|
THIỀN
LUẬN SÁU
TRIẾT
HỌC VÀ TÔN GIÁO TRONG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
I.
ĐẠI CƯƠNG.
II.
TRIẾT HỌC TRONG BÁT-NHÃ.
1.
Bát-nhã: Nguyên lý chi đạo.
2.
Bát-nhã: thí dụ đôi cánh chim và cái ghè.
3.
Bát-nhã: mẹ của chư Phật và Bồ-tát
4.
Bát-nhã = Chính giác = Nhất thiết trí
5.
Bát-nhã: Như thật Tri kiến.
6.
Bát-nhã và Tính Không.
7.
Bát-nhã và Như Huyễn.
8.
Bát-nhã và Trực quán.
9.
Bát-nhã như là Bất khả đắc và Tương đối tính.
10.
Bát-nhã và Phản lý.
11.
Vô sở đắc và Vô thủ trước.
12.
Thực tại như được nhìn từ bên kia.
13.
Bát-nhã trong tay các Thiền sư. |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
.
Viện
Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang
THIỀN VÀ BÁT
NHÃ
Daisetz
Teitaro Suzuki - Bản dịch Việt: TUỆ SỸ
Ban
Tu Thư Phật Học 2548 - 2004
|
|
THIỀN
LUẬN SÁU
TRIẾT
HỌC VÀ TÔN GIÁO
TRONG
BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
I.
ĐẠI CƯƠNG
Bát-nhã
ba-la-mật-đa[80] là một trong những kinh điển tối cổ của
Phật giáo được dịch sang Hán văn. Bản kinh Bát-nhã đầu
tiên, được gọi là Đạo hành,[81] xuất hiện năm 172. Truyền
thuyết cho rằng kinh Tứ thập nhị chương [82] được phiên
dịch do sứ đoàn đầu tiên người Ấn đến Trung hoa năm
69, nhưng không có gì bảo đảm cho chứng cứ lịch sử của
nó. An Thế Cao,[83] từ nước An tức (Parthia) đến Trung hoa
vào năm 148, trải qua 22 năm thực hiện công trình phiên chuyển
các kinh Phật sang Hán văn, nhưng tất cả thuộc kinh Tiểu
thừa. Trong trường hợp đó, kinh Đạo hành Bát-nhã bản Hán
dịch của Chi lâu-ca-Sấm (Lokarakṣa) người Nhục-chi (nước
này sau trở thành vương quốc Kuṣaṇa: Quý-sương), đáng
cho là thực sự bản kinh Đại thừa đầu tiên trong số tất
cả các kinh Phật được truyền vào Trung hoa từ trước. Cũng
nên ghi nhận một điều kỳ diệu, theo đó, một nền giáo
thuyết của đạo Phật tuyên bố rằng tất cả đều “không”
và “không tự tính”, lại là công trình thực sự quan trọng
được truyền bá giữa một dân tộc nặng đầu óc thực
dụng, theo chủ nghĩa công lợi. Hiển nhiên, các môn đệ của
“tính Không” đã không nghĩ loại hoạt động truyền giáo
này là một sự nghiệp “trống không”.
Trong
thế kỷ thứ III, hai bản kinh thuộc Bát-nhã được dịch
sang Hán văn, và thế kỷ IV vẫn còn xuất hiện những bản
khác. Các bản của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) được hoàn
thành khoảng đầu thế kỷ thứ V. Cho đến hậu bán thế
kỷ thứ VI, Huyền Trang hoàn tất bản dịch đồ sộ của
bộ Đại Bát-nhã gồm 600 quyển. Đó là một tập đại thành
bách khoa gồm hầu hết những kinh điển thuộc bộ Bát-nhã
của Đại thừa.
Trong
Phạn văn, một tòng thư gồm 125.000 bài tụng (śloka), tức
những đoạn chỉnh cú có 32 âm tiết. Bốn bản ngắn hơn
gồm 100.000, 25.000, 10.000 và 8.000 śloka. Bản ngắn nhất được
ấn hành năm 1888 bởi học giả người Ấn Rājendralāla Mitra;
bản 100.000 bài tụng được ấn hành 1902 bởi Pratāpacandra,
nhưng theo chỗ tôi biết chưa có ấn bản đầy đủ nào xuất
hiện. Bản xưa nhất trong số các bản kinh Bát-nhã khác nhau
hình như là bản ngắn nhất, bản 8.000 śloka, được gọi
là Bát-nhã Bát thiên tụng (aṣṭasāhasrikā). Những bản dài
hơn là những bản quảng diễn về sau. Bát thiên tụng tương
đương với Đạo hành kinh của Chi Lâu-ca-sấm (Lokarakṣa),
Tiểu phẩm Bát-nhã của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva), và quyển
thứ 538-555 trong bản Đại Bát-nhã của Huyền Trang, và Phật
mẫu Bát-nhã của Thi Hộ.[84] Bởi vì, xét trên phương diện
triết học và tôn giáo, tất cả những quan điểm cốt yếu
của kinh Bát-nhã đều nằm trong đó, chủ đề của tôi sẽ
dựa vào bản kinh này qua bản Sanskrit và các bản Hán dịch,
mặc dù những trích dẫn rải rác lấy từ các bản kinh Bát-nhã
khác. Độc giả nếu có hứng thú đối với văn học Bát-nhã,
có thể tham khảo tập tài liệu của Bác sĩ Tokumyô Matsumoto
về Die Prajnāpāramitā-Literatur.[85]
Tuy
nhiên, vì bản Sanskrit Aṣṭasāhasrikā cũng như nhiều bản
kinh Bát-nhã Hán văn được đề cập ở đây không dễ gì
tiếp cận cho độc giả,[86] vậy xin giới thiệu kinh Kim cương
(vajracchedikā),[87] qua các bản dịch tiếng Anh của Max Müller
và William Gemmel, vì sự khái quát của nó. Nhưng, khuyết điểm
chính nơi kinh Kim cương là quá nhấn mạnh về khía cạnh tính
Không của Bát-nhã, khiến cho độc giả phổ thông có ấn
tượng rằng đây là khởi điểm hay đỉnh điểm của Đại
thừa. Bác sĩ Max Walleser, Heidelberg, dịch sang Đức ngữ một
vài chương của Aṣṭasāhasrikā.[88]
Chủ
đích của thiên luận này cốt nêu lên rằng, giáo nghĩa của
các kinh Bát-nhã nhằm xác định tính thể của Bồ-tát đạo.
Đó là điều mà trong hết thảy các kinh Đại thừa gọi là
Bồ-tát hạnh (bodhisattvacaryā). Caryā (hành, ta quen đọc là
hạnh), có nghĩa là “sinh hoạt”, vậy Bồ-tát hạnh (bodhisattvacaryā)
là điểm phân biệt Bồ-tát với các loại chúng sinh khác;
đặc biệt trong Đại thừa, phân biệt với Thanh văn (Śravaka)
và Độc giác (Pratyekabuddha). Kinh Bát-nhã tìm thấy sinh hoạt
này trong sự thấu hiểu Bát-nhã với tất cả những hàm tàng
của nó, trí thức, đạo đức và tâm linh. Trong những trang
tiếp theo, do đó, chúng ta sẽ trước hết thử xem Bát-nhã
có nghĩa là gì, sau đó mới khai thác nội dung thực tiễn
của nó. Có thế, tính thể của Bồ-tát đạo mới trở thành
hiển lộ tự nhiên. Tôi tin rằng độc giả đã biết khá
rõ về mối liên hệ rất sâu xa giữa Thiền tông và giáo
nghĩa Bát-nhã, trên lịch sử và trên học thuật.
