6. Cái Chính
Mình : Bốn Mắt Nhìn Nhau
Thiền
sư Chân Nguyên (1647-1726) năm 19 tuổi lên chùa Hoa Yên yết
kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt Chân Trú. Ngài Tuệ Nguyệt hỏi
: “Ngươi ở đâu đến đây ?” Sư thưa : “Vốn không đi
lại.” Tuệ Nguyệt biết sư là pháp khí về sau, bèn thế
phát xuất gia cho với pháp danh là Tuệ Đăng. Không bao lâu
sau Tuệ Nguyệt tịch. Sư cùng bạn đồng học là Như Niệm
phát nguyện tu hạnh đầu đà đi du phương tham vấn Phật
pháp. Thời gian sau Như Niệm trở về trụ trì chùa Cô Tiên,
sư lên núi Côn Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ
tử của Chuyết Chuyết. Sư hỏi : “’Bao năm dồn chứa ngọc
trong đãy, hôm nay tận mắt thấy thế nào’ là sao ?” Thiền
sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Sư, Sư nhìn lại, hai
mắt gặp nhau, Sư liền cảm ngộ, sụp xuống lạy. Minh Lương
bảo : “Dòng thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa
làm thạnh ở đời.” Rồi đặt cho sư pháp hiệu Chân Nguyên
và bài kệ phó pháp :
Ngọc
quý ẩn trong đá
Hoa
sen mọc từ bùn
Hãy
biết chỗ sanh tử
Ngộ
đó, tức Bồ đề.
Chính
vì do việc ‘Bốn mắt nhìn nhau’ (tứ mục tương cố) này
mà ngộ nhập thực tại nên về sau trong những sáng tác của
mình, Thiền sư Chân Nguyên nhiều lần nói đến ‘bốn mắt
nhìn nhau’.
* *
*
Qua
sự việc bốn mắt nhìn nhau này, chúng ta thấy một khi tâm
thức đã chín muồi, đã qua một thực hành sơ bộ đủ để
tâm thức bớt đi hai sự che chướng của phiền não và sở
tri, thì bất cứ một sự tiếp xúc nào, nhất là với một
người đang sống trong thực tại ấy thì như lửa đá xẹt,
ánh điện chớp (kích thạch hỏa, thiểm điện quang), người
ta thấy ngay, thể nhập ngay thực tại. Mặc dầu có thể chúng
ta không hiểu kinh nghiệm bốn mắt nhìn nhau này thực sự
là cái gì, nhưng đang trên con đường tích tập và chuẩn
bị cho trí huệ bùng phát, ít nhất chúng ta cũng có niềm
tin rằng Cái Đó (Thực Tại) có thể xuất hiện bất cứ
lúc nào, ở bất cứ đâu một khi chúng ta đã chuẩn bị đầy
đủ, đã chín muồi. Niềm tin này là động lực cho sự tích
tập chuẩn bị và nỗ lực của chúng ta, vì khi tâm thức
đủ thanh tịnh, nó liền thấy Pháp thanh tịnh.
Chúng
ta hãy xem xét tiếp thêm ‘bốn mắt nhìn nhau’ để thấy
ra một vài đặc tính của cái thực tại trong bốn mắt nhìn
nhau này :
Hiện
ra nhãn nhĩ thanh âm
Tứ
mục tương cố chẳng tâm thời gì
Tâm
nguyên không tịch vô vi
Ngộ
được tức thì quả chứng Như Lai.
