Phần
4
Hỏi:
Khi
lâm chung thì tứ đại tan rã rất đau đớn, niệm Phật thấy
dễ hơn tham thiền. Xin thầy cho biết ý kiến?
Đáp:
Quyết
định được vãng sanh hay không là do đại nguyện, thực hành
đại nguyện của mình phát; nếu không đúng theo đại nguyện
của mình phát, đừng nói lâm chung mười niệm được vãng
sanh, lúc lâm chung được muôn ngàn niệm cho đến nhứt tâm
bất loạn cũng không được vãng sanh. Đúng theo tông chỉ
Tịnh độ thì một niệm cũng được vãng sanh hay khỏi niệm
cũng được vãng sanh.
Tu
pháp môn nào phải đúng theo tông chỉ của pháp môn đó, tu
Tịnh độ đúng theo tông chỉ Tịnh độ, tham Tổ sư thiền
phải đúng theo tông chỉ của Tổ sư thiền, tu chỉ quán phải
đúng tông chỉ của tông Thiên thai, tu Duy thức phải
đúng theo tông chỉ của tông Duy thức. Nếu tu bậy bạ muốn
lấy niệm Phật cho là chắc chắn, đó là lừa gạt người,
bởi vì không đúng. Mình phát nguyện giả là ký ngân phiếu
giả, chỉ có tội làm sao có công đức để vãng sanh! Đó
không phải do niệm Phật hay là không niệm Phật.
Tham
thiền là gieo chánh nhân được chánh quả, kiếp sau phải
được tiếp tục, vì nhân quả không sai.
(chuyện
hạt châu của Thái hậu…trang 153)
Hỏi:
Chúng
con thấy pháp môn Tổ sư thiền và Tịnh độ đều rất khó.
Vậy có nên tu Tứ diệu đế đắc quả A la hán, sau đó tiếp
tục tu Tổ sư thiền để kiến tánh không?
Đáp:
Tứ
diệu đế ở trong 37 phẩm trợ đạo của Tiểu thừa, pháp
tu của Tiểu thừa là Ngũ đình tâm quán, có 5 thứ quán để
đình chỉ tâm (ngưng tâm hoạt động). Năm thứ quán đó là:
Sổ tức quán, Bất tịnh quán, Nhân duyên quán, Từ bi quán,
Lục thức quán. Nhiều người tu Sổ tức quán là đếm hơi
thở, có người đếm hít vô, có người đếm thở ra, đếm
từ một đến mười, rồi từ mười trở lại một để tập
trung tinh thần một chỗ làm cho tâm ngưng nghĩ hoạt động,
nhưng phải có 37 phẩm trợ đạo.
Tứ
diệu đế gồm có: khổ, tập, diệt, đạo. Cuộc sống hằng
ngày đều có khổ, có 4 thứ khổ (sanh, lão, bệnh, tử), tám
thứ khổ cho đến 84.000 thứ khổ. Phải biết khổ đó từ
đâu mà có? Là do tập tích chứa, chấp nó là thật mới có
cái khổ này. Cho nên phải tu đạo (vừa kể là Ngũ đình
tâm quán), chỉ chọn một thứ quán trong 5 thứ quán, cũng
phải nhờ 37 phẩm trợ đạo để trợ giúp mới được chứng
diệt (Niết bàn), tức ra khỏi sanh tử luân hồi là chứng
quả A la hán.
Nhưng
pháp môn này rất phức tạp và khó, nên xưa nay không thấy
ai chứng quả, đừng nói chứng quả A la hán, chứng sơ quả
Tu đà hoàn cũng chưa thấy. Các nước Tiểu thừa (Tích Lan,
Campuchia, Lào, Thái Lan) tu pháp Tiểu thừa cũng không thấy
chứng sơ quả. Mình là nước Đại thừa, bình thường các
Pháp sư dạy tu pháp Đại thừa, như Tịnh độ cũng là Đại
thừa, Đại thừa còn gọi là Bồ tát thừa, nên cư sĩ cũng
có thọ giới Bồ tát. Trong giới Bồ tát có nói dạy người
ta tu pháp Tiểu thừa là phạm giới và tự mình tu pháp Tiểu
thừa cũng phạm giới.
