|
II
TÔN GIÁO CỦA BÁT-NHÃ
1.
Môi trường hoạt dụng của Bát-nhã.
2.
Upāya, Phương tiện Thiện xảo.
3.
Bồ-tát và Thanh văn.
4.
Quán Không bất chứng.
5.
Một vài Đối nghịch quan trọng.
a.
Bát-nhã trí hay Nhất thiết trí đối Đại bi hay Phương tiện.
b
Tu Thiền định (dhyāna) không thọ quả Thiền.
c.
Bồ-tát đối Thanh văn.
d.
Thực đối huyễn.
e.
Bát-nhã đối phân biệt |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
.
Viện
Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang
THIỀN VÀ BÁT
NHÃ
Daisetz
Teitaro Suzuki - Bản dịch Việt: TUỆ SỸ
Ban
Tu Thư Phật Học 2548 - 2004
|
|
II
TÔN GIÁO CỦA BÁT-NHÃ
1.
Môi trường hoạt dụng của Bát-nhã
Có
thể nói Bát-nhã đứng trên đường thẳng chia tồn sinh thành
hai mặt tuyệt đối và tương đối. Đây là một đường
thẳng hình học vừa vạch ra giới hạn, đồng thời không
có chiều kích. Dù vậy, chúng ta cũng đừng cho rằng Bát-nhã
như đang nhìn mặt này hay mặt nọ khi nó muốn chiêm nghiệm
hai lãnh vực của tồn sinh. Nếu Bát-nhã chỉ kể riêng Không
(śūnyatā) mà không Bất Không (aśūnyatā), hoặc riêng Bất
Không mà không Không, sẽ hết còn là Bát-nhã. Để biểu tượng
sự kiện đó, các thần linh Ấn độ được vẽ thêm một
con mắt vạch đứng giữa hai con mắt bình thường. Đây là
con mắt Bát-nhã – Tuệ nhãn. Nhờ con mắt thứ ba này mà
bậc giác ngộ có thể trực nhận Thực tại Như thực (yathābhūta),
không xẻ nó ra làm đôi để rồi hợp nhất chúng, vì phân
đôi và hợp nhất là công tác suy tư trừu tượng. Tuệ nhãn,
khi lập cước trên giới tuyến giữa Nhất thể và Đa thù,
giữa Không và Bất Không, giữa Bồ đề và Phiền não, giữa
Trí và Bi, giữa Phật và Chúng sinh, giữa Giác ngộ và Vô
minh, giữa Chính định và Nghiệp, rọi thẳng vào hai thế
giới đó coi như là một Thực tại duy nhất. “Trí Bát-nhã
không ở bên này hay bên kia, cũng không ở quãng giữa; khi
lệ thuộc phân biệt, Bát-nhã bị xa lìa, Bát-nhã không còn
đó nữa.”[156]
Trí
năng tượng hình Bát-nhã như đang ngồi dang chân trên hai lãnh
vực của hiện hữu, nhưng nếu Bát-nhã thực thụ được
xét đến, nó không lưu tâm về lối phân chia như thế, nó
dong duỗi theo kinh nghiệm riêng của chính nó. Tính Không không
hình dung như là tách biệt với Luân hồi (saṁsāra), và Luân
hồi không khác với tính Không. Khi Bát-nhã lộ diện, tính
Không và Luân hồi cùng được kéo lên trong một đường dây.
Cho đến đây, chúng đã nói quá nhiều trừu tượng, Bát-nhã
bị tô màu quá nhạt, và kết quả là chúng ta gán cho toàn
diện vũ trụ một khuôn mặt quá hờ hững – có lẽ thế
vẫn chưa đủ thỏa mãn những yêu sách của trái tim chúng
ta. Khi phong cảnh được vẽ bằng một điểm Không (śūnyatā)
mà chẳng còn gì là núi, là sông, là hốc đá, là hoa cúc,
v.v.. trong tấm lụa vũ trụ. Nếu trường hợp xảy ra như
thế, lỗi ở tại chúng ta, không phải ở Bát-nhã.
Khi
muốn cho các ý tưởng trở thành dễ lãnh hội hơn, chúng
ta thường phiên chuyển chúng thành những quan hệ không gian.
Và rồi chúng ta coi những quan hệ này là những thực tại,
quên rằng những tượng hình không gian là những biểu tượng.
Nắn nót các biểu tượng mô phỏng không giống như nắm nguyên
bản của nó. Phải gỡ Bát-nhã ra khỏi mớ cấu kết trơ
lì bất động này. Không được phép cắt rời cõi Không ra
khỏi thế giới vạn tượng; vì cắt rời chỉ là để dễ
dãi cho trí năng phân tích. Khi nó đã làm xong vai trò hữu
ích của nó, nên gác nó sang một bên càng sớm càng hay. Một
trong những lý do tại sao kinh Bát-nhã thường lặp đi lặp
lại, là cốt gây cho độc giả ấn tượng rằng tính Không
không phải là một cái trừu tượng; nó là kinh nghiệm, hay
là một hành vi hoạt động ở nơi không có không gian thời
gian. Khi tuyên bố rằng tính Không và hết thảy mọi thứ
khác chỉ là giả danh, nó phải được lãnh hội đúng mức
như thế.
Thêm
nữa, hết thảy mọi hoạt động nhân sinh, tâm lý và vật
lý, đều được diễn ra trong thời gian; hay ít ra, khi chúng
ta cố miêu tả chúng, tất cả đều được lồng trong khung
thời gian. Ngay khi chúng ta nói tới vĩnh cửu hay vô thủy,
ý niệm đó vẫn lấy thời gian làm hậu cứ. Rất khó mà
thải loại cái hình thái tư tưởng ấy, nhất là trong trường
hợp muốn thấu hiểu chính xác Bát-nhã. Vấn đề dưới đây
chắc chắn gợi lên từ khái niệm cho rằng Bát-nhã hay Giác
ngộ là con đẻ của thời gian, trong khi thực tình thời gian
dấy lên từ sự thức tỉnh của Bát-nhã, và Bát-nhã ở đâu
thì ở đó chẳng có thời gian hay không gian.