Vậy
Bát-nhã sẽ được diễn tả từ nhiều quan điểm khác nhau,
và đó cũng là cách mà các kinh Bát-nhã ba-la-mật thường
nói về Bát-nhã.
II.
TRIẾT HỌC TRONG BÁT-NHÃ
1.
Bát-nhã: Nguyên lý chi đạo
Bát-nhã
là một trong sáu Ba-la-mật (pāramitā),[89] tức sáu đức tính
của sự toàn thiện dành riêng cho Phật tử Đại thừa hay
các Bồ-tát. Khi họ tu tập trọn vẹn sáu Ba-la-mật này, nhất
định cuối cùng sẽ đạt tới giác ngộ. Nhưng các kinh thuộc
bộ Bát-nhã coi Bát-nhã như là nguyên lý chỉ đạo của các
Ba-la-mật khác. Vì nếu không có Bát-nhã, các Ba-la-mật khác
sẽ không thể tìm thấy sở y và sở hướng của chúng. Để
riêng ra chúng sẽ lạc đường như một bọn mù trong rừng
rậm. Chúng không thể bước vào trụ xứ tối hậu của thực
tại. Chúng không thể nhận ra Nhất thiết trí, vì là không
có mắt, và tất cả mọi nỗ lực của chúng đều vô bổ
nếu không có sự hướng dẫn của Bát-nhã. Bát-nhã là con
mắt soi thấy rất tỏ rõ trọn cả môi trường sinh hoạt
của Phật đạo và xác định các bước tiến của Bồ-tát
phải được hướng dẫn như thế nào và dẫn vào đâu. Năm
Ba-la-mật (pāramitā) kia: Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tiến, Thiền
được gọi Ba-la-mật (pāramitā) [90] bởi vì chính Bát-nhã
là con mắt của chúng.[91]
Lại
nữa, Bát-nhã như mặt đất cho các thứ cây cối có thể
sinh trưởng. Tất cả các điều kiện khác có thể đã hội
đủ cho hạt giống nảy mầm, nhưng nếu không có đất, chẳng
bao giờ nó sinh trưởng được. Cũng vậy, nếu không có Bát-nhã,
các Ba-la-mật khác sẽ mất hết tiềm năng của chúng; sẽ
không có mầm sống nào trong chúng.[92] Lại nữa, chính do Bát-nhã
ba-la-mật mà các Ba-la-mật khác được hộ trì, được vững
chắc, được toàn vẹn, và được thực hành tương xứng.
Cũng như 62 tà kiến phát sinh từ khái niệm cho rằng thật
có bản ngã (satkāyadṛṣṭi: hữu thân kiến), cũng vậy,
năm Ba-la-mật kia sinh ra từ Bát- nhã. Cũng như các thân căn
thụ hưởng sinh lực của chúng khi mạng căn còn tiếp tục,
cũng vậy, năm Ba-la-mật kia còn sống động khi Bát-nhã ôm
ấp chúng trong đôi cánh che chở của mình.[93]
2.
Bát-nhã: thí dụ đôi cánh chim và cái ghè
Bát-nhã
như những con chim trời mà đôi cánh có thể trải rộng một
do-tuần,[94] hay rộng đến năm do tuần. Nếu chưa lớn đúng
mức, không thể bay được. Chúng có thể muốn bay từ trên
những bầu trời của chúng xuống tới thế gian này, hoặc
nửa chừng chúng có thể thay đổi tâm niệm mà bay trở về
trời. Trường hợp đầu, chúng có thể xuống tới mặt đất
mà không bị tổn thương không? Trường hợp sau, chúng có
thể an toàn trở về quê cũ hay không? Không, cả hai trường
hợp đều không thể, mà chúng phải chịu số phận tự hủy
vì vẫn còn là những cánh chim non, chưa đủ sức để bay
như vậy. Cũng thế, Bồ-tát dù đã trọn vẹn phát Bồ-đề
tâm, đã chứa nhóm đủ tất cả các Ba-la-mật như Bố thí,
Trì giới, Tinh tiến và Thiền định, nhưng nếu chưa có Bát-nhã
và Phương tiện (upāya) của Bát-nhã thì tất cả mọi ước
vọng và nỗ lực sẽ là vô nghĩa, và sẽ bị rơi trở lại
cảnh giới của Thanh văn và Độc giác thừa.[95]
Lại
nữa, Bồ-tát không có Bát-nhã có thể ví như một cái ghè
bằng đất chưa nung đến độ. Người ta có thể dùng cái
ghè chưa nung đến độ đó để mang nước từ giếng hay từ
sông, nhưng chắc chắn sẽ thấy nó rạn vỡ trước khi về
tới nhà. Tại sao? Bởi vì ghè được lấy ra khỏi lò trước
khi nung chín và khô. Cũng tương tự như vậy, Bồ-tát dù đã
có tín, có nguyện, có nhẫn, có hỷ, có lý giải, có tôn
trọng, có tinh tiến, có tịnh tâm, v.v., nhưng không có Bát-nhã
và Phương tiện của Bát-nhã để được hộ niệm trong suốt
quá trình tu Bồ-tát hạnh, thì vẫn có thể thoái thất, rơi
rớt trở lại Thanh văn thừa hay Độc giác thừa, không thể
đạt được Nhất thiết trí.[96]
Bằng
những lời tán dương Bát-nhã đó, kinh gây cho chúng ta có
ấn tượng sâu đậm về mức quan trọng phi thường của Bát-nhã
ba-la-mật. Trước khi phát triển quan niệm này, sáu Ba-la-mật
được coi như có ý nghĩa ngang nhau trong sinh hoạt của Bồ-tát.
Sự hứng khởi của Đại thừa đã làm thay đổi vị trí
tương đối đó. Bấy giờ Bát-nhã được tách riêng và đặt
lên vị trí cao nhất. Không có Bát-nhã, các Ba-la-mật còn
lại như một con thuyền lạc hướng la bàn và lạc mất thuyền
trưởng. Đây là giai đoạn quan trọng trong diễn tiến của
tư tưởng Phật giáo. Khi chúng ta biết rằng, đạo Phật lấy
sinh khí của nó từ tông chỉ Giác ngộ, tính cách trọng yếu
của Bát-nhã chắc chắn phải được khẳng định. Nhưng cũng
có thể cho rằng tác giả của kinh Bát-nhã ba-la-mật đã có
hơi lo ngại rằng không rõ giáo thuyết của mình được các
Phật tử tiếp nhận lập tức và không ngần ngại hay không.
Vì lý do đó, tôi tin rằng, kinh nêu lên nhiều trường hợp
không bị kinh sợ và áp đảo bởi giáo nghĩa Bát-nhã ba-la-mật.
Kinh nói, trong đời sống của mình ai đã từng nghe đến lý
Bát-nhã mà không kinh sợ quả thật hy hữu. Thọ trì Bát-nhã
và tuân hành không do dự các chỉ thị của Bát-nhã, cái đó
đòi hỏi trải qua nhiều đời chứa nhóm các thiện căn.
3.