Thực
tại ấy đầy khắp trong mắt tai mũi lưỡi thân ý, đầy
khắp trong sắc thanh hương vị xúc pháp…, và ở đây thiền
sư Chân Nguyên gọi thực tại ấy là Tâm. Nhưng sở dĩ chúng
ta không thấy được, không biết được vì tâm thức chúng
ta chưa được thanh tịnh. Quá trình tu hành chuẩn bị chính
là sự tịnh hóa tâm thức này. Như ở đây Thiền sư Chân
Nguyên đã ‘phát nguyện tu hạnh đầu đà đi du phương tham
vấn Phật pháp’. Trong quá trình tịnh hóa đó, tâm thức
Sư đã trưởng thành, đã chín muồi. Vì đã chín muồi, đã
tiếp cận, đã tiến đến rất gần, Sư mới có được câu
hỏi từ đáy lòng mình : “’Bao năm dồn chứa ngọc trong
đãy, hôm nay tận mắt thấy thế nào’ là sao ?” Và bốn
mắt nhìn nhau, và ‘đá xẹt, điện chớp’, và thấy, và
‘ngộ đó, tức Bồ đề’.
Thiền
tông cũng như những tông khác, sự tu hành dù có hình thức
gì thì bản chất cũng là tịnh hóa tâm thức. Thiền tông
cũng như Đại thừa, cho rằng Phật và chúng sanh đồng một
tâm, chỉ có điều tâm thức chúng sanh thì bất tịnh, nghĩa
là có nhiễm ô, còn tâm Phật thì thanh tịnh, nghĩa là không
có nhiễm ô. Và khi tâm thanh tịnh thì thấy các pháp bản
lai thanh tịnh, thấy cõi Phật này thanh tịnh. Như thế muốn
thấy được thực tại vốn xưa nay thanh tịnh này chỉ cần
‘hồi đầu thị ngạn’, quay đầu lại là bờ. Nhưng sự
tịnh hóa, sự quay đầu lại của Thiền tông thì khá đặc
biệt ; ở đây chúng ta dẫn một phong cách thường thấy trong
Thiền Trung Hoa :
“Thiền
sư Vô Nghiệp (760-821) nghe tiếng Mã Tổ, tìm đến yết kiến.
Mã Tổ thấy tướng mạo Sư kỳ đặc, tiếng nói trong như
chuông, bèn bảo :
–
Cao lớn nghiêm trang mà trong ấy không có Phật.
Sư
lễ lạy quỳ thưa :
–
Về Kinh điển con có hiểu biết qua, thường nghe Thiền Môn
nói “Tức Tâm là Phật”, thật chưa hiểu thấu.
–
Chỉ cái tâm chưa hiểu đó chính là nó, ngoài ra không có
vật gì khác.
–
Thế nào là tâm ấn mật truyền của Tổ sư từ Ấn Độ
sang ?
–
Tự đại đức đang ồn ào. Hãy đi, khi khác đến.
Sư
vừa đi ra, Mã Tổ gọi :
–
Đại đức !
Sư
xoay đầu lại.
Mã
Tổ hỏi :
–
Là cái gì ?
Sư
liền lãnh hội, lễ lạy.
Mã
Tổ bảo : Gã khờ, lễ lạy làm gì ?”
* *
*
Thực
tại thì ở khắp tất cả chỗ, đụng vào đâu cũng có thể
‘đá chớp điện xẹt’, ở nơi nào cũng hiển lộ trong
‘bốn mắt nhìn nhau’. Sở dĩ như vậy là vì nơi chúng ta
luôn luôn có Cái Đó. Cái Đó vẫn ở với chúng ta từ vô
thủy đến vô chung, cho nên khi đủ duyên, khi đã mỏng bớt
ngăn che thì ‘đá chớp điện xẹt’ bèn lộ toàn thân vậy.
Quả thật không có an ủi nào bằng, không có phấn khích nào
bằng ! Đức Thích Ca đã chứng ngộ hoàn toàn Cái Đó mà
thành Chánh Đẳng Chánh Giác, đức A Di Đà đã chứng ngộ
hoàn toàn Cái Đó mà thành Phật và kiến lập Tịnh độ Tây
phương, Bồ tát Quán Thế Âm đã chứng ngộ hoàn toàn Cái
Đó mà khắp hiện Hóa thân, Trí Bi tròn đủ… Vậy mà bây
giờ Cái Đó vốn có nơi mỗi chúng ta, là quyền lợi tối
thượng của mỗi chúng ta, chúng ta có thể nào lơ là, không
tinh tấn ?