“Tu-bồ-đề:
Chính đẳng Chính giác được chứng đắc do phát khởi tâm
niệm đi trước hay do phát khởi tâm niệm đi sau? Nếu do tâm
trước, tâm này không đồng hành với tâm sau. Nếu do tâm
sau, tâm này không đồng hành với tâm trước. Vậy, lúc nào
cả hai tâm đồng hành, làm sao để có thể tăng trưởng công
đức? [Và làm sao để chứng đắc Chính đẳng Chính giác?]”[157]
Theo
ngài Tu-bồ-đề, cái mà chúng gọi là tâm, là một chuỗi
tiếp nối của các tư tưởng; người ta có thể cắt ra làm
nhiều tâm niệm và phối trí vào trong hình thái thời gian,
tức trong những hạn cuộc trước và sau. Khi cho rằng các
tư tưởng tiếp nối nhau trong tiến trình thời gian, cái gì
nối liền hai tâm niệm lại cho chúng có thể đồng hành (samavahita)
với nhau? Nếu không đồng hành, làm thế nào mà một tâm
niệm độc nhất về giác ngộ có thể được dựng lên để
chi phối toàn bộ liên tục của các tư tưởng mà theo định
nghĩa đó là tâm? Đó là tâm điểm trong câu hỏi của Tu-bồ-đề.
Phật
thí dụ bằng ngọn lửa. Ngài nói: Cháy không phải do ngọn
lửa trước hay ngọn lửa sau; cũng không phải tách riêng cả
hai ra. Cháy diễn ra suốt trong sự tiếp nối của các ngọn
lửa. Tự nó không có sự cháy. Nếu chia cắt thành từng ngọn
lửa, cũng không thể thấy có dòng tiếp nối của sự cháy.
Nhưng quả có sự cháy như thế thực. Khi kinh nghiệm được
miêu tả trong những giới hạn của sống và chết, của hiện
đến và mất đi, đi trước và theo sau, kinh nghiệm không còn
đó nữa, Chân như của vạn hữu vuột khỏi tầm bắt.
Như
thế, Bát-nhã thoát ly những nỗ lực của trí năng chúng ta
muốn ghi dấu nó trong khung cửi thời gian. Phải lật ngược
tiến trình nếu muốn hướng đi đúng đích. Thay vì đặt
nó nơi nào đó trong cơ đồ kiến trúc của tư tưởng chúng
ta; phải bắt đầu với chính Bát-nhã, lấy đó làm khởi
điểm cho tất cả mọi tư duy và hành động của chúng ta.
Toàn bộ kinh văn Bát-nhã ba-la-mật sẽ trở nên dễ hiểu.
Những tổ hợp thời không khởi lên từ Bát-nhã nhưng trong
Bát-nhã không có thời gian và không gian. Chúng ta thực sự
sống khi Bát-nhã thức tỉnh, và một thế giới thiên sai vạn
biệt tự vén mở trước các vấn đề của nó trước mắt
chúng ta.
Những
nhận định sơ khởi đó có lẽ sẽ giúp chúng ta bước sang
phần thứ hai của thiên luận này, trong đó sẽ thảo luận
về ý nghĩa của chữ Upāya trong thuật ngữ của các triết
gia Đại thừa.
2.
Upāya, Phương tiện Thiện xảo
Nếu
hạn cuộc tầm mắt của mình vào khía cạnh tuyệt đối của
Bát-nhã ba-la-mật, chúng ta dừng lại đây, không cách nào
tiến tới được. Trong trường hợp đó, Phật giáo Đại
thừa cũng không và Bồ-tát đạo cũng không có nốt. Nếu
hết thảy vạn hữu đều như huyễn (māyā), và nếu không
có thực tại gì hết nơi vạn hữu, người ta có thể bắt
bẻ rằng, làm thế nào Bồ-tát có thể tiến bước hướng
tới chỗ chứng đạt Nhất thiết trí (sarvajñatā)? Làm thế
nào để thiết lập được bản tính của Nhất thiết trí?
Làm thế nào để có thể hồi hướng công đức cho chứng
ngộ Nhất thiết trí? Đấy là những câu hỏi đương nhiên
phải được đặt ra với những ai lãnh hội Bát-nhã ba-la-mật
đóng khung trong khung khổ khái niệm thời gian. Xá-lợi-Phất
(Śāriputra) trả lời như sau:[158]
“Nếu
hết thảy các pháp không là như sự huyễn, và chúng có thực,
thì các Bồ-tát hoàn toàn không thể hồi hướng tới Nhất
thiết trí trí, không thể tiến bước hướng tới chỗ chứng
đắc giác ngộ. Chính bởi vì hết thảy các pháp không một
chút có thực, giống như sự huyễn, cho nên Bồ-tát có thể
hồi hướng công đức về chỗ thành tựu Nhất thiết trí
và tiến bước hướng tới chứng ngộ; chính vì Bồ-tát biết
rõ các pháp phi thực, như huyễn, cho nên mới có thể nỗ
lực kham năng, nỗ lực thực hành tinh tiến ba-la-mật không
mệt mỏi.”
Bởi
đâu có sự kham năng, có sự tinh cần không mỏi mệt đó?
“Do
bởi tác nghiệp của phương tiện thiện xảo (upāya-kauśalya),
sinh ra từ đại bi tâm của Bồ-tát đối với hết thảy chúng
sinh. Do phương tiện thiện xảo mà Bồ-tát biết hết thảy
các pháp đều là Không; và cũng do phương tiện thiện xảo
đó mà Bồ-tát không cố ý an trụ trong chân lý của tuyệt
đối tịch tĩnh.[159] Cũng như một người đang nắm chặt
trong đôi tay cái tàn lọng rộng lớn, đứng trên chóp đỉnh
núi cao. Y có thể nghiêng mình nhìn xuống hố thẳm hiểm tuyệt
bên dưới triền núi, không có ý nghĩ kinh khiếp, run sợ bị
chôn vùi trong lòng đất; vì y có tàn lọng trong tay, nhờ sức
gió giữ cho khỏi bị rơi xuống. Cũng vậy, do Bát-nhã soi
thấy tự tính của hết thảy các pháp, do tâm đại bi hộ
trì giữa đám quần sinh trong thế giới hỗn loạn này, Bồ-tát
tu tập tất cả các Ba-la-mật, lần hồi tiến tới Nhất thiết
trí, để rồi cuối cùng có thể giáo hóa thành tựu chúng
sinh, đem lại lợi ích và an lạc cho hết thảy chúng sinh,
và thiết lập quốc độ của Phật.”
