức hay một vấn
đề cần xem xét. Từ này được dùng trong Thiền với những
nghĩa tương tự, chỉ đặt nó vào khuôn khổ của truyền
thống và kinh nghiệm của Thiền.
Genjōkōan
là một trong những tiểu luận được biết và trích dẫn
nhiều nhất của Chánh Pháp Nhãn Tạng. Viết cho một cư sĩ,
nó chứa đựng một số điểm then chốt theo một cách súc
tích. Ngay đoạn đầu nó đã chứa đựng một phác thảo trọn
vẹn về Thiền, trong một trình bày không công khai cái gọi
là ngũ vị (go i) của Thiền Tào Động Trung Hoa. Hệ thống
sắp xếp “ngũ vị quân thần” – tương đối trong tuyệt
đối, tuyệt đối trong tương đối, đến trong cái tuyệt
đối, đến trong cái tương đối, và đồng thời đạt đến
cả hai tương đối và tuyệt đối – được dùng một cách
không công khai trong tác phẩm của Đạo Nguyên, có lẽ bởi
vì sự dễ lầm lộn chung quanh nó, nhưng cấu trúc của nó
được tìm thấy khắp Chánh Pháp Nhãn Tạng.
Sau
phần dẫn nhập tóm tắt này, tiểu luận tiến hành bàn luận
về giác ngộ. Đạo Nguyên nói rằng con đường đến giác
ngộ là quên đi bản ngã. Cái ngã theo nghĩa này là một sự
tích tập những thói quen, bao gồm thói quen bám luyến vào
sự tích tập này như là một nhân cách đích thật. Đạo
Nguyên gọi sự quên đi này là “rơi rụng mất thân tâm”,
một thành ngữ đã ghi khắc vào tâm thức ngài khi còn trẻ
và ngài dùng trở đi trở lại để diễn tả việc học Thiền.
Những nhà bình giảng về những bài thuyết pháp của Đạo
Nguyên diễn tả nó trong những câu : “Mỗi khoảnh khắc của
thời gian là không có tư tưởng (vô niệm) ; những sự vật
không gây ra một tư tưởng thứ hai”, và “Đây là lúc toàn
thể tâm và thân đạt đến đại giải thoát”.
Tuy
nhiên, đây không phải là toàn bộ vấn đề. Trong một bài
thuyết pháp Đạo Nguyên nói rằng “rơi rụng thân tâm”
là sự bắt đầu của nỗ lực, và trong Genjōkōan ngài khẳng
định rằng có tiến bộ tiếp tục trong Phật quả, vượt
qua sự chứng đắc ngộ : “Những dấu hiệu của ngộ có
dừng dứt, điều này khiến người ta luôn luôn lìa bỏ những
dấu hiệu của ngộ, giác ngộ là tịch diệt.” Trong kinh
Pháp Hoa, đức Phật nói với những đệ tử giải thoát của
ngài rằng niết bàn, sự diệt dứt những thói quen phiền
não, đã được giới thiệu theo cách phương tiện như là
mục đích, chỉ là một chỗ nghỉ ngơi trên con đường vô
cùng.
Trong
tiểu luận Sự Tiến Bộ của Phật sự, cũng trong Chánh Pháp
Nhãn Tạng, Đạo Nguyên viết, “Tiếp tục thấm nhuần Phật
của hôm nay thì không chỉ là việc của hôm nay, đó gọi
là sự tiến bộ của công việc Phật (Phật sự).” Thiền
sư nổi tiếng Bạch Ẩn nói, “Không có trau dồi và thực
hành sau ngộ, nhiều người đã thấy tánh bị lỡ đò.”
Và vị phụ tá của Bạch Ẩn, Tōrei nói, “Ngộ kém hóa ra
là chướng ngại cho đại ngộ. Nếu ông vất bỏ những tiểu
ngộ và không bám níu vào chúng, đại ngộ chắc chắn sẽ
được chứng.” Đạo Nguyên nói rằng có những khác biệt
về chiều sâu và chiều rộng trong chứng ngộ, và ở đây
nói về ngộ như là được ngộ bởi tất cả mọi sự. Điều
này dẫn đến vấn đề (công án) viễn cảnh.
Đạo
Nguyên nhận định rằng mê lầm là việc kinh nghiệm những
sự vật với gánh nặng của bản ngã – mớ những thói quen
tâm thức, những quan điểm thâm căn cố đế, được đồng
hóa thành bản ngã. Đây là một chủ đề căn bản của tất
cả tư tưởng Phật giáo. Tình trạng của cái ngã, với tập
hợp những tri giác và quan điểm bị điều kiện hóa của
nó, được ngấm ngầm xem là một điểm quy chiếu tuyệt đối
hay đích thật, nếu người ta cho kinh nghiệm đã được quan
niệm của mình là thực tại. Để vượt qua thành kiến được
che dấu trong hình thức những quan điểm không hề được
tra vấn, Đạo Nguyên nói rằng nội quan, soi chiếu trở lại,
là điều cần thiết để thấy rằng những sự vật không
có cá tính tuyệt đối, rằng chúng không nhất thiết hay hoàn
toàn như người ta thấy chúng.