Bát-nhã: mẹ của chư Phật và Bồ-tát
Nói
rằng Bát-nhã là nguyên lý chỉ đạo của các Ba-la-mật, ấy
là vì các nhà Đại thừa quan niệm nó cấu thành Nhất thiết
trí (sarvajñatā). Tức là, trí tuệ viên mãn mà bậc toàn trí
đã thành tựu. Do đó, Bát-nhã là ánh sáng rọi khắp mà chúng
ta phải chiêm ngưỡng. Nó đứng trên tất cả ảnh hưởng
ô nhiễm của các vật thể trần gian. Nó soi sáng tất cả
bóng tối trong thế giới đối đãi nhị nguyên, và do đó
mang lại thanh bình và an ổn cho mọi loài. Nó cung cấp ánh
sáng cho người mù, nhờ đó y có thể yên lành đi xuyên qua
đêm tối của vô minh. Nó dẫn những người lạc lối trở
về con đường chính. Nó vén mở cho chúng ta thấy chân lý
của vạn hữu, và chân lý đó là Nhất thiết trí (sarvajñatā).
Nó là nơi nương tựa của mọi loài, khiến chúng hoàn toàn
không sợ hãi; là người có năm con mắt soi rõ trọn cả thế
gian. Là chân lý vượt lên sống và chết, vượt trên tất
cả mọi tạo tác và khát ái. Nó chính là tính Không. Là kho
lẫm của hết thảy mọi chân lý (dharmakośa). Là mẹ của
hết thảy chư Phật và Bồ-tát.[97]
Vì
Bát-nhã là mẹ, là vị sinh thành (janayitrī) của hết thảy
chư Phật và Bồ-tát, nên các Ngài luôn luôn lo lắng về sức
khỏe, về sự bình an và sự thịnh vượng của Bát- nhã.
Kinh nói:[98] Như một bà mẹ có nhiều con. Nếu bà bệnh tật,
hết thảy các người con của bà, con trai cũng như con gái,
đều mong bà chóng bình phục. Bởi vì họ chỉ có một tâm
niệm duy nhất rằng bà là mẹ của họ, đã nuôi dưỡng họ
bằng tất cả yêu thương và ấp ủ, những gì mà họ sở
hữu riêng hôm nay đều do bà ban cho với trí tuệ và lòng
từ ái. Vậy không thể quên bà, phải chăm sóc bà, phải kiếm
thuốc men cho bà để bà được bình phục, qua khỏi mọi thứ
đau đớn và phiền muộn. Bà được săn sóc bởi tất cả
những người con của mình như vậy. Cũng giống như vậy,
chư Phật và Bồ-tát quan tâm sâu xa đến sự tráng kiện của
Bát-nhã là bà mẹ của mình; các Ngài dùng hết mọi phương
thế để bảo vệ bà tránh xa các thứ ma quỷ quấy phá và
giúp bà đứng vững trong thế gian. Do đó, các hoạt động
truyền giáo của các Ngài là sao cho kinh Bát-nhã ba-la-mật
được sao chép, được học hỏi, được tụng đọc, được
ghi nhớ, được suy tư, và được truyền dạy cho đến cùng
tận thời gian.
4.
Bát-nhã = Chính giác = Nhất thiết trí
Bát-nhã
trong khởi thủy được nói là phương tiện để thành tựu
Chính giác, mục đích tối thượng của sự tu tập Phật đạo.
Nhưng bây giờ nó đã được đồng nhất với chính mục đích
đó, Bát-nhã (prajñā) là Chính giác (sambodhi); bởi vì trong
kinh nghiệm của Phật giáo, Bát-nhã chỉ có thể hoạt động
theo bản tính thanh tịnh nguyên thủy của nó khi nào có Chính
giác. Chừng nào Bát-nhã còn được quan niệm là hướng đến
cứu cánh bên ngoài tự thân nó, bấy giờ nó chưa phải là
nó, chưa ở trong trạng thái thuần tịnh của nó; chỉ khi
nào được đồng nhất với chính giác, Bát-nhã mới trở
về nguyên tính của nó. Chừng nào chính giác còn được quan
niệm như là mục đích cứu cánh được tầm cầu bằng vào
Bát-nhã, thì không những chính giác còn xa vời với các bạn
mà cả đến Bát-nhã vẫn không thể tác dụng theo công năng
bản hữu của nó. Bát-nhã là Bát-nhã, thì nó phải là một
với chính giác. Do đó, chúng ta có thể nói rằng, Bát-nhã
tự hiển lộ và nhận ra khuôn mặt chân thực, không tì vết,
trong chính giác. Khi sự thực hành Bát-nhã ba-la-mật mà đạt
đến được đỉnh cao một cách thiện xảo, bấy giờ chính
giác và Bát-nhã hoàn toàn trở thành nhất thể, sự đồng
nhất trở thành một hiện thực.
Trên
mặt khái niệm, Bát-nhã khởi sự những vận động đầu
tiên của nó hướng tới thẩm định cái được giả thiết
làm đối tượng cho nó. Tuy nhiên, khi Bát-nhã thực sự nắm
được đối tượng, thì sở tri và năng tri trở thành một:
tình trạng thiên chấp chấm dứt và bây giờ là tình trạng
của đồng nhất vô phân biệt, gọi đó là chính giác, và
cũng là Nhất thiết trí (sarvajñatā). Kinh nghiệm này cũng
có thể được mô tả như vậy: trước hết Bát-nhã tự phân
đôi thành phương tiện và cứu cánh, chủ thể và khách thể,
cái này và cái kia, cái thấy và cái bị thấy. Khi tác dụng
quán chiếu tự thân đã hoàn tất, không còn có tính nhị
nguyên trong Bát-nhã. Bát-nhã hiện hành trong chính giác, và
chính giác hiện hành trong Bát-nhã. Bát-nhã thấy đâu cũng
mang danh hiệu Bát-nhã, chỉ khác trong cách gọi. Bát-nhã là
một danh hiệu; chính giác cũng là một danh hiệu khác, Niết-bàn
là một danh hiệu khác nữa, cứ thế, vân vân. Thế tức là,
tất cả những danh hiệu đó chỉ giả danh, chúng được phân
biệt như thế vì tiện ích của tri thức chúng ta. Cái thực
và cái chân, là cái một của những danh hiệu đó, và chính
là cái đó.
Vậy,
Bát-nhã tức Chính giác(sambodhi), hay giác ngộ. Bát-nhã là
Nhất thiết trí (sarvajnatā), Bát-nhã là Niết-bàn, Bát-nhã
là Chân như (tathātā), Bát-nhã là Tâm (citta), Bát-nhã là Phật
tính (buddhatā); vậy thì tự thân Bát-nhã bản lai vốn Bất
khả đắc (anupalabdha) và Bất khả tư nghị (acintya). Bất
khả đắc và Bất khả tư nghị đó, là cơ sở của hết
thảy mọi thực tại và tư tưởng. Do đó, lẽ đương nhiên,
các tác giả của các kinh Bát-nhã ba-la-mật đa tán dương
Bát-nhã như một người tạo ra những phép lạ, gần như nhân
cách hóa Bát-nhã thành một đối tượng sùng kính và sau hết
đòi hỏi những ai tin nó nên chí thành cung kính đối với
tất cả những kinh văn nào có chứa đựng giáo nghĩa Bát-nhã,
coi như chính những kinh văn đó là những hóa thân sinh động
của tác nhân hoàn thành những sự kỳ diệu. Không phải chỉ
nên học hỏi (paryāvapti), tụng đọc (vācana), ghi nhớ (dhāraṇa),
và sao chép (lekhana), nhưng còn được khuyến khích là nên
tôn sùng (satkāra) và lễ bái (gurakara), cúng dường bằng các
phẩm vật (pūjā) như hoa, tràng hoa, hương, dầu, đèn, cờ,
phướn, lọng và y phục. Còn thì không ai có thể hy vọng
phân biệt một cách chính xác phước đức tăng trưởng từ
tín tâm (abhiśraddhā: thâm tín) và tín nhiệm (adhmukti: thắng
giải) với sự nhiệt thành tích cực (adhyāsayata: thâm tâm
hay cao chí) trong Bát-nhã ba-la-mật. Khía cạnh sùng bái của
Bát-nhã ba-la-mật được nối kết kỳ lạ với tính chất
siêu hình cao vút cùng tột của nó.