Cái
Đó chưa từng cách chúng ta một mảy tóc, cọng lông, chưa
từng lìa chúng ta một khoảnh khắc, một sát na, thế mà chúng
ta không khám phá nó, thể nghiệm nó thì có phải cuộc đời
chúng ta rất uổng phí hay không ? Cái Đó gần chúng ta hơn
cả máu thịt, cả hơi thở, cả sự sống và cái chết, bởi
vì Cái Đó là cái Chính Mình, thật sự là chính mình, của
chúng ta vậy :
Ta
có một thân Phật
Người
đời ít kẻ biết
Không
một giọt bùn, tro
Không
một điểm hình sắc
Vàng
ròng khó đúc thành
Gỗ
đá khó chạm khắc
Thợ
trời tạo chẳng thành
Trộm
đất cắp chẳng được
Nước
lửa chẳng can gì
Nghiễm
nhiên gió chẳng đổi
Lặng
sáng đầy thái hư
Đoan
nghiêm rất kỳ đặc
Tròn
sáng có một thân
Hóa
thân trăm ngàn ức.
(Thiền
sư Chân Nguyên)
Chính
vì mỗi mỗi chúng ta đều có Cái Này, mỗi mỗi chúng ta đều
là Cái Này, nên mỗi mỗi đụng vào là mỗi mỗi lửa đá
xẹt, tia điện chớp. Chính vì Cái Này mà chư Phật thị hiện
xuất thế khai thị chỉ bày, chư Tổ dày công đẽo gọt dạy
dỗ. Chính vì Cái Này mà các Bồ tát lòng bi như trời như
biển, vì Cái Này còn hơn trời hơn biển. Chính vì Cái Này
là cái Chính Mình của mỗi chúng ta :
“Thiền
sư Minh Trí (?-1196) một hôm đang đàm luận với một vị tăng,
có vị tăng bên cạnh nói : ‘Nói hết là Văn Thù, nín bặt
là Duy Ma.’
Sư
nói ngay : ‘Không nói, không nín, đâu chẳng phải là ông
?’”
Nếu
chúng ta thực sự tha thiết tìm cầu, lấy chỉ một câu này
mà tham thiền, không dừng lại trong những vọng tưởng ý
niệm bọt bèo, không dừng lại trong cái ‘trong trẻo vắng
lặng’ của định tâm, thì có ngày cánh cửa trước mặt
sẽ mở toang ra mà thấy ‘không nói, không nín, đâu chẳng
phải là ông’ vậy.
* *
*
Tâm
nhân địa tu hành – nói theo kinh Viên Giác – của Thiền
chỉ là Cái Đó, cái chính mình, cái Pháp thân… Bởi thế
Thiền không y cứ vào những phương tiện giả lập, những
loại quán tưởng có tính cách đối trị, trung gian, thậm
chí những tầng thiền định – bốn Thiền, tám Định –
vì những tầng thiền định này chỉ là những trạng thái,
dù vi tế, của Tâm. Phương tiện tu hành của Thiền không
phải là một phương tiện nhân tạo và khác với cứu cánh
; phương tiện của Thiền chính là cái cứu cánh đó. Nếu
Thiền có quán là quán ngay ‘Chân Thể’ (hay Pháp thân), có
định là định trong ‘Chân Thể’. Cho nên nhân tu hành của
Thiền chính là quả Ba Thân Phật (Pháp thân, Báo thân, Hóa
thân), và quả Ba Thân này vốn nằm ngay trong tự tánh của
mình. Nhân của Thiền không phải là một nhân phương tiện
giả lập để đạt đến cái Quả ở ngoài nhân, mà nhân
ấy đã vốn nằm trong Quả, nhân tới đâu thì quả hiện
bày tới đó. Sở dĩ Thiền được gọi là Đốn vì thế,
vì nó tu hành, sinh hoạt ngay trong Phật địa, và đối với
Thiền, chỉ có một địa duy nhất là Phật địa, nó chẳng
chú trọng đến những giai đoạn (những địa riêng rẽ) ở
trong Phật địa Pháp thân. Từ bước đầu tiên cho đến bước
cuối cùng đều xảy ra trong một địa duy nhất là Phật địa.