“Phương
tiện thiện xảo” (upāyakauśalya), hay nói gọn, “phương
tiện” (upāya), có một ý nghĩa đặc biệt trong giáo pháp
của Đại thừa. Nó là sự sáng tạo của tâm đại bi mà
Bồ-tát sở hữu. Khi Bồ-tát thấy quần sinh trôi lăn trong
biển sống chết vì vô minh và phiền não mà bám chặt vào
thế giới sai biệt này, Bồ-tát phát khởi tấm lòng yêu thương
đối với chúng và thiết lập hết thảy mọi phương tiện
để cứu vớt chúng, giáo hóa thành tựu chúng cho đón nhận
chân lý rốt ráo. “Phương tiện” xuất phát từ tri kiến
minh hiển của Bồ-tát về đạo lý tính Không, mặc dù không
phải phát xuất từ chính tính Không. Tự thân của chân lý
bao giờ cũng vô lực; nó phải đi ngang qua tâm thức của Bồ-tát;
bởi vì hàng Nhị thừa, Thanh văn và Độc giác, không bận
tâm đến hạnh nguyện lợi tha. Họ tự mãn với kiến giải
biện biệt về chân lý, họ an trụ trong chân lý của tất
cánh tịch tĩnh, họ không phiêu lưu ra ngoài vỏ tự mãn. Do
đó, không có “phương tiện” gì ở nơi họ. “Phương tiện”
cùng ở chung với tuệ giác Bát-nhã trong tâm của Bồ-tát.
Nó gần như là trực kiến của trí năng, soi thấy bản tính
của vạn hữu là phi thực, là như huyễn, là “không”, nhưng
cái thấy của Bồ-tát vượt xa trực kiến đó, vượt xa trí
năng, vượt xa cái nhìn lạnh lùng ném vào thế giới điêu
linh thống khổ từ quan điểm tịch tĩnh tuyệt đối, hay an
lạc vĩnh cửu. Vì Bồ-tát nhận thấy thế giới sai biệt
vốn như huyễn, nên không bị đắm trước vào đó; nhưng
biết rằng thế gian đang ở ngay trước mắt đó, bởi vì
đó là môi trường thực thi tất cả các công hạnh của mình,
nghĩa là, nơi đó tất cả đám quần sinh vô minh và ngã ái
thực sự đang chịu thống khổ bức bách đến cùng cực.
Do đó Phương tiện phát Bát-nhã.
Chuỗi
dây nối kết Trí (prajñā), Bi (karuṇā) và Phương tiện (upāya)
quán xuyến tất cả các hệ thống của Đại thừa Phật giáo.
Sự nối kết này là sắc thái độc đáo của Đại thừa.
Cho nên kinh Bát-nhã nói:[160] “Sáu Ba-la-mật là bản sắc
của Đại thừa. Sáu Ba-la-mật được phát khởi tương ứng
với Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, lấy vô
sở đắc (anupalambha) làm phương tiện (upāya), tự xả bỏ
hết thảy những gì là sở hữu nội hay ngoại để hướng
dẫn hết thảy chúng sinh hướng tới Nhất thiết trí trí.
Và thiện căn do sự xả bỏ này không chỉ tự mình thực
hiện mà còn khuyên kẻ khác cùng thực hiện….”
Chủ
đề của Bát-nhã là phải chứng thực trí Bát-nhã trước
tất cả lý giải tinh thần của Đại thừa, lấy đó mà thiết
lập sinh hoạt của Bồ-tát (bodhisattvacaryā: Bồ-tát hạnh).
Khi tâm niệm (citta hay manasikāra) của Bồ-tát ngày và đêm
hoàn toàn tương ứng (pratiyukta) với Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát
là bậc đáng tôn kính (dakṣinīyata) của hết thảy chúng
sinh; vì đã phát khởi từ tâm biến mãn (maitrisahagatam cittam)
hướng đến hết thảy chúng sinh. Với trực kiến thấu suốt
rọi vào tự tính của Bát-nhã, Bồ-tát nhận thấy rằng hết
thảy chúng sinh đang bị buộc trói không tự chủ, tâm đại
bi (mahākaruṇā) trỗi dậy. Bằng con mắt huệ đã có như
thế, Bồ-tát nhận thấy hết thảy chúng sinh chịu thống
khổ vì ác nghiệp chúng đã tự tạo trong màng lưới tà kiến.
Ngài xúc động mãnh liệt trước những sự kiện này và quyết
chí làm thế nào để là một người hộ trì và là nơi nương
tựa cho thế gian, giải thoát thế gian ra khỏi ràng buộc của
vô minh và phiền não.[161]
Như
thế chúng ta có thể thấy rằng, có một mối quan hệ tất
yếu giữa Nhất thiết trí (sarvajñatā), Bát-nhã (prajñā),
Đại bi (karuṇā), Phương tiện (upāya) và Chính giác (sambodhi)
hay Giải thoát (mokṣa). Theo lý thuyết mà nói, Nhất thiết
trí là thành quả hay nội dung của Chính giác (sambodhi) vốn
được thể hiện bởi Bát-nhã; nhưng tự thân của Bát-nhã
thì không thể thành tựu một kết quả thực tiễn nào, nó
hoạt dụng ngang qua Phương tiện sinh ra từ Đại bi. Bát-nhã
phác họa những quan hệ này bằng các thí dụ như sau:[162]
“Này
Tu-bồ-đề; như một người vào biển, bỗng nhiên thuyền
bị đắm. Nếu y không nắm chặt lấy phao, một khúc gỗ hay
một tấm ván, chắc chắn y phải chết chìm trước khi vào
đến bờ. Tu-bồ-đề, cũng vậy, Bồ-tát có thể, đối với
Vô thượng Chính đẳng Chính giác (anuttara-samyak sambodhi), đã
có tín tâm, có nhẫn thọ, có hâm mộ, có khát khao, có kiến
giải, có thực hành, có hỉ, có lạc, có xả, có tinh tiến,
có tôn trọng, có thâm tâm, có tịnh tâm, không buông trôi,
không tán loạn. Tuy có đủ các công đức đó, Bồ-tát vẫn
không thể đạt tới Nhất thiết trí nếu không được hộ
niệm bởi Bát-nhã và Phương tiện. Bởi vì nhất định sẽ
bị thoái chuyển ở giữa đường sự nghiệp. ‘Giữa đường
sự nghiệp’ tức là Thanh văn thừa và Độc giác thừa. Thoái
chuyển tức là lạc mất dấu Nhất thiết trí.”
“Lại
nữa, như người giữa chặt phao, một khúc gỗ hay một tấm
ván khi thuyền bị đắm, y sẽ an toàn sang tới bờ bên kia.