Tuy
nhiên, kỳ cùng, chủ đề của các kinh Bát-nhã ba-la-mật là
Bồ-tát hạnh, tức thực hành Bát-nhã ba-la-mật để nhờ
đó chứng đắc vô thượng chính giác. Vấn đề thực hành
Bát-nhã như thế nào, không ngớt được nêu lên và được
giải đáp; và đấy chính là trọng điểm thu hút nhất của
tất cả các kinh Bát-nhã. Nếu thành tựu được, việc học
Phật đã đến cùng đích. Nhưng, như đã nói trước, việc
thực hành Bát-nhã và sự tác thành chính giác, cả hai không
cùng một bản chất đồng loại. Chính giác nảy ra từ sự
thực hành đó như hoa nở ra từ cây; đời sống tiếp nối,
nên tức là một. Như vậy, lý luận sau đây rất đúng: Bát-nhã
hiện thành trong các sở hành, và cái hành đó là nội dung
của chính giác, cho nên, Bát-nhã là giác ngộ hay chính giác.
Prajñā = Sambodhi cũng có thể được khẳng định theo khía
cạnh thực hành của vấn đề. Tất cả những từ này luôn
luôn được dùng thay đổi nhau trong các kinh Bát-nhã, đặc
tính của cái này có thể áp dụng cho cái kia một cách ngang
nhau. Sự thực, bộ ba: Prajñā = Sambodhi = Sarvajñatā là sợi
dây nối liền những chuỗi giáo nghĩa sai biệt trong chúng.
Các bạn thử kéo ra một khoen, là kéo luôn các khoen còn lại.
Nhưng nếu chúng ta muốn phân biệt, ở đây có thể định
nghĩa Bát-nhã như là một công cụ nhận thức nhờ đó mà
đạt tới Nhất thiết trí, trong khi Chính giác hơi nghiêng
về tâm lý một chút theo nghĩa nó chỉ điểm một trạng thái
thức tỉnh của tâm linh. Bát-nhã có sẵn trong mọi chúng sinh
không phân biệt, dù chưa bộc lộ bằng tác dụng thuần tịnh
tuyệt đối của nó. Nơi đức Phật, Bát-nhã là Nhất thiết
trí, bởi vì Ngài ở trong trạng thái giác ngộ toàn vẹn.
Trong
kinh Đại Bát-nhã, Chính giác, hay Bồ-đề, được diễn tả
bằng những từ như sau:[99] “Bồ-đề (bodhi, chính giác) là
nghĩa Không (śūnyatā), là nghĩa Chân như (tathatā), là nghĩa
Thực tế (bhūtakoṭi), là nghĩa Pháp giới (dharmadhātu), là
nghĩa Pháp tính (dharmatā). Thế nhưng, đấy là những danh tướng
được giả lập, những ngôn thuyết tạm thời. Bồ-đề là
chân thật giác, là tối thượng diệu. Bồ-đề là chân, là
thật, là không hư vọng, không biến dị, không bị phá hoại,
không phân biệt; Bồ- đề là thanh tịnh chân thật, là giác
ngộ cùng khắp mà Phật sở hữu, Bồ-đề là sự viên mãn
căn bản từ đó chư Phật hiện thành đẳng chính giác soi
thấy hết thảy các pháp, hết thảy chủng tướng; vượt
ngoài mọi danh ngôn thế tục tạm thời.”
Khi
Bodhi, hay Chính giác, được diễn tả bằng những từ đồng
nghĩa khác nữa như thế, kết quả có lẽ khiến cho khá mông
lung, vậy cần có thêm những nhận xét sau đây. Nếu chúng
ta đề cập thẳng vào tính cách biểu lộ của nó, thì Bát-nhã
có thể tự hiển lộ bản thân, và chúng ta có thể nói thế
này: Bát-nhã là soi thấy yếu tính của sự vật như thế
là như thế (yathābhūtam); Bát-nhã soi thấy sự vật y theo
bản tính Không của chúng; khi soi thấy sự vật như thế là
đạt tới biên tế của thực tại, tức là vượt ra ngoài
lãnh vực tri kiến của con người; và do đó, Bát-nhã nắm
cái không thể nắm, đạt cái không thể đạt, hiểu cái không
thể hiểu; khi lối diễn tả bằng trí năng về tác dụng
của Bát-nhã ấy được diễn dịch thành những hạng từ
tâm lý, nó là cái không dính mắc vào đâu, dù nó là một
ý tưởng hay một cảm giác.
Chúng
ta đọc trong phẩm “Devaparivarta”(Thiên phẩm) của Aṣṭasāhasrikā-pāramitā:
“Những ai khởi sự thực hành Bát-nhã phải thực hành tất
cả sáu Ba-la-mật để hồi hướng công đức cho sự chứng
đắc vô thượng chính giác. Tuy nhiên, khi hồi hướng như
thế, đừng bao giờ chấp chặt (parāmṛṣṭā) vào nơi chính
giác coi đó là mục tiêu cho các tu tập của mình, cũng đừng
chấp trước năm uẩn (skandha) coi đó là những thực tại
cá biệt bất khả hoại. Bởi vì nhất thiết trí là cái vô
thủ trước (aparāmṣṭā).[100]
“Vô
thủ trước“ tức là “không bị dính mắc.” Bất khả
đắc và Bất khả tư nghị là bản tính của Bát-nhã, Bồ-tát
khi đã khôi phục được hoạt dụng nguyên thủy của nó,
tự nhiên sẽ không chấp thủ dù là chấp thủ Bát-nhã, Nhất
thiết trí hay Chính giác. Đây là một giai đoạn quan trọng
trong đời sống của Bồ-tát, mà tôi sẽ có cơ hội nhắc
nhở
thêm sau này.
5.
Bát-nhã: Như thật Tri kiến
Do
công năng vô chấp đó, chúng ta có thể nói rằng Bát-nhã
có khả năng nhìn thấy ghế giới như thế là như thế, thấy
các pháp trong bản tính như thực (yathābhūtatā) của chúng.