Tại
sao? Như mình đang học đại học rồi bỏ, xuống dưới tiểu
học để học; mình học phải lên, mà không lên lại xuống!
Cho nên trong giới Bồ tát là phạm giới. Mấy nước Tiểu
thừa không biết có Đại thừa, không nhìn nhận Đại thừa
và không có Bồ tát. Năm 1974 tôi đến Bangkok gặp một sư
Tích Lan, tất cả nước Tích Lan không nghe câu “Nam mô A Di
Đà Phật”, không biết có Phật A Di Đà. Vì các nước Tiểu
thừa thì khác, mà Việt Nam, Trung Quốc thịnh hành Đại thừa
lại tán thán Tiểu thừa! Tức là bỏ đại học xuống học
tiểu học.
Hỏi:
A
la hán các lậu đã hết, sanh tử không còn; có khi nào vào
thế gian sanh vọng tâm bị đọa không? Như vị A la hán cởi
con ngỗng bay xuống kinh thành nhận sự cúng dường của hoàng
hậu; khi bà đảnh lễ tay chạm vào bàn chân của A la hán,
vị này nổi vọng tâm lên, sau đó không dùng thần thông để
bay, phải đi bộ về núi tu thời gian lâu được thần thông
như cũ. Con không biết chuyện này có thật không?
Đáp:
Chuyện
này có thật, Tiểu thừa tu đúng bước đầu được sơ quả
Tu đà hoàn dịch là nhập lưu. Tại sao gọi là nhập lưu?
Nhập thánh lưu, tức là lìa khỏi lục trần, không bị sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp làm ô nhiễm. Chứng sơ quả đã
được như thế, bây giờ người ta tu vì không biết, như
các câu hỏi không đúng với Phật pháp, chỉ tự mình coi
sách rồi tưởng tượng cho là vậy hay không phải vậy.
Thiền
sư Đạo Anh đệ tử của tổ Động Sơn, ở cách thầy không
xa; nửa tháng rồi không về thầy dùng cơm ngọ. Động Sơn
sai người sang hỏi Đạo Anh: sao nửa tháng nay không về ăn
ngọ?
Đạo
Anh đáp: có thiên thần cúng dường.
Động
Sơn sai người bảo Đạo Anh về.
Động
Sơn nói: tôi tưởng ngươi là con người, mà tu như vậy sao?
(quở công phu kém nên để thiên thần thấy).
Đạo
Anh trở về tu tiếp tục, thiên thần xuống muốn cúng dường
nhưng tìm không ra. Vì dùng công phu nhiều thì hào quang mạnh,
nên quỷ thần không thể thấy được.
Hỏi:
Kính
xin Sư Phụ chỉ dẫn cách thực hành Tổ sư thiền?
Đáp:
Ví
dụ đầu trên cây viết là thoại đầu, đầu dưới cây viết
là thoại vỉ. Tại sao gọi là thoại đầu? Thoại là một
lời nói, đầu là trước chưa khởi niệm muốn nói câu thoại
này, gọi là thoại đầu. Nếu khởi niệm muốn nói câu thoại
dù chưa nói ra miệng cũng là thoại vỉ, nghĩa là một niệm
chưa sanh khởi gọi là thoại đầu. Chỗ một niệm chưa sanh
khởi là vô thỉ vô minh, nếu khởi lên một niệm gọi là
nhứt niệm vô minh. Cuộc sống hằng ngày đều trong nhứt
niệm vô minh, từ niệm này qua niệm khác, ngày đêm không
ngừng.
Tham
thiền cũng dùng nhứt niệm vô minh, nhứt niệm vô minh cũng
là tác dụng của bộ óc. Nhưng mình dùng cái không biết của
bộ óc để chấm dứt cái biết của bộ óc. Như hỏi câu
thoại đầu thứ nhất trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ
Sư Thiền là “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Không
biết. Không biết là tham thiền. Thoại đầu là một niệm
chưa sanh khởi là vô thỉ vô minh.