Nhưng
Đạo Nguyên tiếp tục chỉ ra tính tuyệt đối, có thể nói
như vậy, của cá tính tương đối. Một cách luận lý, nếu
những sự vật riêng biệt hiện hữu, hay được định nghĩa,
tùy thuộc, nương dựa lẫn nhau và do đó không có cá tính
tuyệt đối, thì tính không có cá tính tuyệt đối này vẫn
nương dựa vào tính tương đối của chúng. Tuy nhiên sự tiếp
cận của Đạo Nguyên không phải là sự tiếp cận diễn dịch
mà là thể nghiệm trực tiếp (genryō, hiện lượng), điều
này ngài ám chỉ, trong thuật ngữ cổ điển của Thiền, như
là những lãnh vực của trước và sau không nối kết, không
tương tục. Như vậy Đạo Nguyên giải thích thuật ngữ truyền
thống “tướng Không” không sanh không diệt như là sự không
cùng-hiện-hữu của trước và sau, hay sự không đồng nhất
của một trạng thái với sự không hiện hữu của chính nó.
Sự nhấn mạnh của Đạo Nguyên ở đây có vẻ không phải
trên một cái hiểu diễn dịch của quan điểm luận lý này,
mà trên sự hiện diện của tâm trong ý nghĩa thông suốt nhất,
kinh nghiệm trực tiếp về hiện tại.
Đạo
Nguyên cũng nói đến ngộ như là cái hiện thể phổ quát,
“vũ trụ”, phản chiếu vào cá nhân ; tuy nhiên sự “hòa
lẫn” của vũ trụ và cá nhân không xóa sạch cá nhân hay
làm giới hạn cái phổ quát. Điều này dẫn đến vẻ nghịch
lý bề ngoài của đời sống vừa là hữu hạn vừa là vô
hạn cùng một lúc. Một đời sống hay một trường của kinh
nghiệm, chứa đựng mọi sự nằm trong nó và không có cái
gì vượt ra ngoài nó. Vào mỗi khoảnh khắc chúng ta đạt
đến, hay hiện diện nơi, mức độ trọn vẹn của kinh nghiệm
của chúng ta ; và tuy nhiên điều này không hề giới hạn
tiềm năng của bản thân kinh nghiệm. Mỗi khoảnh khắc là
trọn đủ, do đó là vô hạn tự chính nó, dù nó là hữu
hạn với tư cách là một điểm khi so với quá khứ hay tương
lai. Trong triết lý Hoa Nghiêm, sự tương dung vô ngại này của
hữu hạn và vô hạn được thể hiện bằng “đến trong
một nhịp”, mỗi khoảnh khắc của tỉnh giác là điểm tập
trung của toàn bộ liên kết của hiện hữu. Đạo Nguyên lại
nhắm vào kinh nghiệm trọn vẹn của hiện tại mà không phác
họa nó một cách ý niệm.
Cuối
cùng Đạo Nguyên trích một câu chuyện Thiền ám chỉ đến
sự cần thiết của thực hành cho dù chân lý, hay giác ngộ,
là vốn có sẵn nơi mỗi người. Một nhà sư hỏi thầy mình
tại sao ngài dùng quạt nếu bản tánh của gió là toàn khắp
và vĩnh cửu ; vị thầy trả lời rằng học trò biết bản
tánh của vĩnh cửu mà không biết nguyên lý của toàn khắp,
và để làm rõ nguyên lý này vị thầy liền tự quạt cho
mình. Như một triết gia Hoa Nghiêm nói, “Nếu không nhờ thực
hành lưu xuất từ thực tại, không có phương cách để thể
nhập thực tại.”
Vấn
đề trước mắt
Khi
tất cả mọi sự là giáo pháp của Phật, bấy giờ có mê
có ngộ, có tu hành, có sanh, có tử, có chư Phật, có chúng
sanh. Khi vô số sự vật đều không có ngã, thì không có mê,
không có ngộ, không chư Phật, không chúng sanh, không sanh,
không tử. Bởi vì nếu Phật đạo mà phát xuất từ nhiều
và ít, thì có sanh và tử, mê và ngộ, chúng sanh và chư Phật.
Lại nữa, dù như vậy, hoa rơi khi chúng ta bám nắm chúng,
và cỏ chỉ mọc khi chúng ta không thích chúng.
Đáp
ứng và thể nghiệm vô số sự vật với gánh nặng của chính
mình là “mê lầm”. Chính mình đáp ứng và thể nghiệm
giữa sự xảy ra của vô số sự vật là giác ngộ. Đại
ngộ về mê lầm là chư Phật ; đại mê về giác ngộ là
chúng sanh. Cũng có người ngộ trong ngộ và có những người
mê trong mê. Khi chư Phật thực là chư Phật, không cần tự
biết là chư Phật ; tuy nhiên đó là Phật quả đang thành
– chư Phật đang thành.
Thấy
sắc với toàn thể thân tâm, nghe tiếng với toàn thể thân
tâm, dù người ta hiểu một cách thân thiết, việc ấy vẫn
không giống như những hình ảnh phản chiếu trong một mặt
gương, nó vẫn không giống như mặt trăng trong nước – khi
bạn thể nghiệm một mặt, mặt kia tối ám.
Học
Phật đạo là học chính mình. Học chính mình là học quên
chính mình. Quên chính mình thì ngộ bởi tất cả các pháp.
Ngộ bởi tất cả các pháp thì thân tâm của chính mình và
thân tâm của những người khác rơi rụng mất. Những dấu
hiệu của ngộ có dừng dứt, điều này khiến người ta luôn
luôn lìa bỏ những dấu hiệu của ngộ, giác ngộ là tịch
diệt. |