Đây là hoạt dụng đặc sắc nhất của Bát-nhã mà Bồ-tát
sở đắc khi ngộ rằng trong tự tính của mình Bồ-tát đến
từ Bát-nhã, và, do đó biết rằng Bát-nhã sinh ra Bồ-tát
cũng như sinh ra hết thảy chư Phật. Một khi đôi mắt của
Bồ-tát mở ra để thấy sự thực này, Bồ-tát quan sát thế
gian và hết thảy thiên sai vạn biệt của thế gian trong tướng
trạng chân thực của chúng. Nói thế tức là, trong tầm tri
giác của chúng ta, thế gian không ngừng biến đổi, chịu
đủ hình thái thành và hoại. Nhưng Bồ-tát, khi mà trí Bát-nhã
của Ngài đã khai ngộ hoàn toàn, nhận thấy rằng năm uẩn
tạo thành thế gian này, dù có những biến dịch bên ngoài
của chúng, trong tự tính (svabhāva), chúng không hề bị hoại
diệt, không có tướng hoại diệt, siêu việt mọi chuyển
biến, siêu việt sinh tử, siêu việt các tướng, không khởi
niệm ái lạc phiền não.
Kinh
điển Bát-nhã vừa là một nền triết học và vừa là một
nền tôn giáo, nên giáo nghĩa của nó luôn luôn hỗn hợp bản
thể luận và tâm lý học. Sự thực, nó không quan tâm đến
hữu thể là như gì, nhưng nói tới những gì có nơi con người.
Biết rõ thế gian tức biết rõ tâm linh của con người và
những tạo tác của nó. Không có những vấn đề siêu hình
nào mà cùng lúc không là những vấn đề về giải thoát và
giác ngộ. Do đó khi Bồ-tát nhận thấy thế gian như là như
thực (yathābhūta) Ngài cũng nhận thấy các loại tâm của
con người như tự tính của chúng; thế rồi Ngài mới thi
thiết các phương tiện thiện xảo (upāya) của mình. Vậy,
kinh nói, bằng con mắt của trí Bát-nhã, Bồ-tát thấy rõ
tâm của tất cả các loại hữu tình, và Ngài biết rõ chúng
sai biệt như thế nào, sai biệt về cá tính, sai biệt về
hoạt dụng, sai biệt về thọ báo, sai biệt về giá trị đạo
đức, về tâm tính, vân vân. Rồi tri kiến như thực (yathābhūta)
của Ngài thấu suốt qua những giả tướng này và nhận ra
rằng các tâm của chúng, tịnh hay bất tịnh, nhiếp tâm hay
loạn tâm, nhiễm tâm hay ly nhiễm tâm, tất cả đều không
tự tính, không thủ trước, không phân biệt. Đấy được
coi là nhìn vạn hữu trong chân như tướng của chúng, trong
đó mọi sai biệt tan biến hết, đồng thời tự hiển lộ
tự tính trong ánh sáng của trí Bát-nhã.
Do
đó, đương nhiên tri kiến như thực trong các kinh Bát-nhã
có nghĩa là tri kiến xuyên qua bức màn trùng điệp phủ tối
đôi mắt chúng ta, và rồi dùng trí Bát-nhã nắm lấy vạn
hữu trong chân như của chúng. Chân như (tathatā) là một từ
quá lạ, nhưng trong thuật ngữ Phật giáo, nó là một trong
những từ ý vị nhất. Hiểu rõ nghĩa của nó là hiểu toàn
bộ hệ thống tư tưởng của đạo Phật. Chân như là như
như và đừng có hiểu lộn thành như nhau hay như một. Khi
người ta nói đến “Vô dị tướng“, thì có thể tưởng
rằng các dị tướng bị biến thành vô sở tri hay vô sở
hữu, để bộc lộ cái tướng như một của chúng. Nhưng cái
mà các hành giả Bát-nhã muốn nói là những cái được thấu
hiểu trong những tương quan chân thực của chúng, không chỉ
tương quan giữa cái này với cái kia mà tương quan với lý
tính hiện hữu của chúng.
Kinh
Bát-nhã có một đoạn dành cho Tu-bồ-đề (Subhūti) luận về
Như Lai Tùy sinh (tathāgata-anujāta).[101] Tùy sinh (anujāta) có
nghĩa, “sinh sau” hay “được sinh ra tùy theo.” Chính Tu-bồ-đề
(Subhūti), người nói triết học Bát-nhã, sinh ra sau Như Lai,
tức em ruột của Như Lai, hay nói đúng hơn, Tu-bồ-đề được
sinh ra tùy theo tự tướng của Như Lai. Đó là một trong các
đoạn quan trọng nhất của Bát-nhã, nhất là khi xét tới
liên hệ với giáo nghĩa Chân như.
Như
Lai (Tathāgata) thông thường được coi như là một biệt hiệu
của Phật, nghĩa đen hoặc “vị đến như thế” hoặc “vị
đi như thế.” Điểm quan trọng ở đây là ý nghĩa của chữ
Như (tathā) hơn là Lai (agata, đến hay gata, đi); hình như là
tác giả của kinh Bát-nhã nhấn mạnh trên chữ tathā coi đó
là chìa khóa để hiểu giáo pháp tathatā (Chân như) hay yathābhūtam
(Như thực). Khi ông nói tới Chân như của Như Lai (tathāgata-tathatā),
ông muốn nói lý tính, căn nguyên, hay lý tắc cho sự xuất
hiện khả hữu của Như Lai trong thế gian. Vì vậy, Tu-bồ-đề
mà được sinh ra sau (anujāta) Chân như của Như Lai, thì có
nghĩa là Tu-bồ-đề và Như Lai cùng đến từ bào thai vũ trụ
mà kinh Lăng già (laṅkāvatara) và các kinh Phật khác gọi là
Như lai tạng (tathāgatagarbha). Với giải thích sơ khởi này,
đoạn dưới đây nói về Tùy sinh (anujāta) và Như Lai (tathāgata)
sẽ trở nên dễ hiểu hơn.
“Khi
nói Tu-bồ-đề sinh ra sau Như Lai, nói thế có nghĩa như vầy:
Như của Như Lai là Như của Tu-bồ-đề, Như như không hai
không khác, vì Chân như là một trong hết thảy các loại hữu
tình và ở đây không hai tướng, không phân biệt, không phân
đôi; trong tất cả Chân như không có đến và cũng không có
đi vì bản lai vô sinh; chúng không chỗ trụ nơi chúng thường
trụ như là những pháp sai biệt; chúng là vô tác, vì có nghĩa
rằng chúng không phải là sở tri như là đang hoạt dụng trong
một phương thế quyết định nào đó để biểu lộ những
tự tướng sai biệt của chúng; thế nhưng chúng cũng không
phải là thường tịch và vô sở tác; chúng luôn luôn Như
như trong tất cả mọi xứ sở, trong tất cả mọi thời gian,
trong tất cả mọi cảnh giới, trong tất cả mọi tụ tập
nhân duyên; trong chúng không từng có quá khứ, không từng
có hiện tại, không từng có vị lai mặc dù chúng hữu tình
được coi như đang hiện hữu, tồn tại và biến mất; chúng
không lệ thuộc sự phân biệt, không sắc tướng sai biệt,
là bất khả đắc; và sau hết dù với những phẩm tính đó
chúng vẫn xuất hiện như là những thực tại, có thể được
định danh, được định nghĩa và được phân biệt, mặc
dù như thế chúng không còn là Chân như nữa. Vì những lý
do đó, Chân như của Tu-bồ-đề là Chân như của Như Lai,
và Chân như của Như Lai là Chân như của hết thảy các pháp,
cả hai không hai không khác. Chân như nhất như biểu hiện
ở đây, nhưng ngay khi nói về Chân như như thế, Chân như
không còn là Chân như nữa. Chân như chỉ là giả danh, nhưng
nếu không có giả danh đó thì không có Như Lai, không có Tu-bồ-đề,
không có Phật, không có A-la-hán không có các loại hữu tình.