Tại
sao gọi là vô minh? Minh là sáng, vô minh là không sáng (đen
tối), phải nhìn ngay chỗ mịt mù đen tối, không biết chỗ
đó là cái gì? Là nghi tình. Vừa nhìn chỗ đen tối, vừa
hỏi câu thoại để tăng cường nghi tình, như hỏi “khi chưa
có trời đất ta là cái gì?” Không biết chưa có trời ta
là cái gì, không biết là tăng cường cái nhìn chỗ đen tối.
Tối ngày nhìn và hỏi câu thoại, tức từ thoại vỉ đến
thoại đầu là đường đi ý thức, cũng là phạm vi nhứt
niệm vô minh, nhưng dùng niệm không biết đến thoại đầu
(đầu sào trăm thước).
Tham
chưa đến thoại đầu, nhưng cũng gọi là tham thoại đầu;
mục đích đến thoại đầu, tiến thêm một bước là kiến
tánh. Thoại đầu là nguồn gốc của ý thức, sát na lìa ý
thức là kiến tánh. Lìa ý thức, Thiền sư Lai Quả nói là
lọt vào hư không, phải té xuống cho chết, rồi sống lại;
Thiền tông gọi là tuyệt hậu tái tô. Chết rồi sống lại
có hai thứ: tiểu tử tiểu hoạt và đại tử đại hoạt.
Tiểu
tử tiểu hoạt là chết, nhưng còn cái xác rồi sống lại;
đại tử đại hoạt là chết, luôn cái xác cũng tan rã rồi
sống lại. Xác chết dụ cho cảnh giới ngộ, tiểu ngộ còn
cho mình có ngộ, ôm cảnh giới ngộ (trụ nơi ngộ). Nếu
có sở trụ chướng ngại dụng tự tánh hoạt bát vạn năng,
nên gọi là tiểu ngộ.
Đại
ngộ là không trụ nơi ngộ. Tại sao? Vì có ngộ thì có mê
để đối đãi, do cái mê được ngộ. Đã ngộ triệt để
thì hết mê, hết mê phải hết ngộ. Nếu còn ngộ tức còn
mê thì nằm trong tương đối. Triệt ngộ là bước vào tuyệt
đối, không có mê không có ngộ. Cho nên, Thiền tông nói “ngộ
rồi đồng như chưa ngộ”, tức là không trụ cảnh giới
ngộ.
Mình
cứ đề câu thoại đầu, hỏi thầm trong bụng tối ngày sáng
đêm, đi đứng nằm ngồi, mặc áo ăn cơm, đi cầu ngủ nghỉ
hỏi hoài. Hỏi khít khít và vừa nhìn chỗ mịt mù đen tối
(vô thỉ vô minh). Đó là cách tham Tổ sư thiền.
Hỏi:
Sao
gọi là từ nghi đến ngộ?
Đáp:
Nghi
là không biết không hiểu, nếu một vật gì đã hiểu biết
rồi thì hết nghi, Tổ sư thiền chỉ chú trọng chữ nghi,
gọi là nghi tình; tình là tình trạng của nghi cũng là tình
trạng không hiểu không biết của bộ óc. Vì cái biết của
bộ óc có hạn chế, biết chỗ này, không biết chỗ kia, có
lúc biết, có lúc không biết, cái biết của bộ óc không
đúng với thực tế.
Cho
nên, Phật Thích Ca muốn mình tự ngộ. Ngộ cái gì? Ngộ Phật
tánh của mình. Cái biết của Phật tánh gọi là chánh biến
tri, thì cái biết đó cùng khắp không gian thời gian, không
có cái nào thiếu sót, không còn cái gì không biết. Cùng khắp
thời gian là khác cái biết của bộ óc, cái biết của bộ
óc thì ngủ mê không biết, chết giấc không biết, chết rồi
không biết, không cùng khắp thời gian.