Bồ-tát cũng vậy, bằng tất cả những công đức do có tín
tâm, có nhẫn thọ, v.v…, đối với Vô thượng Chính đẳng
Chính giác, được hộ trì bởi Bát-nhã và phương tiện; Bồ-tát
đó sẽ đạt tới Nhất thiết trí mà không bị thoái chuyển
giữa đường nơi Thanh văn thừa và Độc giác thừa.”
Cho
một thí dụ khác: Giả sử có một người 120 tuổi; vì bị
đủ mọi thứ bịnh hoạn bức bách, nên nằm yên trên giường
mà nhẫn nại chịu đựng đau đớn; y không cách nào mộng
tưởng được rằng có thể đứng dậy và đi chừng vài dặm
thôi, chứ đừng nói đến chuyện đi dài hơn. Bỗng có hai
người lực lưỡng đến đỡ y dậy, dìu y đi đến bất cứ
nơi nào ưa thích. Y đi theo họ. Mặc dù yếu đuối, cuối
cùng vẫn có thể đi đến đích.
Cũng
như vậy, dù có tín, có nhẫn, v.v… đối với Vô thượng
Chính đẳng Chính giác, Bồ-tát vẫn không thể sang tới bờ
bên kia Nhất thiết trí, nếu không được hộ trì bởi hai
người lực lưỡng, là Bát-nhã và Phương tiện; vì đó là
những kẻ hộ trì của Bồ-tát trong quá trình hành đạo hướng
đến đích của đời sống mình; nếu không có chúng, nhất
định Bồ-tát bị lùi lại giữa đường, và rơi vào trình
độ Thanh văn và Độc giác. “Tại sao? Vì đó là thực tính
của vạn hữu.”[163]
3.
Bồ-tát và Thanh văn
Như
đã từng nói ở trên, cái đặc sắc cho Bồ-tát khác biệt
Thanh văn (Śrāvaka) và Độc giác (Pratyekabuddha) là ở chỗ,
Bồ-tát chuyên hành cứu tế, về tâm linh cũng như vật chất,
cho hết thảy chúng sinh, còn Thanh văn và Độc giác hài lòng
với giác ngộ và giải thoát của riêng họ; họ thu mình trong
tư duy không dao động, không đi ra khỏi khung cửa kín của
mình, cho nên không thể thực hiện công trình cởi mở nghiệp,
vô minh và thống khổ cho đồng loại. Tinh thần vị kỷ đó
rất trái ngược với những động lực hy sinh xả kỷ của
Bồ-tát. Nói tới giác ngộ, Bồ-tát hay Thanh văn có thể cùng
một trật tự như nhau, nhưng Bồ-tát lúc nào cũng sẵn sàng
bước xuống khỏi vị trí cao đẳng của mình để lăn lộn
với các chúng sinh đang mê muội, ô nhiễm, nghiệp chướng,
sống đời sống của chúng, nếu có cơ hội làm lợi ích
cho chúng bằng cách này hay bằng cách khác. Do đó, Bồ-tát
thường hay từ giã cuộc đời của một nhà khổ tu, một
tăng sĩ, hay một ẩn sĩ, để ở trong thế gian, sống với
thế gian, chịu đựng những thống khổ của thế gian, mong
đưa thế gian đến chỗ giác ngộ cứu cánh. Sống trong thế
giới sai biệt đầy những phiền não, và tuân theo những định
luật chi phối thế gian (nghĩa là không mê muội nhân quả”),
đó là lối sống của Bồ-tát, đó là “được hộ trì bởi
Bát-nhã và Phương tiện”, Nhất thiết trí sinh ra từ chỗ
đó.
Vì
lý do này, chúng ta đọc thấy Bát-nhã lúc nào cũng nói rằng
động cơ thúc đẩy Bồ-tát thể nghiệm từ bên trong chính
mình giác ngộ tối thượng không phải là vì ích lợi riêng
tư mà vì hết thảy chúng sinh. Bồ-tát muốn dựng chúng dậy
khỏi ràng buộc của nghiệp và vô minh để cuối cùng chúng
an trụ trong Đại Bát-niết-bàn (parinirvāṇa). Đấy là công
trình hết sức gian nan, nhất là đối với Bồ-tát sống trong
cõi sống và chết (saṁsāra). Cho nên Bồ-tát được cảnh
giác là đừng xao lãng, đừng kinh sợ.
Khát
vọng của Bồ-tát là làm lợi ích thế gian (lokahita), đem
lại hạnh phúc cho thế gian (lokasukha), phát khởi tâm nguyện
đại bi vì thế gian (lokānukampā).
Do
đó, Bồ-tát khi thể nghiệm giác ngộ tối thượng, thệ nguyện
phải trở thành bậc đại thủ hộ cho thế gian, làm nơi qui
hướng cho thế gian, làm ngôi nhà trú ngụ cho thế gian, làm
con đường cùng đích cho thế gian, làm hòn đảo lớn, là
ngọn đèn lớn, làm người hướng đạo, và làm chỗ đến
chân thật cho thế gian.[164]
Như
thế thì, Bồ-tát không phải là một tâm hồn tiêu cực, lẫn
tránh, lúc nào cũng mong trốn khỏi thế gian tìm sự toàn thiện
và giác ngộ cho riêng mình. Ngài là một người cứu tế thế
gian hết sức hăng hái; tích cực hoạt động trên thế gian
bằng giao tiếp hăng hái để thành tựu kết quả mong ước.
Lòng tự nguyện của Bồ-tát là do phát khởi tâm bình đẳng
(samaṃ cittaṃ utpadya), không khởi tâm phân biệt (viṣamacitta,
tâm
bất bình đẳng) đối với hết thảy chúng sinh, giữ vững
tâm từ (maitracitta), tâm lợi ích (hitao), tâm thiện tri thức
(kalyāṇao), tâm không chướng ngại (nihatamānao), tâm khiêm
hạ (apratihatao), tâm không tổn não (avihethanāo), tâm bất
hại (avihimsāo). Bồ-tát cũng coi hết thảy chúng sinh như là
cha, như là mẹ, như là con cái.[165] Từ (maitrīo), bi (karuṇāo),
ai mẫn (anukampāo), và các từ khác, là những từ chúng ta
thường gặp trong tất cả các kinh Đại thừa. Vì đem các
tâm niệm đó mà đối đãi với hết thảy chúng sinh là một
ước nguyện (praṇidhāna) mà hết thảy các Bồ-tát phải
nhiệt tình hoài bão.