Duy chỉ Như Lai mới thấu triệt như thế, không một chúng
sanh nào có thể nắm nổi lý này. Tu-bồ-đề, vì Ngài thấu
hiểu, nên có thể diễn nói những huyền diệu sâu xa của
Bát-nhã ba-la-mật-đa, và vì lý do đó, Ngài là Tùy sinh của
Như Lai.”
Thêm
nữa, chúng ta đọc trong chương XVII, “Tướng Bất thối chuyển
của Bồ-tát”:[102]
“Phật
tử hành đạo trải qua các giai đoạn khác nhau của tâm linh,[103]
nhưng trong tự tính Chân như chúng không hai khác, không phân
biệt. Bồ-tát từ Chân như nhất tướng đó mà có thể nhập
vào Pháp tính (nói gọn: Chân lý). Sau khi nhập vào Pháp tính,
ở đó cũng không sinh ra phân biệt. Dù khi nghe những giáo
pháp khác, Bồ-tát cũng không hủy báng, vì biết rằng có
nhiều pháp môn sai khác dẫn vào pháp tính. Dù khi nghe những
danh tướng và ngôn thuyết, Bồ-tát cũng không sinh nghi hoặc
đối với công năng thù thắng của Chân như mà Ngài đang
hộ trì trong mình.”
Một
trong những hoạt dụng của Bát-nhã, vậy thì, chính là tri
nhận các pháp Như thực hay thấy Chân như tướng của chúng.
Trong Chân như đó, thấy rằng hết thảy mọi loài, mọi sự
hữu, không bị nhiễm ô, do đó chúng là một với chư Phật
và trong phương diện đặc biệt này có thể được gọi là
chư Như Lai. Vì tất cả là một như thế, nên tất cả cùng
là anh em (anujāta: tùy sinh) với nhau, kể cả chư Phật và
Bồ-tát. Cái thai mẹ sinh ra hết thảy những anh em này đích
danh là Như lai tạng (tathāgatagarbha). Vai trò làm mẹ của
Bát-nhã ở đây rõ ràng hơn bao giờ hết, và ý nghĩa đó
thường được dùng để tán dương Bát-nhã càng là tự nhiên.
6.
Bát-nhã và Tính Không.
Kinh
Bát-nhã thông thường được coi như chỉ giảng riêng triết
học về tính Không. Đa số, kể các học giả đạo Phật,
thừa nhận quan điểm này, nhưng đối với nghĩa của tính
Không hình như họ không có một khái niệm nào cho sáng sủa.
Bởi vì học Bát-nhã có nghĩa là nhìn vạn hữu trong Như tướng
và Không tính của chúng, ở đây tôi xin đưa ra một ít nhận
xét về giáo nghĩa tính Không.
Trong
bản dịch Đại Bát-nhã của Huyền Trang, có kể đến 18 hình
thức của Không,[104] và chúng được giải thích kỹ trong
luận Đại trí độ của Long Thọ (Nāgārjuna).[105] Thực ra
lối liệt kê này nói đến khá nhiều ngã đường khác nhau
quyết định dẫn tới ý niệm về Không. Mười tám con đường
diễn tả Không như sau:
(1)
Nội Không (adhyātmā-śūnyatā), Không của các pháp nội tại.
(2) Ngoại Không (bahirdhā-śūnyatā) Không của các pháp ngoại
tại. (3) Nội ngoại Không (adhyātmā-bahirdhā-śūnyatā), Không
của các pháp nội ngoại tại. (4) Không Không (śūnyatā-śūnyatā),
Không của Không. (5) Đại Không (mahā-śūnyatā), Không lớn.
(6)
Đệ nhất nghĩa Không (paramārtha-śūnyatā), Không của chân
lý cứu cánh. (7) Hữu vi Không (Saṁskṛta-śūnyatā), Không
của các pháp hữu vi. (8) Vô vi Không (asaṁskṛta-śūnyatā),
Không của các pháp vô vi. (9) Tất cánh Không (atyanta-śūnyatā),
Không tối hậu. (10) Vô tế Không (anavarāgra-śūnyatā), Không
không biên tế. (11) Tán Không (anavakāra-śūnyatā), Không của
sự phân tán. (12) Bản tính Không (prakṛti-śūnyatā), Không
của bản tính (tự nhiên tính. (13) Tự tướng Không (svalakṣaṇa-śūnyatā),
Không của tự tướng. (14) Nhất thiết pháp Không (sarvadharma-śūnyatā),
Không của vạn hữu. (15) Bất khả đắc Không (anupalambha-śūnyatā),
Không của cái bất khả đắc. (16) Vô tính Không (abhāva-śūnyatā)
Không của vô thể (cái không tồn tại). (17) Tự tính Không
(svabāva-śūnyatā), Không của tự tính. (18) Vô tính tự tính
Không (abhāva-svabhāva-śūnyatā), Không của vô thể của tự
tính (tự tính của cái khong tồn tại.[106]
1.
“Nội” chỉ cho sáu thức (vijñāna). Khi chúng được nói
là Không, có nghĩa tất cả những hoạt động tâm lý của
chúng ta không có thần ngã hay tự ngã linh hồn nằm ở sau,
như chúng ta ai cũng tưởng vậy. Đây là một lối nói khác
của chủ trương thuyết Vô ngã (anātman hay anatta).
2.
“Ngoại” là các đối tượng của sáu thức, tính Không
của chúng có nghĩa không có những bản trụ (hay bản thể)
của ngã chủ tể nằm ở sau. Cũng như không có tự ngã (ātman)
nơi hậu trường của các hiện tượng tâm lý, cũng vậy,
không có tự ngã (anātman) nơi hậu trường của ngoại giới.
Thuật ngữ gọi đó là “pháp vô ngã.” Phật giáo nguyên
thủy dạy cho chúng ta thuyết Vô ngã (Anātman), nhưng người
ta nói chính các nhà Đại thừa mới áp dụng thuyết đó luôn
cho các đối tượng ngoại giới.
3.
Thông thường chúng ta phân biệt ngoại với nội, nhưng vì
không có thực tại cho sự phân biệt này nên ở đây nó bị
phủ nhận; phân biệt này chỉ là một hình thái của vọng
tâm, mối quan hệ có thể bị đảo lộn bất cứ lúc nào,
ở đây không có tính thường trụ bất biến. Thử thay đổi
vị trí, cái nội thành ra ngoại và cái ngoại là nội. Quan
hệ này, đây gọi là Không.
4.
Khi các pháp ngoại và nội được tuyên bố tất cả là Không,
chúng ta tất đi đến nhận thức rằng Không vẫn là một
ý tưởng có thực, hay chỉ có cái đó mới là cái khả đắc
khách quan. Không của Không cốt hủy diệt chấp trước ấy.
Còn giữ một ý tưởng Không tức còn lưu lại một hạt bụi
khi đã tạo thành tất cả.[107]
5.