Cái
biết Phật tánh thì ngủ mê vẫn biết, chết giấc vẫn biết,
chết rồi vẫn biết; nếu chết rồi không biết thì không
phải cái biết Phật tánh. Tham thiền là từ nghi đến ngộ,
tức cái biết của Phật tánh hiện lên cùng khắp không gian
thời gian; không có lúc nào không biết, không có chỗ nào
không biết. Vì vậy, nói Phật pháp vô lượng vô biên, vì
bản thể của tâm mình vốn vô lượng vô biên cùng khắp
không gian thời gian. Tham thiền là muốn phát hiện Phật tánh
của mình. Cơ bản tham thiền là: tin tự tâm và phát nghi tình.
Thế
nào là tin tự tâm? Tin tâm mình cùng với tất cả chư Phật
không khác, bản thể cùng khắp không gian thời gian, siêu việt
số lượng, tất cả năng lực đều đầy đủ. Bây giờ mình
không phát hiện năng lực của mình sẵn có là do cái nghiệp
của mình che khuất. Tu hành là quét sạch tất cả cái nghiệp
đó thì cái biết Phật tánh hiện lên, tất cả thần thông,
trí huệ, đều đầy đủ. Cái bản năng chúng sanh tùy theo
nghiệp mà hiện ra chút đỉnh.
Như
con dơi không có con mắt nhưng bay không đụng vách tường,
nó sẵn có năng lực ra đa. Nhà khoa học học bản năng của
con dơi tạo ra cái ra đa. Trong đài 50 có thí nghiệm, mình
lật sách nó cũng biết, đếm tiền nó cũng phân biệt được,
trong nhà thờ ồn ào ca hát không làm ảnh hưởng nó bắt
muỗi. Con dơi sanh ra có bản năng ra đa, chứ không phải học
hay nghiên cứu mới có. Con chim ở trên hư không cách mặt
nước biển rất xa, mà cá lội ở dưới biển, có làn sóng
biển, nhưng con chim chụp được con cá; bản năng đó sẵn
có, không phải do học mà có.
Bộ
óc con người cấu tạo rất tinh vi, nhà khoa học học cấu
tạo tinh vi bộ óc con người, phát minh cái máy điện toán,
con người sanh ra đều có bộ óc tinh vi đó. Những cái này
tùy theo nghiệp, đầu thai thành người có bộ óc tinh vi, đầu
thai con dơi thì có ra đa. Nếu tất cả nghiệp sạch hết thì
năng lực thần thông, trí huệ vô lượng vô biên hiện ra.
Mục đích Phật Thích Ca truyền pháp môn này là từ nghi đến
ngộ, muốn mình ngộ bản tâm của mình đủ thứ năng lực
sẵn có, chứ không phải do học mà có, không phải do tu mới
có.
Hỏi:
Con
còn tại gia phải dùng bộ óc để làm việc, tham thoại đầu
đến lúc nào đó thì bộ óc không xử dụng được. Vậy
phải làm sao để công việc không bị trở ngại?
Đáp:
Tham
thoại đầu là muốn cho bộ óc không biết để cái biết
Phật tánh hiện lên, cái biết của bộ óc rất hạn chế,
không đúng với thật tế. Nếu hiện được cái biết của
Phật tánh thì làm việc khỏi cần qua bộ óc.
Cô
Trì Hằng Thiền là thợ may lúc khởi nghi tình thì bộ óc
không biết mà cắt áo rất khéo, không cắt lộn, cho đến
người em hỏi mấy phân mấy tấc, cô không biết; vô lý!
Không biết làm sao cắt? Nhưng sự thật không biết, cô vẫn
cắt xong cái áo. Bây giờ phát minh những kiểu mới, những
người khác phải nghiên cứu, rồi mới cắt được; còn cô
khỏi cần nghiên cứu, đem lại cắt liền, khỏi cần qua bộ
óc.