Đoạn
đối thoại dưới đây, giữa Mãn Từ Tử (Pūrṇamai-trāyanīputra)
và Xá-lợi-phất (Śariputra) trích trong Đại Bát-nhã,[166] cho
chúng ta ý niệm về lý do tại sao Bồ-tát khởi tâm thương
xót hướng đến hết thảy các loại hữu tình còn đang mê
muội. Trong tình cảm thương yêu đồng loại, không có tư
tưởng cống cao, ngã mạn, độc đoán; những thứ tạo cho
người ta tư cách cố chấp xa cách kẻ khác. Bồ-tát, dù khác
biệt Thanh văn, Độc giác, khác biệt môn học, động lực,
giới luật, thành đạt, và minh huệ, nhưng vẫn không có tâm
niệm cống cao. Bồ-tát không hề nảy ý nghĩ coi nhẹ kẻ
khác; giữ thái độ kính trọng đối với hết thảy chúng
sinh cũng như với Phật và Như Lai.
“Mãn
Từ Tử hỏi Xá-lợi-phất: Phải chăng Bồ-tát chỉ kính trọng
các Bồ-tát khác mà thôi, không kính trọng chúng sinh nào khác?”
“Xá-lợi-phất:
Bồ-tát phải kính trọng hết thảy chúng sinh cũng y như kính
trọng Như Lai. Bồ-tát phải kính trọng hết thảy các Bồ-tát
và hết thảy chúng sinh mà không phân biệt. Bởi vì Bồ-tát
phải học tập bồi dưỡng tình cảm khiêm cung và kính trọng
đối với hết thảy chúng sinh, không nhìn chúng bằng con mắt
ngạo mạn. Bồ-tát phải thực sự kính trọng chúng cũng y
như cử chỉ cung kính đối với các Như Lai.”
“Bồ-tát
nên nghĩ như thế này: Khi ta chứng đắc vô thượng chính
giác, ta sẽ giáo hóa hết thảy hữu tình bằng pháp yếu sâu
xa khiến chúng đoạn tuyệt những phiền não, chứng đắc
Niết-bàn, hay đạt cứu cánh an lạc của bồ-đề, hay hoàn
toàn giải thoát khỏi thống khổ của các con đường dữ.”
“Bồ-tát
như thế phải làm trỗi dậy tâm đại bi đối với hết thảy
chúng sinh, gìn giữ tâm mình không để mắc phải cống cao
ngã mạn, tự thị. Bồ-tát hãy suy nghĩ như thế này: Ta hãy
tu học hết thảy các phương tiện thiện xảo (upāyakauśalya)
để làm cho chúng sinh thể nghiệm Phật tính (buddhatā) trong
tự tính sâu thẳm nhất của mình. Nhờ thể nghiệm được
như thế, tất cả đều thành Phật, và ta sẽ bằng phương
tiện thiện xảo dẫn chúng đến chỗ thể nghiệm rốt ráo
này, dẫn dắt lên hàng địa vị Pháp Vương (Dharmarāja). Pháp
Vương là địa vị cao thượng nhất và tôn xưng nhất, vì
ở đây người ta trở thành là chủ tể của vạn pháp (dharma).”
“Do
đó, Bồ-tát hãy kính trọng hết thảy chúng sinh, hãy rải
tâm đại bi cùng khắp không phân biệt; vì Pháp thân của
Như Lai cùng khắp trong hết thảy pháp…”
4.
Quán Không bất chứng
Bây
giờ chúng ta biết rằng tập hợp Bát-nhã, Đại bi và Phương
tiện dựng lên công hạnh của Bồ-tát. Nhưng ở đây là chỗ
kỳ cùng căn để bí nhiệm của nhân sinh, nó sâu thẳm ngoài
mức thăm dò của trí năng. Tôi muốn nói cái bí nhiệm bao
hàm những mâu thuẫn mà các triết gia đã không sao hóa giải
được. Do đó, nỗ lực của tác giả của Bát-nhã là không
đề ra một mẫu mực luận lý cho các kinh nghiệm của mình,
mà chỉ kể lại chúng trong những từ hết sức giản dị
tùy khả năng. Nếu có sự tình tiềm ẩn trong những tường
thuật của ông, cái đó do bản chất tiềm ẩn của kinh nghiệm,
và bổn phận chúng ta là phải nỗ lực thấu triệt chúng
bằng cách nhìn thẳng vào những chỗ uyên áo nhất của tâm
thức riêng của mình. Nghĩa là, phải đọc Bát-nhã qua đời
sống và kinh nghiệm cá biệt của chúng ta, đừng đọc bằng
trí năng. Khi chúng ta cảnh giác những hoạt động của tâm
hồn mình, cảnh giác một cách khẩn thiết, thâm sâu và kiên
nhẫn chúng ta thấy kinh phơi bày nội dung của nó trước mắt.
Bất cứ khó khăn nào mà chúng ta đã gặp phải trước kia
đến đây sẽ hoàn toàn tiêu tan hết. Đây không còn những
ràng buộc rối rắm của luận lý, không còn những khúc mắc
khó hiểu của trí năng. Y như đang thấy rõ trái táo là trái
táo. Trái táo nằm trước mắt, thấy nó, cầm lấy nó, chúng
ta có thể ăn và thưởng thức vị ngọt của nó, tìm thấy
sự thỏa mãn hài lòng. Nhà hóa học, thực vật học, khoa
học y thuật, chuyên gia nông học v.v.., có thể tìm thấy nơi
trái táo nhiều vấn đề chưa giải quyết, nên vẫn tiếp
tục thảo luận, thí nghiệm. Nhưng một người thực tế của
thế gian hài lòng với tính hiện thực của sự vật mà y
tự mình xác chứng, không dựa vào bất cứ ai khác, không
theo một quá trình phân tích và trừu tượng nào, những thứ
luôn luôn cản trở tính chất trực thị của tri giác và tình
cảm.
Những
đoạn dưới đây, trích từ phẩm “Phương tiện” trong Bát
thiên tụng (aṣṭasāhasrikā), đầy những khúc mắc phức
tạp, bắt buộc phải vận dụng óc tưởng tượng của chúng
ta đến kỳ cùng mới mong vén mở nổi chúng. Tuy nhiên, vì
chúng dựng lên tinh thể của Bồ-tát hạnh, nên được trích
ra ở đây.
