TIN TỨC TỪ BIỂN TÂM
Lâm Thanh Huyền
Minh Chi dịch
---o0o---
Phần 4
CẢM ƠN VÀ HỌC TẬP ^
Bản chất của tình dục không
phải là hại người, nhưng vì bị nhiễm trước cho nên người bị hại. Dùng tâm
lượng rộng lớn, trí tuệ cao siêu để đối đãi với tình dục, để siêu việt
tình dục, không để cho tình dục nhiễm trước, mà không phải giữ thái độ đối
lập với tình dục, đó chính là thái độ nên có của người tu hành.
Một người tu hành, phải tiếp
thu tất cả những cái tốt đẹp trong cuộc sống, có trách nhiệm và chủ động
đối với tất cả những cái gì ác xấu trong cuộc sống, khiến cho tất cả, vô
tình hay hữu tình, nghịch cảnh hay thuận cảnh, đều trở thành yếu tố tăng
trưởng Bồ đề và trí tuệ của mình.
“vĩnh dục ái hà” (Vĩnh viễn
sống trong sông tình dục). Đối với vị Bồ Tát mà nói, thực ra không có sông
tồn tại, bởi vì Bồ Tát để cho dòng sông tình dục trôi qua mà vẫn giữ tâm
mình trong sáng; vị Bồ tát có con mắt tốt đẹp ấy, tức là mãi mãi giữ thái
độ cảm ơn và học tập.
Sống ở thế gian này, chúng ta
gặp rất nhiều chúng sanh và rất nhiều nhân duyên. Những chúng sanh và nhân
duyên đó có thể là không tốt đẹp, thí dụ, hôn nhân tan vỡ, luyến ái thất
bại, anh chị em bất hòa...
Chúng ta phải dùng thái độ cảm
ơn và học tập để chuyển hóa những nhân duyên xấu đó. Thấy chúng là xấu,
bèn sinh tâm cảnh giác, không để bản thân mình cũng trở thành xấu xa theo.
Đó chính là thái độ học tậ p
tốt, là thái độ cảm ơn.
Đối với người nhà, đối với con
cái, chúng ta cũng nên có thái độ cảm ơn và học tập như vậy.
Có lần, tôi bị nước sôi làm
bỏng tay, không khỏi được. Con tôi đem một bát nước lại, cũng không rõ nó
học ở đâu mà nó niệm một thôi một hồi rồi nói: “Bát nước đã được gia hộ.
Ba hãy uống đi, khắc khỏi”.
Tôi chưa uống hết bát nước mà
tay đã khỏi một nửa rồi, tôi hết sức cảm ơn. Con tôi thấy tôi đau tay,
trong lòng không yên. Tôi uống bát nước xong, thấy bàn tay đỡ rất nhiều.
Đó chính là thái độ cảm ơn.
Tái sanh ở thế gian này toàn là
những bậc tiền bối của anh cả, không có ai thua kém anh đâu, kể cả con cái
của anh. Vì sao khi giảng Phật học cho
con cái, anh lại có thái độ
phóng túng thiếu phụ trách, còn khi giảng Phật học cho người lớn thì anh
lại hết sức thận trọng, phụ trách. Phải chăng vì chúng ta đánh mất bản
tính thiên chân của chúng ta, vì thiếu thái độ cảm ơn và học tập đối với
người đời.
Có trường hợp, về mặt trí tuệ,
con cái chúng ta hơn chúng ta rất nhiều.
Các bài diễn giảng của tôi sở
dĩ ghi âm lại trong băng là do nhân duyên như sau:
Tôi thường hay đi diễn giảng,
có lúc đem con đi theo. Một lần, con tôi nói: “Ba hay diễn giảng, sao ba
không ứng cử tổng thống?” Tôi rất ngạc nhiên: “Diễn giảng và ứng cử tổng
thống thì có quan hệ gì” .Con tôi nói: “Ba xem năm vừa rồi, tổng thống
diễn giảng, bài diễn giảng được dịch ra nhiều tiếng, kể cả tiếng Đài Loan
và tiếng Quan Thoại, và được phát nhiều lần trên đài vô tuyến truyền hình,
mọi người đều được nghe. Ông ta chỉ giảng một lần là đủ...”