Cái
biết Phật tánh làm gì cũng được. Trương Quốc Anh là túc
cầu viên làm thủ môn, khi tham thiền thì bộ óc không biết,
không thấy trái banh, nhưng trái banh nào đến đều chụp được;
cho nên trận đấu nào có Trương Quốc Anh là thắng. Cắt
áo và chụp banh không có nguy hiểm, nếu bộ óc không biết
mà lái xe rất nguy hiểm nhưng không bao giờ đụng xe. Bác
sĩ Thuận tham thiền khởi lên nghi tình không thấy xe cộ,
lái xe từ Rạch Giá đến Sài gòn nhưng không bị đụng xe.
Có hai tài xế xe khách Sài Gòn đi Chợ Lớn khởi lên nghi
tình cũng không bị đụng xe.
Hiện
được cái biết của Phật tánh một chút là hơn cái biết
của bộ óc rất nhiều. Ở Việt Nam không có viết nguyên
tử nhập cảng, viết hết mực, lấy ruột viết bôm mực
vô xài tiếp. Có một thanh niên 20 tuổi bôm mực nguyên tử,
khi chưa tham thiền thì một ngày bôm được bốn mươi mấy
cây, lúc tham thiền bộ óc không biết bôm được tám mươi
mấy cây. Lại bốn mươi mấy cây ra mực không đều, tám
mươi mấy cây ra mực đều; không những số lượng tăng thêm,
mà chất lượng cũng tốt hơn.
Nếu
dùng cái biết của Phật tánh thay thế cái biết của bộ
óc thì làm việc nhanh hơn, tốt hơn. Bởi vì cái bản năng
tự mình sẵn có, như con dơi, con chim ăn cá, con ong… đều
có bản năng của nó; chỉ theo cái nghiệp hiện ra bản năng
một chút cũng xài, nếu hiện ra hết bằng như chư Phật,
không sợ bộ óc không làm việc được; Phật tánh làm việc
thay cho bộ óc, tốt hơn muôn triệu ngàn lần.
Hỏi:
Làm
thế nào để phá vỡ nghi tình?
Đáp:
Tham
thiền là không cho bộ óc suy nghĩ, tìm hiểu, để cho cái
biết Phật tánh hiện ra; cho nên có ý muốn phá nghi tức là
muốn ngộ cũng không được. Điều thứ nhất của Đường
Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền là phá ngã chấp “vô sở
đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”, nếu cầu phá nghi được
ngộ cũng là cầu; công phu của mình đến mức sẽ được
ngộ, cầu để phá nghi được ngộ thì không thể ngộ.
Hỏi:
Làm
thế nào để khắc phục dục tính?
Đáp:
Trước
kia chưa tham thiền hay thích đi nhà hàng ăn uống, sau tham thiền
một thời gian không thích đi nhà hàng ăn uống nữa. Chưa
tham thiền muốn mặc đồ đẹp, sau tham thiền một thời gian
không thích mặc đồ đẹp. Đó là tự nhiên như vậy, vì
nghi tình là không biết; bộ óc không biết thì không biết
xấu đẹp, không biết có dục tính hay không dục tính, khỏi
cần trừ dục tính, dục tính tự động trừ. Nghi tình là
cây chổi automatic quét sạch tất cả thì cái dụng của tự
tánh hiện ra vô lượng vô biên.
Hỏi:
Làm
sao biết mình ngồi thiền đúng hay sai? Ngồi thiền sai có
hại gì không? Nếu sai làm sao sửa?
Đáp:
Tham
Tổ sư thiền khỏi cần ngồi, Lục Tổ nói “đạo do tâm
ngộ bất tại tọa”, ngộ do tâm chứ không phải do thân.
Tâm là vô thỉ vô chung không có sanh diệt, vĩnh viễn không
có biến đổi, tồn tại chân thật. Thân này từ từ biến
đổi, cuối cùng chết đem thiêu thành tro, chôn thành đất.
Cho nên tu hành chú trọng tâm ngộ, chứ không chú trọng thân
ngồi. Lục Tổ nói “ngồi lâu trói thân không có ích lợi”.
Tôi dạy Tổ sư thiền của Phật Thích Ca là không chú trọng
ngồi.