Phật
nói: “Nếu Bồ-tát muốn thực hành Bát-nhã ba-la-mật, hãy
quán (pratyavekṣitavyam). Hết thảy các pháp[167] là Không, phải
đem tâm không tán loạn (avikṣiptayā cittasantatyā) mà soi vào
tự tính của chúng. Tuy quán pháp tính Không như vậy, nhưng
không nên ở nơi đó mà thực chứng Không.”[168]
Theo
lề lối suy tư thông thường của chúng ta, tình trạng này
không thể có: nhìn vạn hữu là Không, an trụ trong Chính định
(samādhi) của tính Không, nhưng không thực chứng Không. Làm
thế nào có thể?
Phật
trả lời: “Khi Bồ-tát quán thấy (pratyavekṣate) rằng hết
thảy các pháp đều có đủ lý tính của Không; dù học Không
nhưng ở trong đó không lấy Không làm (đối tượng) chứng
nghiệm, vì biết rằng, đây chỉ là thời học, không phải
thời chứng.”[169] Như thế Bồ-tát dừng lại ngay trước
sát na gặt hái kết quả đích thực của Không tam-ma-địa
mà không toàn nhiên đắm mình giữa lòng tính Không. Được
hộ vệ bởi công năng của Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát khi
chứng Không không xao lãng thực hành các yếu tố giác ngộ
(các Bồ đề phần); và đã diệt tận tất cả các tham dục,
mà vẫn không trụ trong tịch diệt tuyệt đối. Chính bởi
lý do đó, Bồ-tát, khi thực hành môn giải thoát Không tam-ma-địa
(tức Chính quán về Không), mà không thủ chứng Không; khi
thực hành môn giải thoát Vô tướng tam-ma-địa (animittasamādhi)
mà không thủ chứng vô tướng, không trụ hữu tướng. Trí
tuệ sâu sắc, thiện căn đầy đủ, được hộ trì bởi Bát-nhã
ba-la-mật, Bồ-tát thấy rằng đời sống của mình lúc bấy
giờ là thời gian học, không phải là thời gian chứng. Như
thế, tuy quán Không mà không thủ chứng Thực tế (bhūtakoṭi).
Giải
thích đó hình như chưa đủ để gây xác tín nơi kẻ phàm
phu. Do đó, thí dụ sau đây, trong đó minh thị chí nguyện
và tri kiến của Bồ-tát.
Ở
đây, giả sử có một người hình nghi tuấn tú, sức lực
dũng mãnh, hăng hái và chuyên cần; với tư cách một chiến
sĩ, y thông thạo tất cả các nghệ thuật chiến đấu; với
tư cách một thân sĩ, y thông minh, đức hạnh, và lão luyện
trong mọi môi trường của cuộc sống; do thế y được hết
thảy những người quen biết ngưỡng mộ vô cùng. Một ngày
nọ, y có công vụ phải giao dịch ở một vùng xa; muốn đi
tới đây, phải vượt qua những khu rừng núi man dại, chỗ
ẩn thân của đám trộm cướp và bọn sống ngoài vòng pháp
luật. Cha mẹ, vợ, con và những kẻ tùy tùng đi theo y đều
sợ hãi một cuộc tấn công của đám trộm cướp hung hãn
kia. Nhưng y là một người đầy đủ trí và dũng, bảo họ
đừng mang những lo sợ đối với cuộc đi của mình, vì y
biết cách dùng cơ mưu thủ thắng bọn cường đạo đó và
đưa đồng bạn mình an toàn và ổn thỏa vượt qua núi rừng
và xuyên qua những chốn hoang dã. Họ cảm thấy thoải mái
với những lời đoan quyết của y. Cuối cùng họ qua khỏi
vùng hiểm tuyệt, và an nhiên tới đích. Đấy hoàn toàn là
do sự thông minh, tài trí, đởm lược cũng như quyết tâm
vô song của y.[170]
Cũng
vậy, tâm đại bi của Bồ-tát hằng rải lên khắp cả quần
sinh; Ngài luôn luôn sẵn sàng thực hành từ, bi, hỉ, xả,
bình đẳng đối với hết thảy mọi loài; Ngài được hộ
trì bởi năng lực của Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitayā
parigṛhitaḥ); Ngài được trang bị bằng các phương tiện
thiện xảo; hồi hướng công đức đến sự chứng đạt Nhất
thiết trí. Vì lý do đó, Bồ-tát, khi tu tập pháp Không (śūnya),
Vô tướng (animitta), Vô nguyện (apraṇihita), mà không chứng
nhập Thực tế ngay.[171] Trong phương diện này, Bồ-tát không
như các hàng Thanh văn và Độc giác.[172] Vì tâm Bồ-tát hằng
mong làm lợi ích cho hết thảy mọi loài, mong cầu hết thảy
chứng đắc giác ngộ tối thượng của Phật đạo.
Cũng
như cánh chim bay giữa bầu trời, tuy đi giữa hư không mà
không nương tựa vào hư không, không rơi xuống mặt đất.[173]
Bồ-tát tuy hành Không, học Không, mà không thủ chứng Thực
tế của Không, vì muốn thực hành hết thảy Phật pháp để
làm lợi cho hết thảy chúng sinh, và chỉ hưởng thọ công
hạnh của mình khi nào đúng lúc.
Lại
cũng như tay bắn lão luyện, thuật bắn đã tinh thục mà xảo
diệu, bắn lên hư không mũi tên này tiếp theo mũi tên khác
có thể khiến cho mỗi mũi tên sau nâng giữ mũi tên trước,
tất cả các mũi tên đều ở mãi giữa hư không.[174] Bồ-tát
mong cầu giác ngộ tối thượng, được hộ trì bởi năng
lực của Bát-nhã ba-la-mật, mà không thủ chứng không Vô
tác của Thực tế (bhūtakoṭi). Bồ-tát đợi cho đến lúc
nào hết thảy các công trình của mình đều được thành
tựu, mặc dù trực kiến sâu xa xuyên thấu cõi Không của
vạn hữu. Tâm đại bi của Bồ-tát đối với hết thảy chúng
sinh đang đi trong tăm tối, tìm cầu đạo lý để giải thoát
chúng ra khỏi vô minh và khổ lụy; phương tiện thiện xảo
của Bồ-tát được nảy sinh từ tình thương bao dung và giữ
vững Bồ-tát đi trọn con đường Bát-nhã ba-la-mật hạnh
(prajñāpāramitācaryā) trường kỳ và tân khổ - đấy là những
công năng, xác định Bồ-tát đạo.