“Không lớn” (đại không) chỉ cho tính bất thực của không
gian. Thời trước coi không gian là cái có thực một cách khách
quan, nhưng đến các nhà Đại thừa, nó là Không. Các vật
trong không gian lệ thuộc các định luật của sinh tử, tức
bị điều động bởi nhân quả; tất cả mọi người theo
đạo Phật đều nhận điều đó; nhưng họ nghĩ không gian
trong tự thể là thường trụ. Các nhà Đại thừa dạy rằng
khoảng chân không bao la này cũng không có thực tại khách
quan nên ý tưởng về không gian hay trương độ chỉ là ảo
tưởng.
6.
“Chân lý cứu cánh” (Đệ nhất nghĩa)[108] chỉ cho chân
thể của vạn hữu, trạng thái tồn tại chân thực của chúng,
ngoài tất cả hình thái của chủ quan tính. Đây là cái không
bị hủy diệt, không bị gán cho là thế này hay là thế kia,
cũng không thứ gì có thể gán vào đó. Vì vậy, chân lý cứu
cánh (Đệ nhất nghĩa) là Không. Nếu là có thực, nó là một
trong những đối tượng bị chi phối và bị ràng buộc vào
định luật nhân quả. Niết-bàn chỉ là một danh tự nói
khác. Khi Niết-bàn có chỗ để cho bám được, nó sẽ không
là Niết-bàn nữa. Sẽ thấy Không được dùng ở đây có
nghĩa hơi khác với ở số 3, khi những đối tượng nội hay
ngoại được tuyên bố là Không.
7 và
8. Có thể luận chung cả hai. Hữu vi (saṁskṛta) chỉ có những
pháp xuất hiện do các điều kiện của tác thành. Vô vi (asaṁskṛta)
là những pháp không lệ thuộc tác thành, như không gian chẳng
hạn. Nói hữu vi Không là một cách nói khác chỉ cho thế
giới ngoại tại cũng như thế giới nội tại đều Không.
Hiện hữu đôi khi được chia thành hữu vi và vô vi, đôi
khi được chia thành nội và ngoại, đôi khi được chia thành
năm uẩn (skandha), v.v…, theo các quan điểm cần thiết cho
quá trình suy luận. Tuy nhiên, tất cả những phân biệt này
chỉ là tương đối và không có khách thể tính tương đương,
và do đó, là Không. Vô vi hiện hữu, vì đối lại với hữu
vi. Nếu hữu vi không thực có, vô vi cũng không luôn. Cả hai
chỉ là giả danh, là Không.
9.
Chỗ này nhấn mạnh ý niệm tất cả các pháp đều Không
một cách tuyệt đối. “Tất cánh“ tức “Tuyệt đối.”[109]
Phủ nhận thực tại tính khách quan nơi tất cả các pháp
ở đây được chủ trương một cách đương nhiên, không điều
kiện thắc mắc. “Không của Không”, trên thực tiễn, cũng
chỉ cho một cái như nhau. Phòng được quét sạch là nhờ
chổi; nhưng nếu còn chổi thì không phải là Không tuyệt
đối. Quả vậy, phải gạt sang một bên cái chổi, cùng với
người quét, mới mong đạt tới ý niệm về Tất cánh Không
(atyanta-śūnyatā). Còn giữ lại dù chỉ một pháp, một vật
hay một người, là còn có điểm chấp để từ đó sản xuất
một thế giới của những sai biệt rồi kéo theo những ước
muốn và đau khổ. Tính Không vượt ngoài mọi quyết định
tính có thể có, vượt ngoài chuỗi quan hệ bất tận; đó
là Niết-bàn.
10.
Khi nói hiện hữu là vô thủy, người ta nghĩ rằng có một
cái như là vô thủy, và bám vào ý niệm này. Để loại bỏ
chấp trước ấy, mới nêu lên tính Không của nó. Tri kiến
của con người lắc lư giữa hai đối cực. Khi ý niệm về
hữu thủy bị dẹp bỏ, ý niệm về vô thủy đến thay, mà
sự thực chúng chỉ là tương đối. Chân lý lớn của Không
phải ở trên tất cả những đối nghịch này, nhưng không
phải ở ngoài chúng. Vì vậy, kinh Bát-nhã dốc sức khai thông
con đường giữa dù vậy vẫn không đứng y ở đó; vì nếu
thế, hết còn là con đường giữa. Giáo nghĩa tính Không như
vậy phải được minh giải từ quan điểm rất thận trọng.
11.
Không có thứ gì hoàn toàn đơn nhất trong thế gian này. Mọi
vật cuối cùng phải tiến đến chỗ phân tán. Nó hiện hữu
coi chừng như một đơn tố, nguyên dạng, nguyên thể, nhưng
ở đây không thứ gì lại không thể phân chiết thành những
bộ phận thành tố. Chắc chắn nó bị phân tán. Các thứ
nằm trong thế giới của tư tưởng có vẻ như không bị tiêu
giải. Nhưng ở đây sự biến đổi hiện ra dưới một hình
thức khác. Thời gian gây tác động, không có tính vĩnh cửu
nào ngự trị. Bốn uẩn – thọ, tưởng, hành và thức –
cũng chỉ cho sự phân tán và hoại diệt tận cùng. Nói gì
đi nữa, chúng cũng là Không.
12.
Prakṛti (bản tính) là cái làm cho lửa nóng và nước lạnh,
nó là bản chất nguyên sơ của mỗi vật thể cá biệt. Khi
nói rằng nó Không, có nghĩa không có tự ngã (ātman) bên trong
nó để tạo ra bản chất nguyên sơ của nó, và ý niệm đích
thực về bản chất nguyên sơ là một ý niệm Không. Chúng
ta đã ghi nhận rằng không có tự ngã cá biệt nơi hậu cứ
của cái chúng ta coi như vật thể cá biệt, bởi vì vạn hữu
là những sản phẩm của vô số nhân và duyên, và chẳng có
gì đáng gọi một bản chất nguyên sơ nó độc lập, đơn
độc, tự hữu. Tất cả là Không triệt để, và nếu có
thứ bản chất nguyên sơ nào đó, thì có cách nào cũng vẫn
là Không.
13.
Lakṣaṇa (tướng) là phương diện khả tri của mỗi vật
thể cá biệt. Trong vài trường hợp, lakṣaṇa không khác
với bản chất nguyên sơ, chúng liên kết bất phân. Bản chất
của lửa có thể biết qua cái nóng của nó, và bản chất
của nước qua cái lạnh của nó. Một nhà sư thì hiện bản
chất cố hữu của ông ta qua việc tu trì các giới cấm, còn
cái đầu cạo và chiếc áo bá nạp là tướng dạng riêng
của ông ta. Kinh Bát-nhã nói với chúng ta rằng, những khía
cạnh ngoại hiện, khả tri, của hết thảy mọi vật là Không
vì chúng là những giả tướng kết quả do nhiều tập hợp
của các nhân và các duyên; vì tương đối nên chúng không
có thực. Do đó, Tự tướng Không, có nghĩa rằng mỗi vật
thể riêng biệt không có những bản sắc thường hằng và
bất hoại nào đáng gọi là của riêng.
14.