Nói
về thiền thì Tổ sư thiền khác hơn tất cả thiền, tất
cả thiền đều chú trọng ngồi, mà Tổ sư thiền không cần
ngồi; đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, đi cầu…
đều tham thiền, đang làm công việc, đang đá banh, lái xe…
đều tham thiền được, đang ngủ mê cũng tham thiền. Ban đầu
mình tập phải bị gián đoạn, ngày đêm 24 tiếng đồng hồ
sẽ gián đoạn 23 tiếng, rồi từ từ gián đoạn bớt lại,
cho đến ngày đêm không giây phút nào gián đoạn.
Hỏi:
Làm
sao phá trừ được vô minh bao phủ khắp mọi nơi?
Đáp:
Bát
Nhã Tâm Kinh nói “vô vô minh diệc vô vô minh tận”, không
có vô minh cũng không có vô minh hết. Vô minh là mê thành chúng
sanh, vô minh hết là ngộ thành Phật; vốn không có mê thì
không có ngộ, vốn không có vô minh thì không có vô minh hết
chứng nhập Niết bàn, và “vô lão tử diệc vô lão tử tận”,
vốn không có sanh tử làm sao có sanh tử hết! Vậy mình thấy
có vô minh có sanh tử rõ ràng. Tại sao? Vì vọng tâm hoạt
động nên thấy có sanh tử, thấy có vô minh. Nếu vọng tâm
ngưng hoạt động tự nhiên không có vô minh, không có sanh
tử.
Khi
thân mình xoay thì thấy căn nhà xoay, thân xoay mau thì căn nhà
xoay mau, không thể không thấy căn nhà xoay được. Muốn căn
nhà ngưng xoay thì thân phải ngưng xoay, thân không ngưng xoay
thì căn nhà xoay mãi. Căn nhà xoay dụ cho sanh tử luân hồi,
căn nhà ngưng dụ cho cứu cánh Niết bàn. Nhưng căn nhà vốn
không xoay, tại sao nói là căn nhà ngưng xoay? Phải căn nhà
xoay mới nói ngưng xoay.
Phật
đã nói vốn không có vô minh, cho nên khỏi trừ vô minh. Tham
thiền khởi lên nghi tình thì vô minh không trừ mà tự trừ,
lúc ngộ mới biết không có vô minh, vốn không có sanh tử.
Vì vậy người ngộ rồi sanh tử tự do.
(Thiền
sư sanh tử tự do… trang 270)
(Vua
mời Thiền sư… trang 267)
Hỏi:
Làm
sao tránh được con đường tu hành sai lầm của mình?
Đáp:
Tu
pháp môn nào phải đúng theo tông chỉ của pháp môn đó, tu
Tịnh độ đúng theo tông chỉ Tịnh độ, tu tông Thiên thai
phải đúng chỉ quán thiền của tông Thiên thai, tu Tổ sư
thiền đúng theo tông chỉ của Tổ sư thiền. Nếu theo đúng
tông chỉ thì không có sai lầm đường tu, không đúng tông
chỉ là sai lầm. Bởi vì mỗi tông mỗi phái khác nhau, tông
chỉ cũng khác. Tôi dạy Tổ sư thiền điều thứ nhất là
vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ. Thực hành được 9
chữ này là đúng tông chỉ, không thể bị tẩu hỏa nhập
ma.
Nếu
cái tách không có cái không thì không sử dụng được, cái
bàn không có cái không thì không thể để đồ, cái ghế không
có cái không thì không ngồi được, cái nhà không có cái
không thì quý vị không thể ngồi. Cho nên cái không rộng
chừng nào thì cái dụng rộng chừng nấy. Tham Tổ sư thiền
có nghi tình là cây chổi automatic quét trống không, quét không
được bao nhiêu thì cái dụng được bấy nhiêu. Như bác sĩ
Thuận, Trương Quốc Anh, Trì Hành Thiền, họ quét không được
chút đỉnh thì hiển bày được cái dụng chút đỉnh.