Nhưng
cái Pháp thân, cái Tâm, cái Thực Tại, cái Phật Tánh Chính
Mình ấy chưa hề rời lìa chúng ta đến một mảy may không
gian và một sát na thời gian. Nó chưa hề rời lìa sinh hoạt
sanh tử này đến mảy lông cọng tóc. Thiền sư Chân Nguyên
khai thị :
“Đó
chính là mọi người trong suốt mười hai giờ đi đứng nằm
ngồi, thấy nghe hay biết, nhướng mày chớp mắt, ứng cơ
tiếp vật, đưa tay động chân, một thể tròn sáng, sáu căn
vận dụng, ứng âm ứng thanh, hay thấy hay nghe, biết nói biết
năng, biện rõ phải trái.
Nói
năng đó là gì ? Cái gì biết hỏi đáp ? Đây chính là pháp
thân của mọi người, là tự tánh chân không, hay ứng ra âm
thanh, miệng lưỡi mà hỏi đáp. Đấy là tánh chân không người
người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành, ở thánh chẳng thêm,
ở phàm chẳng bớt, không biến không đổi, không cũ không
mới, không quá khứ hiện tại vị lai, hư không bình đẳng,
trong lặng tròn sáng, từ mênh mông kiếp đến nay tự riêng
ở ngay tại đây, gió thổi chẳng động, mưa tưới chẳng
ướt, lửa đốt chẳng cháy, dùi nhọn chẳng phủng… sạch
làu làu, bày trần trụi, không một vật, nắm chẳng được,
lồ lộ trước mắt, rực rỡ soi khắp. Đây là Pháp thân
chân không thanh tịnh, không hình không tướng, tròn đồng
thái hư, nghiễm nhiên thường trụ vậy. Như hư không rộng
lớn, bao trùm trời đất, xuyên suốt núi sông, suốt xưa tột
nay, vững mãi như vậy. Nên biết núi sông đại địa rốt
ráo là hoa đốm trong hư không, thân thể bốn đại, âm dương
đều là huyễn hóa, ‘phàm hễ có tướng đều là hư vọng’.”
* *
*
Nếu
nói theo ngôn ngữ đời thường ngày nay, Thiền thì hiện thực
hơn bất kỳ hiện thực nào, thực dụng hơn bất kỳ thực
dụng nào, cụ thể hơn bất kỳ cụ thể nào, và là chất
lượng sống hơn bất kỳ chất lượng sống nào. Thiền sư
Minh Châu Hương Hải (1628-1715) giảng câu kinh Kim Cương ‘Thế
nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp’ như sau
:
…
Hết thảy chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng lìa
khỏi pháp tánh tam muội. Dầu khi mặc áo ăn cơm, nói chuyện,
đối đãi, sáu căn thường hành, nhậm vận thi vi, thật là
những diệu dụng của pháp tánh. Chẳng biết phản bổn hoàn
nguyên, bèn thành ra theo danh chấp tướng, tình mê vọng khởi,
tạo thảy thảy nghiệp. Nếu có thể biết được nhất niệm,
rõ phàm tâm, chứng được thánh tâm, chuyển thế pháp đều
nên Phật pháp.
Thấy
cho được ‘hết thảy chúng sanh từ vô lượng kiếp đến
nay chẳng lìa khỏi pháp tánh tam muội’, đó là cái thấy
của Thiền, thiền định của Thiền, hạnh của Thiền và
cũng là quả của Thiền. Thấy được như vậy, thọ trì được
như vậy thì ‘thế nên Như Lai nói tất cả pháp đều là
Phật pháp’.