Con tôi nói tôi nên cho ghi âm
trên băng từ, ai mời diễn giảng cứ gởi băng từ đi là được. Tôi nói: “Không
được vì người ta muốn nhìn mặt ba!” Con tôi nói: “Ba cho phóng đại ảnh của
ba rồi đặt trên bục giảng, và mở băng ghi âm, nghe xong băng ghi âm, sẽ
gửi thù lao diễn giảng cho ba, tốt nhất là gửi ngân phiếu. Vì bưu cục có
khắp nơi, cho nên ở đâu nhận tiền cũng được”.
Tôi rất khen ngợi bẩm tánh
thiên chân của con tôi. Nó nói thẳng thắn ý kiến của nó về điều nó không
thích, đồng thời cũng bày tỏ quan điểm của nó về cách thức giải quyết vấn
đề. Về sau, nơi nào mời tôi diễn giảng mà tôi đi không được, tôi đều gởi
băng ghi âm bài giảng của tôi nhưng không có thu tiền.
HỒI HƯỚNG LÀM CHO NHÂN
DUYÊN THANH TỊNH^
Người có thái độ cảm ứng và học
tập sẽ ít có vấn đề tình dục phải giải quyết. Tình dục của chúng ta thông
thường nảy sinh từ những người có liên quan đến chúng ta: vợ, con, bè bạn,
người quen, bạn đồng sự, những người này khiến chúng ta chấp trước, không
được giải thoát. Chúng ta phải tỏ ra khiêm nhường đối với họ, phải cảm ơn
họ, thì có thể đối trị được tình dục. Còn có một phương pháp nữa để
đối trị tình dục, đó là đem công đức của mình, sức mạnh trong sạch của
mình hồi hướng cho đối tượng đang bị vướng mắc trong tình dục.
Đối tượng ấy có thể không phải
là người, mà có thể là một cái chén, một đồ cổ. Có người sưu tập đồ cổ,
chết rồi không vãng sanh được vì ham đồ cổ quá sau tái sanh lại trong gia
đình cũ để giữ đồ cổ. Nhưng sau khi tái sanh lại quên rằng chính vì đồ cổ
mà mình tái sanh lại ở đây, về sau lại đem bán hết những đồ cổ ấy đi.
Đối tượng của tình dục không
phải chỉ là người mà là sự vật, nhân duyên.
Chúng ta phải có thái độ hồi
hướng, đem công đức của chúng ta, sức mạnh thanh tịnh của chúng ta hồi
hướng cho thế giới này, hồi hướng cho những người có nhân duyên hay không
có nhân duyên đối với chúng ta. Làm như vậy chắc chắn có thể đối trị được
sự ràng buộc của tình dục.
Có lần, nhà tôi bị nạn dán
hoành hành. Tôi bèn đọc kinh, làm công đức, hồi hướng cho các con dán, cầu
cho chúng được tái sanh với thân phận tốt đẹp hơn thân phận con dán.
Nếu ngày nào, anh cũng phải gặp
người mà anh ghét, thì mỗi ngày hãy tụng một biến kinh Kim Cang và hồi
hướng công đức tụng kinh cho anh ta, tự khắc sẽ thấy quan hệ giữa hai
người trở nên tốt đẹp hơn.
Hồi hướng có thể khiến cho ác
duyên trở thành thiện duyên, khiến nhân duyên ràng buộc biến thành nhân
duyên sáng suốt tốt lành.
HOAN HỶ SỐNG, TÙY TỤC, TÙY
DUYÊN^
Có câu chuyện sau đây về Thiền
sư Hoàng Bích. Khi Thiền sư còn là đệ tử một vị Hòa Thượng trụ trì một
ngôi chùa, thì có Đường Tuyên Tôn, lúc bấy giờ chưa lên ngôi vua, chạy
loạn đến ngôi chùa, trong khi Thiền sư Hoàng Bích ngồi tham thiền. Một
ngày, Đường Tuyên Tôn thấy Thiền sư Hoàng Bích đang lễ Phật, bèn hỏi: “Người
cầu đạo không được chấp trước ở Phật, Pháp, Tăng, sao sư còn lễ bái?”