Đến
khi ngộ triệt để và về sau từ từ dứt hết tập khí thì
dụng bằng như chư Phật. Tập khí dứt nhiều chừng nào thì
cái dụng Phật tánh hiện ra nhiều chừng nấy, dứt hết tập
khí không còn cái gì nữa, được cái dụng vô lượng vô
biên cùng khắp không gian thời gian.
Hỏi:
Làm
sao rửa sạch hết nghiệp?
Đáp:
Nghiệp
là do tâm tạo, khỏi cần rửa, tham thiền tự nhiên rửa sạch.
Cái nghi là không biết của bộ óc, như mình bôm bong bóng
tự bùng nổ. Tham thiền cứ tối ngày sáng đêm, đi đứng
nằm ngồi, mặc áo ăn cơm, đi cầu làm việc… đều giữ
nghi tình làm cho bộ óc không biết gì hết. Hỏi “khi chưa
có trời đất ta là cái gì?” Không biết. Cái không biết
là tham thiền, chỉ không biết; tối ngày sáng đêm giữ cái
không biết, một ngày kia sẽ đến thoại đầu.
Tham
thoại đầu nhưng chưa đến thoại đầu. Ví dụ cây viết
để giải thích hai chữ thoại đầu: đầu trên cây viết
là thoại đầu, đầu dưới cây viết là thoại vỉ. Tại
sao nói là thoại đầu? Thoại là một lời nói, đầu là trước
khi lời nói; trước khi chưa nổi niệm muốn nói lời nói
này gọi là thoại đầu, tức là một niệm chưa sanh khởi.
Tham
thiền là từ thoại vỉ đang đến thoại đầu, ở giữa đường;
đường này là đường đi ý thức, cũng còn tác dụng của
bộ óc. Nhưng dùng cái không biết của bộ óc (nghi tình),
một ngày kia đến thoại đầu thì đường đi ý thức đã
hết, trước mắt thanh thanh tịnh tịnh, chỗ này gọi là thoại
đầu (vô thỉ vô minh, đầu sào trăm thước), từ đầu sào
trăm thước tiến lên một bước là kiến tánh.
Hỏi:
Làm
sao đến ngộ?
Đáp:
Chỉ
giữ nghi tình sẽ được ngộ, nuôi cái nhân cho mạnh đến
mức là được. Bây giờ mình ngủ mê, tham thiền không được,
nhưng công phu đến mức thì ngủ mê vẫn còn tham; ban đầu
làm việc không tham được, nhưng lâu ngày làm việc cũng tham
được. Đó là phải tập lần lần, chứ không phải mới
tham mà làm được.
Mới
tập tham trong 24 tiếng đồng hồ thì gián đoạn hết 23 tiếng,
tập lần lần từ 23 tiếng bớt lại còn 22 tiếng gián đoạn,
cứ tập như thế đến 24/24 ngày đêm không còn gián đoạn.
Nếu không có giây phút nào gián đoạn là đến thoại đầu,
sắp kiến tánh, có khi một hai bửa hay một tuần lễ, nửa
tháng, một tháng sẽ kiến tánh.
Hỏi:
Lúc
tuổi già đến gần chỗ Ngài để tu hay vào thiền viện mà
tu?
Đáp:
Tổ
sư thiền rất thích hợp cho những người đang làm việc để
tu, bất cứ nghề nào vẫn làm y như cũ. Lịch sử Thiền tông
có ghi vua kiến tánh vẫn làm vua, thừa tướng kiến tánh vẫn
làm thừa tướng, thượng thư kiến tánh vẫn làm thượng
thư, cho đến người buôn bán tay bưng vai gánh đi rao ngoài
đường cũng được kiến tánh, có làm nghề gì cũng được
kiến tánh, chứ không phải bỏ nhà hay đến chỗ vắng lặng
để tu.
Ở
Việt Nam, có người hỏi tôi: con muốn tham thiền nhưng trong
lu gạo của con hết, làm sao con tu?