7. Hành động
: từ tự do đến tự do
Đạo
Phật Việt Nam thường được cho là có tính cách nhập thế.
Nhập thế là một tính cách chung của Đại thừa, nhưng cũng
tùy theo mỗi nước mà được vận dụng theo những tính cách
khác nhau. Ở nước ta, hạnh Bát Nhã thường được nhấn
mạnh, như trong Lục Độ Tập Kinh (theo sự nghiên cứu của
học giả Lê Mạnh Thát thì kinh này là cuốn kinh xưa nhất
của Việt Nam) của Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3, nói
về Sáu Độ, tức Sáu Ba la mật, tức là các hạnh do Trí
Huệ Bát Nhã dẫn đường. Chúng ta cũng thấy kinh Kim Cương,
một kinh nói về Trí Huệ Bát Nhã thể hiện qua hành động
(bố thí, nhẫn nhục,… độ sanh, trang nghiêm cõi Phật…)
hoặc kinh Pháp Hoa, là những kinh được truyền vào rất sớm
và được các Thiền sư chú trọng đặc biệt từ thời khởi
đầu cho đến tận ngày nay. Một điều đáng ghi nhận nữa
là có một số ít những Thiền sư Việt Nam không phải là
người xuất gia mà là cư sĩ như Huệ Trung thượng sĩ, Trần
Thái Tông, Lý Thánh Tông (với phái Thiền Thảo Đường)…
Sau
đây chúng ta đọc một bài thơ của vua Trần Thánh Tông, người
đã cùng con là vua Trần Nhân Tông lãnh đạo hai cuộc chiến
tranh chống quân Nguyên Mông. Chúng ta cũng biết vua Trần Nhân
Tông người lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử mỗi khi niệm
hương thuyết pháp đều nhắc đến tên hai vị thầy của
mình là Trần Thánh Tông và Huệ Trung thượng sĩ. Đó là bài
thơ Tự Thuật :
Từ
khi để chỏm nhập rừng Thiền
Đập
ngói dùi rùa chẳng ngoại cầu
Nhận
được bản lai chân diện mục
Đến
đâu thì cũng thấy an nhiên.
Suốt
ngày nhàn gảy đàn không điệu
Cửa
nhàn không sự để quan tâm
Trong
đây khúc nhạc không ai biết
Chỉ
gió tùng kia họa lại âm.
Tung
hoành chẳng lọt cơ không-có
Muôn
pháp bộn bề chẳng biết chi
Đi
ngủ, ăn cơm tùy chỗ dụng
Chẳng
còn việc khác đáng nên làm.
Một
búng tay phá tan muôn núi
Công
phu như thế cũng là nhàn
Lạnh
nóng đến đi không chỗ biết
Chút
gì từng can dự lão nhân.
Trong
đây không thiếu cũng không dư
(Tướng)
Phật cũng không, hề,
(tướng)
người cũng không
Ngoài
trời xa cảnh thu xa đến
Núi
xanh mây tỏa mặc vu vơ.
Nguyên
Hán văn :
Tự
tòng quán giốc nhập thiền lưu
Đả
ngõa toàn quy một ngoại cầu
Nhận
đắc bản lai chân diện mục
Đáo
đầu hà xứ bất hưu hưu.
Chung
nhật nhàn đàn bất điệu cầm
Nhàn
môn vô sự khả quan tâm
Cá
trung khúc phá vô nhân hội
Duy
hữu tùng phong họa thử âm.
Tung
hoành bất đọa hữu vô cơ
Vạn
pháp phân phân tổng bất tri
Khiết
phạn đả miên tùy xứ dụng
Cánh
vô tha sự khả ưng vi.
Nhất
đàn chỉ phá vạn trùng sơn
Giá
cá công phu dã thị nhàn
Hàn
thử đáo lai vô sở thức
Vị
tằng phân thượng lão nhân can.