Thiền sư Hoàng Bích trả lời: “Tôi không có chấp trước ở Phật, Pháp,
Tăng. Tôi chỉ tùy tục mà thôi”. Sự lễ bái của Thiền sư Hoàng Bích
không nhằm một đối tượng cụ thể mà là nhằm khai phát nội tâm, chỉ là tùy
tục, không có mong cầu, không có nhiễm trước, không có tham trước, chấp
trước và hoàn toàn thanh tịnh.
Chúng ta đối với tình dục trong
cuộc sống, cũng phải tùy tục, tùy duyên.
Yêu thương cha mẹ, vợ, con bạn
bè mình, đều không có mong cầu riêng. Yêu thương cha mẹ không phả i là vì
cha mẹ có tiền, dù cha mẹ có nghèo không đồng xu dính túi, cũng yêu thương
cha mẹ. Yêu vợ không phải vì được vợ nấu cơm, quét dọn nhà cửa, giặt dũ
quần áo mà là vì nhân duyên vợ chồng, yêu thương con cái cũng không có
mong cầu riêng, để cho chúng nó sau này lớn sẽ nuôi dưỡng mình, mà cũng là
tùy tục, tùy duyên mà thôi.
Có lần con tôi hỏi: “Này ba,
khi ba già rồi, con không muốn ở cùng với ba nữa, vì người già rất khó
tính. Nhưng tháng nào, con cũng gởi tiền cho ba”. Tôi bèn nói: “Ngày
mai, con phải dọn ở một nơi khác, vì con quá nhỏ tuổi, hay gây phiền phức,
nhưng ba sẽ gởi tiền cho con”. Con tôi rất hổ thẹn, nói: “Thưa ba, con
xin lỗi ba, khi ba già con sẽ ở với ba”.
Chúng ta săn sóc con cái, không
phải để sau này, chúng phụng dưỡng chúng ta. Chúng ta có bạn bè, cũng
không phải vì bạn bè cho chúng ta nhiều lợi ích. Chúng ta trong quan hệ
bạn bè cũng không có mong cầu riêng gì hết.
BỐ THÍ MÀ KHÔNG CHẤP NGÃ^
Học Phật cũng phải như vậy.
Niệm Phật mà không cầu mong gì thì mới được thanh tịnh. Lễ Phật mà không
cầu mong gì thì thân tâm mới nhu hòa. Trì chú cũng chỉ cầu mong cho sức
mạnh của chú sẽ đem lại lợi ích cho chúng sanh. Chúng ta chỉ nghĩ
đến giúp người, giúp chúng sanh, không có chấp ngã.
Khi có cơ hội bố thí, thì đừng
có chấp ngã .
Có lần tôi đến thăm hội “Từ
tế công đức”, thấy có hàng trăm người tình nguyện hàng ngày đến phục
vụ ở bệnh viện của hội. Tôi hỏi những người ấy rằng: “Sức mạnh gì thúc
đẩy các anh đến làm việc ở đây?” Một người trả lời: “Người phục vụ
bệnh nhân hạnh phúc hơn bệnh nhân”.
Đúng vậy! Họ phục vụ bệnh nhân,
bởi vì họ là người có sức khỏe. Đó thực là hạnh phúc vậy.
Tôi lại hỏi pháp sư Chứng
Nghiêm, là người sáng lập ra hội Từ tế: “Bà hàng ngày cứu giúp những
người bệnh nghèo, hàng ngày chứng kiến những cảnh bi thảm. Bà có thấy gian
khổ hay không?”.
Bà nói: “Người ham thích leo
núi, đường leo núi gian khổ, nhưng trong tâm không thấy là hhổ, chỉ có
người không ham thích leo núi mới thấy leo núi là rất khổ”.
Lời của Pháp sư Chứng Nghiêm
làm tôi rất cảm động, một người có thể hoàn toàn quên mình thì không thấy
khổ. Pháp sư Chứng Nghiêm là người có bệnh, mắc bệnh tim nặng, ngày nào
cũng uống thuốc, tiêm thuốc rất là gian khổ, nhưng bà lại không thấy khổ,
vì bà luôn nghĩ tới người khác.