Tôi
trả lời: dạy tham thiền đâu bảo ông bỏ nghề, ngồi đó
để trời giúp cho ăn! Làm nghề gì vẫn làm y như cũ. Tham
thiền không những không chướng ngại kiếm gạo, lại giúp
cho ông kiếm gạo nhiều.
Đang
làm việc đang tham thì khó một chút, nếu mình quyết tâm
thì cũng làm được; ở thiền đường tu dễ hơn, nhưng cũng
tùy theo hoàn cảnh của mình, chứ khỏi cần bỏ nghề đi
tu.
Hỏi:
Mục
đích tham thiền của Thiền sư là gì?
Đáp:
Tham
Tổ sư thiền là từ nghi đến ngộ, mục đích là phát hiện
bản năng của mình để dùng tích cực, không phải tiêu cực.
Nghĩa chữ Phật là tự giác, giác tha; tức là tự mình giác
ngộ, giác ngộ cho tất cả chúng sanh. Tại sao phải giác ngộ?
Giác ngộ là thành Phật, tôi giác ngộ nên tôi là Phật, ông
giác ngộ nên ông là Phật, người nào giác ngộ thì người
ấy là Phật.
Ngày
xưa Phật Thích Ca đã giác ngộ, người ta hỏi: ông là gì?
Phật
đáp: tôi là người giác ngộ.
Đáng
lẽ gọi Phật là người giác ngộ nhưng không gọi, mà lại
gọi là Phật; gọi Phật thành quen, có người cho Phật là
một thần linh. sự thật Phật cũng là người, nhưng người
giác ngộ khác hơn người chưa giác ngộ. Người giác ngộ
làm chủ cho mình được tự do tự tại, nếu chưa giác ngộ
thì không làm chủ chính mình, nên không được tự do tự
tại.
Bây
giờ không làm chủ chính mình, không muốn già vẫn già, không
muốn bệnh vẫn bệnh, không muốn chết vẫn chết; nếu ngộ
thì được sanh tử tự do. Trong Lịch sử Thiền tông ghi có
7.000 Tổ được sanh tử tự do. Thân này không phải tồn tại
chân thật của ta. Tại sao? Vì biến đổi thường xuyên từ
giây từ phút, nhưng mình không biết. Phật tánh không bắt
đầu cũng không cuối cùng, vĩnh viễn không biến đổi, tồn
tại chân thật của ta.
Nếu
có biến đổi thì không phải chân thật của ta. Tại sao?
Mẹ đẻ ra đứa bé, cho đứa bé là ta; đến khi đứa bé
lớn bằng con nít thì cho con nít là ta; con nít trưởng thành
người lớn, cho người lớn là ta; người lớn biến thành
người già, cho người già là ta; người già chết đem chôn
dưới đất biến thành đất, nói đất đó là ta được không?
Nếu đất đó không phải ta, thì người già không phải ta,
người trẻ không phải ta, con nít không phải ta, đứa bé
cũng không phải ta.
Vì
thân này biến đổi cuối cùng phải thành tro thành đất,
còn cái vĩnh viễn chân thật của ta không thể biến đổi.
Tham thiền là muốn phát hiện chân thật tồn tại của ta,
nhưng người ta không biết cứ lưu luyến cái giả dối của
ta, nên phải chịu đủ thứ khổ, đến chừng chết cũng chưa
hết. Vì phải đi đầu thai chỗ khác chịu khổ nữa, gọi
là sanh tử luân hồi. Phật Thích Ca dạy tham Tổ sư thiền
muốn mình kiếp này chấm dứt tất cả khổ, tự mình làm
chủ cho mình.
Hỏi:
Làm
thế nào để định được tâm?
Đáp:
Tham
thiền không những định được tâm, ngài Lai Quả nói “giữ
được nghi tình thì giới, định, huệ đầy đủ, tất cả
kinh của Phật, các tôn giáo, tất cả công thương kỹ nghệ
của thế gian đều đầy đủ”. Nếu còn thiếu sót thì không
phải cái biết của Phật tánh. Khởi lên nghi tình thì bộ
óc không biết, không biết nên không phạm giới.