Cá
trung vô khiếm diệc vô dư
Phật
dã vô hề nhân dã vô
Thu
cảnh viễn lai thiên ngoại viễn
Thanh
sơn vân tỏa chủng đô lô.
Với
một nhà vua trải qua ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông
– lần thứ nhất dầu chưa chính thức tham dự nhưng Trần
Thánh Tông cũng có trải qua, vì chỉ một năm sau chiến thắng
Nguyên Mông lần thứ nhất, ông được chính thức truyền
ngôi, năm 18 tuổi – vậy mà trong một bài thơ tự thuật
cuộc đời mình, người ta thấy những chữ ‘nhàn’, ‘vô
sự’, ‘đàn không điệu’, ‘chẳng biết chi’, ‘không
chỗ biết’… Cái nhàn, cái vô sự ở đây là cái nhàn của
tánh Không, của người đã thể nhập tánh Không.
‘Nhận
được bản lai diện mục’ là chứng ngộ được tánh Không,
cái mà Lục tổ Huệ Năng nói là ‘Xưa nay không một vật,
chỗ nào nhuốm bụi trần’. Đây là sự giải thoát do thể
nhập được tánh Không hay pháp tánh, ‘đến đâu thì cũng
thấy an nhiên’. Ngộ tánh Không, bắt đầu sống sống bằng
trí vô sai biệt hay căn bản trí, không còn bị thức phân
biệt thao túng, do đó mà ‘muôn pháp bộn bề chẳng biết
chi’, ‘lạnh nóng đến đi không chỗ biết’. Cái tri, cái
thức trong tổng bất tri và vô sở thức ở đây là cái biết
sai biệt của thức.
Sống
trong căn bản trí hay trí vô sai biệt nghĩa là sống trong tánh
Không hay pháp tánh. Sống trong đó thì các hình tướng không
còn ảnh hưởng : ‘chút gì từng can dự lão nhân’. Chính
từ một đời sống không còn hình tướng sai biệt (vô tướng)
mà hành động thuần khiết phát khởi. Hành động thuần khiết
hay thuần túy đó không nằm trong thế giới sai biệt, nghĩa
là không phân chia đây-kia, chủ thể-đối tượng…, cho nên
nó không tạo nghiệp. Đó là hành động xảy ra trong tánh
Không hay pháp tánh : trong cái toàn thể như là cái toàn thể.
Còn nếu hành động trong cái phần tử, tức khắc phải xung
đột với những phần tử khác, thì chắc chắn sẽ tạo nghiệp.
Cái phần tử càng rõ ràng bao nhiêu, cá thể càng riêng tư
bao nhiêu, sự tạo nghiệp càng sâu đậm bấy nhiêu. Càng ở
trong tánh Không bao nhiêu, nghĩa là càng thoát khỏi bốn tướng
ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, – theo kinh Kim Cương – thì
hành động càng ít tạo nghiệp bấy nhiêu. Hành giả ấy thấy
cảnh trước mắt thật xa, ‘cảnh thu xa đến’, vì hình
tướng phân biệt đã chìm trong tánh Không, không còn ảnh
hưởng làm cho tham sân si khởi lên. Đã thế ‘cảnh thu xa’
ấy, đến từ ‘ngoài trời xa’(4) nghĩa là từ cái Không
rốt ráo, như thế thế gian này chẳng còn bóng dáng vết tích
nghiệp nào nữa : ‘núi xanh mây tỏa mặc vu vơ’.
* *
*
Hành
động trong tiếng Sanskrit là karma, chữ karma này được dịch
là nghiệp. Hành động tức là nghiệp, vì hành động là tạo
ra một nhân nào đó, và có nhân thì có quả. Đó là tiến
trình nghiệp báo. Như vậy có thể nào hành động mà không
tạo nghiệp, hành động mà không hành động, hành động mà
vẫn giải thoát ? Trong Phật giáo, hệ thống Bát Nhã có thể
trả lời cho vấn nạn này.