Tuy
nhiên như thế, hiển nhiên đây là một trong những huyền
bí lớn nhất trong đời sống tâm linh của nhà Đại thừa
- hành trong Không, trụ trong Không, đạt tam-muội của Không,
nhưng không thủ chứng Thực tế của Không. Phật đích thân
công nhận rằng nó là một công trình tối đại gian nan, một
công trình tuyệt đối phi phàm.[175] Quả thực, những tâm
nguyện dị kỳ của Bồ-tát rằng không bao giờ xả bỏ quần
sinh, rằng sẽ giải thoát chúng ra khỏi vô minh và khổ lụy,
đó là cái huyền vi ẩn mật. Tất cả những ẩn mật và
khó thấu triệt trong đời sống của đạo Phật có thể thấy
nơi sự trỗi dậy của khát vọng giải thoát toàn diện đó.
Khi tâm của Bồ-tát đã được xác lập vững chãi như thế,
người ta nói Bồ-tát đã đạt tới địa vị Bất thoái chuyển
(avinivartanīya).
Nhân
đó, điều khá hứng thú khi thấy ra đâu là những phẩm tính
đặc sắc của Bồ-tát, lúc Bồ-tát đã đạt tới địa vị
học Phật này; bởi vì ở đây nêu lên khá rõ tâm lý học
về mộng trong sự xác định về tâm trạng của Bồ-tát.
Sự thực, không chỉ riêng tâm lý gia mới đọc sâu vào vô
thức. Tâm linh cũng hành sự ngang qua vô thức từ cội nguồn
sâu và xa hơn.
“Phật
nói với Tu-bồ-đề: Nếu Bồ-tát, cho đến trong giấc mộng
cũng không hề ưa thích địa vị Thanh văn và Độc giác, cũng
không nảy sinh tâm niệm thác sinh vào những thế giới của
Thanh văn và Độc giác, như thế là Bồ-tát đạt tới địa
vị Bất thoái chuyển…”
“Nếu
Bồ-tát trong giấc mộng, thấy mình đang ngồi giữa hư không,
thuyết pháp cho mọi người, và thấy tự thân phóng đại
quang minh, hóa hiện hình tướng Tỷ khưu, đến trong các cõi
Phật phương khác, thi hành các Phật sự, như thuyết pháp,
v.v.. đó là Bồ-tát đạt tới địa vị Bất thoái chuyển….”
“Nếu
Bồ-tát, trong giấc mộng, thấy những hoạt cảnh của địa
ngục ở đó hết thảy mọi loài đang chịu đủ mọi hình
thức thống khổ; thấy như thế, Bồ-tát phát tâm mong thành
tựu giác ngộ tối thượng, do thành tựu như thế, làm thanh
tịnh cõi Phật sạch hết mọi cấu nhiễm và phiền não, ngay
đến cái tên địa ngục cũng không còn nghe trong cõi này;
đó là Bồ-tát đạt tới địa vị Bất thoái chuyển…”[176]
Những
câu hỏi thường xuyên được gợi lên trong khi đọc Bát-nhã:
Làm thế nào mà Trí Bát-nhã, vốn là soi vào khía cạnh tuyệt
đối của vạn hữu tức tính Không, lại có thể từ đó
nảy sinh Đại bi (karuṇā) và Phương tiện Thiện xảo (upāyakauśalya),
vốn chỉ có ý nghĩa trong thế giới sai biệt mà thôi? Làm
thế nào Bồ-tát, với đôi cánh luôn luôn lượn cao trên cõi
Nhất thiết trí, lại có thể từ đó vỗ cánh quanh mặt đất
đầy những thống khổ, bất công, cuồng dại? Hơn thế nữa,
làm thế nào Bồ-tát có thể dừng lại chuyến bay cuối cùng,
chuyến bay đưa ngài đến mục tiêu tối hậu của cuộc hành
đạo, vì trái tim ngài được kêu gọi trở lui để cứu trợ
hết thảy chúng sinh không muốn vứt bỏ chúng lại với những
nghiệp chướng? Làm thế nào huệ nhãn lại có thể nhìn vào
hai chiều hướng ngược nhau cùng lúc? Theo Bát-nhã, Bồ-tát
thành tựu bí nhiệm này chính bởi ngài hằng khát khao Bát-nhã
trí và Nhất thiết trí, và tu tập theo đó.
“Đây
không phải là chỗ khó khăn”, như lời của Tu-bồ-đề,
mặc dù nơi khác đã có lời tuyên bố là nó quá khó. “Cái
khó nhất là dẫn hết thảy vô số chúng sinh đưa chúng đến
an trụ trong Đại Bát-niết-bàn (Parinirvāṇa). Bồ-tát khoác
áo giáp tinh tiến. Nhưng chúng sinh (sarvasattva) vốn tịch tĩnh
(viviktatva) như hư không, vô sở đắc (anupaladhatā), tuyệt
đối vô sở liễu tri.[177] Dù vậy, Bồ-tát không sợ hãi
học tập, không thối lui, không chút bị áp đảo, hay bị
nhụt chí; vì Bồ-tát đang tu tập Bát-nhã ba-la-mật… Với
những ai thực hành Bát-nhã, ma quỷ sẽ không có cơ hội chen
vào công trình của mình, nếu người đó quán sát hai sự
kiện: 1: Thấy chân lý rằng vạn hữu đều là Không, và 2.
Không lìa bỏ hết thảy chúng sinh.” Đương nhiên không có
cách nào nối kết mâu thuẫn đó trừ phi kiên quyết nhảy
xuống hố thẳm của chính tính Không.
5.
Một vài Đối nghịch quan trọng
Như
thế Bát-nhã cung cấp chúng ta một bộ gồm những đối nghịch
mà chúng ta phải kéo ra một tổng đề cao hơn từ đó, không
phải bằng tính cách minh nhiên của luận lý, nhưng bằng sinh
hoạt hiện thực của đời sống Bồ-tát, người đi trên
đường về Nhất thiết trí. Một vài đối nghịch có ý nghĩa
có thể đúc kết như sau:
a.
Bát-nhã
trí hay Nhất thiết trí đối Đại bi hay Phương tiện.