Thừa nhận tất cả các pháp (sarvadharma) là Không, cái đó
hết sức bao quát, vì chữ pháp (dharma) không chỉ riêng cho
một đối tượng của cảm quan mà còn chỉ cho cả đối tượng
của tư tưởng. Khi tuyên bố tất cả những thứ đó là Không,
khỏi cần bàn luận chi tiết gì nữa. Nhưng kinh Bát-nhã hiển
nhiên cố ý không để nguyên trạng tảng đá để đè nặng
những người học Bát-nhã một cách triệt để bằng giáo
nghĩa tính Không. Theo Long Thọ, tất cả các pháp đều mang
các đặc tính này:[110] Hữu tướng, tri tướng, thức tướng,
duyên tướng, tăng thượng tướng, nhân tướng, quả tướng,
tổng tướng, biệt tướng, y tướng. Nhưng hết thảy những
tướng đó không có thường trụ bất biến; tất cả đều
là đối đãi và giả hữu. Người ngu không thể soi tỏ vào
bản chất chân thực của các pháp, do đó trở nên chấp thủ
ý niệm về một thực tại thường, lạc, ngã, tịnh. Khôn
ngoan đơn giản có nghĩa là thoát khỏi những quan điểm tà
vạy đó, vì chẳng có gì trong chúng đáng được nắm giữ
mà không phải là Không.
15.
Đây là loại Không Bất khả đắc (anupalambha). Không phải
vì tâm không bắt được cái ở ngoài tầm tay, nhưng đích
thực chẳng có gì đáng gọi là sở tri. Không, gợi ý không
có, nhưng khi được khoác cho đặc tính bất khả đắc, nó
không còn là phủ định suông. Bất khả đắc, chính bởi
không thể làm đối tượng cho tư niệm đối đãi qua tác
dụng của thức (vijñāna). Khi thức được nâng lên để thành
trí (prajñā), bấy giờ cái “Không Bất khả đắc” được
nhận ra. Kinh Bát-nhã e rằng người nghe phải kinh hãi khi nghe
kinh đưa ra khẳng quyết táo bạo rằng tất cả đều là rỗng
không, nên kinh nói thêm rằng sự vắng mặt của những ý
tưởng sinh ra từ chỗ đối đãi không chỉ cho cái ngoan không,
cái không trống trơn; nhưng đơn giản, đó là cái Không không
thể bắt nắm được.
Với
người trí, Không này là một thực tại. Lúc sư tử cất
tiếng rống, những thú vật khác hoảng sợ, tưởng tiếng
rống ấy là cái rất phi phàm, gần như một thứ mà chúa
tể sơn lâm “đạt được” rất hi hữu. Nhưng đối với
sư tử, tiếng rống đó chẳng kỳ lạ gì, chẳng có hi hữu
đạt được hay thêm vào. Với kẻ trí cũng vậy, không có
“cái rỗng không” trong họ đáng coi như riêng họ bắt được
làm đối tượng cho tư tưởng. Chỗ sở đắc của họ là
vô sở đắc.
16.17
và 18. Những loại này có thể luận chung. Ở đây hiện hữu
được nhìn từ quan điểm hữu (astitva) và phi hữu (nāstitva);
cả hai, đứng riêng biệt hay tương đối, đều được nói
là Không.
Vô
tính (abhāva) là phủ định của hữu, cùng một nghĩa với
Không. Tự tính (svabhāva) có nghĩa “nó là nó”, nhưng không
có cái Nó nào như thế, cho nên Không. Vậy thì, đối nghịch
của hữu và phi hữu là thực chăng? Không; nó cũng không luôn,
vì mỗi phần tử trong đối lập vốn là Không.
Tôi
tưởng, ý nghĩa đích thực của “Không” đã được làm
sáng tỏ bằng những giải thích cặn kẽ đó. Đừng có lẫn
lộn Không với không chi; cũng đừng tưởng rằng có một
đối tượng của tư tưởng được gọi là Không, vì ý tưởng
này đi ngược hẳn với bản chất đích thực của Không.
Chớ nên xác định nó như là tương đối tính, như một số
học giả quan niệm. Chính kinh Bát-nhã dạy rằng các pháp
hiện hữu tương quan liên hệ như là những kết quả của
những tập hợp duyên sinh và do đó chúng là Không. Nhưng vì
lý do này chúng ta không thể bảo rằng tương đối tính và
tính Không đồng nghĩa nhau. Sự thực, nói rằng tất cả mọi
cái đều tương đối là một chuyện, nhưng nói chúng là Không
là một chuyện khác hẳn. Không, là thành quả của trực giác
chứ không phải hậu quả của suy luận, mặc dù ở đây dùng
chữ “do đó” để suy ra hiệu quả này. Ý niệm về tính
Không phát khởi từ kinh nghiệm và để đặt cho nó một cơ
sở luận lý, nên mới đặt tiền đề là tương đối tính.
Nhưng, nói nghiêm chỉnh theo luận lý, có một hố ngăn giữa
tương đối tính và tính Không. Tương đối tính không tạo
cho chúng ta một bước nhảy vượt qua hố ngăn: nếu còn dừng
lại ở tương đối tính, chúng ta vẫn còn quanh quẩn trong
một vòng tròn: nếu nhận ra rằng chúng ta đang ở trong một
vòng tròn và do đó phải bước ra khỏi để thấy nó toàn
diện, bây giờ chúng ta mới nhận ra cần phải vượt qua nó
tức khắc. Bất cứ lúc nào chúng ta nói tới tương đối
tính, thì tính Không hiện diện ngay lúc đó. Từ tính Không
chúng ta vượt qua tương đối tính, nhưng không có trường
hợp ngược lại. Phân tích này khá quan trọng cho việc thấu
hiểu nền triết lý Bát-nhã. Chính Trí Bát-nhã soi thấy tất
cả những hàm ngụ của tính Không, chứ thức hay vijñāna
không làm được, và chỉ những kẻ trí mới mở ra con mắt
Trí Bát-nhã để thấy chân lý của tính Không. Nếu hệ thống
Đại thừa được xây dựng trên ý niệm về tương đối
tính, sứ mệnh của nó hẳn không bao giờ đáp ứng những
gì mà chúng ta thấy trong lịch sử của nó ở Ấn độ, Trung
hoa, và vân vân. Giáo nghĩa tính Không đã làm nên những điều
kỳ diệu trong đời sống của các dân tộc Viễn đông, đó
là một minh chứng không thể chối cãi cho trực kiến sâu
xa của nó soi tận hố thẳm ý thức nhân loại.
Vì
những lý do đó, tính Không được gọi là Bất khả đắc
(anupalabdha) hay bất khả tư (acintya), đồng thời cho thấy
nó không phải là một khái niệm được lồng vào trong bất
cứ phạm trù nào của luận lý. Nó đồng nghĩa với Chân
như (tathatā). Chân như hay tính Không như thế đích thực là
đối tượng học hỏi của các Bồ-tát.
7.
Bát-nhã và Như Huyễn
Một
trong những thí dụ lừng danh được các nhà triết học Bát-nhã
sử dụng khi họ muốn gây cho chúng ta một ấn tượng về
học thuyết tính Không, đó là Như Huyễn (māyā). Các luận
sư khác thường gọi họ là những nhà Thuyết huyễn (māyāvādin).
Như Huyễn có nghĩa là gì? Xin trích một vài đoạn để thấy
ý nghĩa Như Huyễn.
- Phật
hỏi Tu-bồ-đề: “Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao, huyễn
(māyā) khác sắc (rūpa),[111] sắc khác huyễn? Lại nữa, ý
ông nghĩ sao, huyễn khác thọ (vedanā), tưởng (saṁjñā), hành
(saṁskāra), thức (vijñāna)? Thọ, tưởng, hành, thức khác
huyễn?”
|