“Cư
sĩ Thông Thiền (?-1228), đời thứ 13 dòng Vô Ngôn Thông thờ
Thiền sư Thường Chiếu chùa Lục Tổ làm thầy.
Một
hôm Sư vào thất, thưa hỏi rằng : Làm thế nào để hiểu
Phật pháp ?
Thường
Chiếu đáp : Phật pháp thì không thể biết hiểu. Ở đây
đâu có pháp biết. Chư Phật như vậy, tu tất cả pháp bất
khả đắc.
Sư
ngay câu nói này lãnh ngộ yếu chỉ.
Sư
trở về làng cũ, học giả theo học rất đông. Phàm có ai
hỏi đều dùng tâm ấn tâm.
Có
người hỏi : Thế nào là người xuất thế ?
Sư
đáp : Chẳng nghe người xưa nói, ‘Chỉ xem thấy (quán) năm
uẩn đều Không, bốn đại vô ngã, chân tâm không tướng,
không đi không đến. Khi sanh tánh chẳng đến, khi tử tánh
chẳng đi, trong trẻo tròn lặng, tâm cảnh nhất như.’ Chỉ
cần trực nhận hiểu ngay như thế thì không bị ba đời ràng
buộc. Đó là người xuất thế, quyết chẳng có được chút
gì để hướng tới.
Lại
hỏi : Thế nào là nghĩa vô sanh ?
Sư
đáp : Phân biệt thấy rõ các uẩn này, tánh của chúng vốn
không tịch. Không, nên không thể diệt, đây là nghĩa vô sanh.
Lại
hỏi : Thế nào là lý vô sanh ?
Sư
đáp : Do việc điều hành các uẩn mới hiển hiện tánh Không.
Tánh Không không thể diệt, đây là lý vô sanh.
Tăng
hỏi : Thế nào là Phật ?
Sư
đáp : Bản tâm là Phật, thế nên Đường Tam Tạng Huyền
Trang nói : ‘Chỉ rõ suốt tâm địa nên hiệu là Tổng Trì,
ngộ pháp vô sanh gọi là Diệu Giác’.”
Nghiệp
hay hành động, là hành động của năm uẩn. Khi ‘thấy (quán)
chúng đều Không, bốn đại vô ngã, khi (năm uẩn) sanh, tánh
chẳng đến, khi (năm uẩn) tử, tánh chẳng đi, trong trẻo
tròn lặng, tâm cảnh nhất như ; chỉ cần trực nhận hiểu
ngay như thế thì không bị ba đời ràng buộc. Đó là người
xuất thế, quyết chẳng có được chút gì để hướng tới’
: đây là sự giải thoát của việc trực nhận tánh Không,
dù các uẩn vẫn đang hoạt động. ‘Phân biệt thấy rõ các
uẩn này, tánh của chúng vốn không tịch’ : điều quan trọng
nhất là các uẩn vẫn hoạt động, nhưng thấy rõ chúng là
vô sanh. Hơn nữa, chính trong hoạt động, chính ‘do việc
điều hành các uẩn, mới hiển hiện tánh Không’.
Các
uẩn có hoạt động nhưng vẫn là vô sanh, ‘tánh của chúng
vốn không tịch’. Đây là điều kinh Kim Cương đã chỉ rõ
:
“Nếu
có người nói rằng : Như Lai có đến có đi, hoặc ngồi hoặc
nằm, người ấy không hiểu nghĩa ta nói. Bởi vì sao ? Vì
Như Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu, nên gọi là
Như Lai.”
“Nếu
lấy sắc thấy ta
Lấy
âm thanh cầu ta
Người
ấy hành tà đạo
Chẳng
thấy được Như Lai.”
“Đối
với Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ta trong ấy không một
chút pháp gì có thể được, đó gọi là Vô thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.”
“Các
ông chớ nói Như Lai nghĩ rằng : Ta độ chúng sanh. Chớ có
nghĩ vậy. Tại sao vậy ? Thật không có chúng sanh cho Như Lai
độ.”
……
Và
kinh kết luận :