Đây
là nghịch đề căn bản trong Bát-nhã và cũng trong tất cả
các giáo nghĩa khác của Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, sự
tương phản chỉ có tính cách khái niệm, do đó, phù phiếm,
như trong tất cả mọi trường hợp khác; bởi trong đời sống
hiện thực của Bồ-tát, đối nghịch này không thấy có và
không gây trở ngại nào cho việc thi hành hết thảy Phật
sự. Hoặc chúng ta có thể nói rằng một người trở thành
một Bồ-tát khi nào những khái niệm có vẻ mâu thuẫn biến
mất khỏi đạo tâm của mình. Chẳng hạn, chúng ta đọc trong
kinh:[178]
“Bồ-tát
học Thực hành Bát-nhã là học Nhất thiết trí. Học Nhất
thiết trí là chứng Chân như. Bởi vì danh hiệu “Như Lai”
(tathāgata) có nghĩa là vị đã chứng Chân như. Và trong Chân
như đó, không có diệt tận (kṣaya), không có hiện khởi
(utpāda), không có biến mất (nirodha), không có sinh xuất (janaka),
không có thị hiện (vibhāvana), không nhiễm (raja), không ly
nhiễm, không hiện hữu, như hư không, không sở y. Nhưng do
học Bát-nhã ba-la-mật mà Bồ-tát thành tựu các công hạnh
của mình, làm nơi nương tựa cho kẻ khác, và thực hiện
tất cả những gì phát xuất từ tấm lòng lân mẫn yêu thương,
một tâm tình hoan lạc, thương xót bao la đối với hết thảy
chúng sinh. Không những thế, Bồ-tát còn giúp kẻ khác tự
tu tập trong đạo giải thoát, và gìn giữ gia tộc Như Lai
luôn luôn hưng thịnh…”
b Tu
Thiền định (dhyāna) không thọ quả Thiền[179]
“Bồ-tát
tu tập Bát-nhã, tuy thực hành các Thiền định, nhưng không
chịu thác sinh vào cõi trời phước báo của Thiền định.
Ấy là do phương tiện thiện xảo (upāyakauśalya) vô sinh
của Bát-nhã, chính do phương tiện đó mà Bồ-tát khi thực
hành các Thiền định không tùy theo đó mà thác sinh vào các
cõi trời của Thiền định thong dong thọ hưởng tất cả
những thứ khoái lạc ly dục. Nhưng Bồ-tát không hề muốn
rời khỏi thế gian khổ lụy này, nơi các quần sinh đang bị
giam hãm ràng buộc. Ở nơi thế gian, nhưng không bị nhiễm
ô bởi thế gian, đấy là sự tu tập của Bồ-tát. Dù sống
đời sống thế gian, Bồ-tát vẫn đầy đủ thanh tịnh.
“Tu-bồ-đề
hỏi: Nếu hết thảy các pháp, tự tính bản lai thanh tịnh,
không ô nhiễm – vì là Phật pháp thanh tịnh – vậy làm
thế nào trong một ý nghĩa nào đó, mà Bồ-tát chứng đắc
các pháp thanh tịnh, làm như bản lai Bồ-tát vốn không thanh
tịnh?”
“Phật
đáp: Đúng vậy, đúng như lời ông nói, hết thảy các pháp
bản lai thanh tịnh, và Bồ-tát ở trong hết thảy các pháp
bản lai tự tính thanh tịnh đó mà như lý tu học Bát-nhã.
Đấy là phương tiện sẵn có trong Bát-nhã và phát sinh từ
Bát-nhã. Bồ-tát soi thấy thực tại đó, và xa lìa mọi kinh
hãi và khiếp đảm.”
c.
Bồ-tát
đối Thanh văn
Trong
tất cả các kinh điển Đại thừa, đối nghịch này quan trọng
nhất, bởi vì đời sống của Bồ-tát nghịch hẳn lại đời
sống của Thanh văn. Hàng Thanh văn sẵn sàng lìa bỏ thế gian
vì giác ngộ và giải thoát riêng mình, sẵn sàng trải tai
ra nghe khuyến cáo của Ma Cám dỗ; nó thường nói: “Những
lạc thú trên các cõi trời quả thật vô cùng tuyệt diệu
và siêu phàm; những lạc thú trần gian này không sao sánh nổi,
vì chúng là những tướng trạng của vô thường, khổ, không,
bại hoại. Ngài phải tự mình tu tập để hưởng thọ những
quả báo của hạnh sa-môn, để không còn chịu đựng nghiệp
quả tái sinh nữa.” Tuy nhiên, khóa trình của Bồ-tát lại
nhắm đến chỗ khác, Ngài muốn vẫn ở lại với chúng ta,
làm các việc ích lợi cho chúng ta. Tự mình học tập Bát-nhã,
Bồ-tát tiếp nhận mọi tiến bộ tâm linh thành tựu từ đời
sống của Thanh văn, nhưng dẹp bỏ ý tưởng trụ mãi nơi
những kết quả của đời sống đó. Bồ-tát biết rằng Bát-nhã
là mẹ của hết thảy chư Phật và Bồ-tát, và biết rằng
cái thiết lập lý tính của Phật đạo là Nhất thiết trí,
và thêm nữa, Nhất thiết trí là Bát-nhã trí và Bát-nhã trí
là Nhất thiết trí vì hỗ tương sinh khởi.[180] Khi biết như
thế, Ngài tinh cần học tập Bát-nhã. Nhưng Ngài không hề
nghĩ riêng đến mình khi học tập Bát-nhã, cũng không nghĩ
rằng mình học tập Bát-nhã cho riêng mình để chứng đắc
Bát-nhã. Hạnh Bát-nhã của Bồ-tát không phải là chỉ thấy,
nghe, nghĩ, biết về Bát-nhã; bởi vì đây đích thực hành
Bát-nhã, học Bát-nhã, và tu Bát-nhã.
Tại
sao? Vì khi các bạn nghĩ rằng: “Đây là tâm ta”, “Đây
là thức ta”, “Ta kiên tâm”, v.v… thì Bát-nhã không còn
đó, vì Bát-nhã là vô tâm (acitta).[181]
d.
Thực
đối huyễn
Nhìn
thoáng qua, Bát-nhã hình như phủ nhận các thực tại, tuyên
bố chúng là những hiện hữu như huyễn; rồi Không và như
huyễn được dùng như đồng nghĩa. Trong việc thấu hiểu
kinh Bát-nhã, đây có lẽ là một trong những điểm khó nhất,
như thường xuyên được nêu ra.
|