Tôi thường khuyên những người
thất tình rằng: “Trên thế giới, những người thất tình đều khổ như anh.
Nghĩ tới nỗi đau khổ của người khác thì anh cũng giảm bớt đau khổ”.
Nếu biết nghĩ tới mặt tốt của
sự việc, nghĩ tới người khác và bỏ chấp ngã thì sẽ không còn thống khổ.
Làm thế nào để đoạn trừ chấp
trước, giải thoát khỏi sự ràng buộc. Hãy đừng có mong cầu gì hết! Đối với
chúng sanh, không có mong cầu. Đối với Phật cũng không có mong cầu.
Không có mong cầu là thái độ có
lợi đối với bản thân. Có người đốt hương cúng dường Phật, Bồ Tát. Tôi nói
với họ: “Phật và Bồ tát không cần các anh thắp hương cúng dường, bởi vì
là Phật là Bồ tát. Các anh thắp hương là để cho tâm mình thanh tịnh, là để
có lợi ích cho bản thân các anh. Đối với Phật không có mong cầu, đối với
chúng sanh cũng không có mong cầu, đừng có hy vọng chúng sanh cho mình cái
gì cả”.
Bồ Tát Phổ Hiền dạy chúng ta
rằng: “Phải tùy thuận chúng sanh, phải
tùy theo nhân duyên của
chúng sanh mà chuyển hóa, mà không có yêu cầu gì đối với chúng sanh, không
phải lên lớp cho chúng sanh mà lên lớp cho bản thân mình; bởi vì mình cũng
là chúng sanh”.
Tôi có một người bạn mới học
Phật, có lần anh đến tìm tôi, với giọng nói rất kích động: “Chúng ta
không thể hằng ngày cứ ngồi trong nhà niệm Phật mà phải đi ra ngoài cứu độ
chúng sanh”. Tôi trả lời: “Đúng là chúng ta phải cứu độ chúng sanh.
Nhưng trước tiên phải cứu độ chúng sanh ở trong cái nhà này đã”. Anh
bạn tôi ngạc nhiên hỏi: “Trong nhà này có chúng sanh ư?” Tôi nói
với anh ta rằng anh ta và tôi đều là chúng sanh.
Khi chúng ta nói cứu độ chúng
sanh, thường thường chúng ta quên chúng ta là chúng sanh, vì chúng ta tự
cho mình là ở trên chúng sanh. Thực ra, chúng ta cũng là chúng sanh; chúng
sanh cũng là Bồ Tát. Chúng ta chỉ là nhân duyên di động giữa chúng sanh và
Bồ Tát mà thôi!.
TÙY DUYÊN MÀ ỨNG XỬ
VỚI TÌNH CẢM TỐT NHẤT KHÔNG THAY ĐỔI^
Trong kinh điển có câu: “Tùy
duyên bất biến, bất biến tùy duyên”.
Tùy theo nhân duyên, tình dục
và thế giới mà chuyển động, còn tâm tánh mình thì không biến hóa. Đó là
tùy duyên bất biến. Tâm tánh của một người không thay đổi, vẫn giữ được
chất vắng lặng thiện lành, nhờ vậy là có thể tùy duyên một cách vui vẻ.
Không có sợ hãi mình bị biến
chất mà không dám tùy duyên. Vì rằng, khi một người mở rộng được bả n tính
trong sáng của mình thì anh ta phát hiện thấy bản tính đó kiên cường hơn
nhiều, so với nhân duyên, và không bị dao động.
Một người giác ngộ sẽ biết
rằng, nhân duyên thời gian và không gian rất là rộng lớn. Phải yêu thương
cha mẹ mình, cũng phải yêu thương tất cả chúng sanh như là yêu thương cha
mẹ vậy. Sự thật, tất cả chúng sanh mà chúng ta có nhân duyên gặp gỡ, rất
có thể trong các đời sống quá khứ, đã từng làm cha mẹ chúng ta. Từ kiếp vô
thỉ đến nay, chúng sanh đã từng là cha mẹ chúng ta.
Có người bị thất bại trong hôn
nhân hay trong luyến ái, bèn nói: “Đó là nhân duyên. Số mệnh đã quyết
định rồi”. Sự thực thì không phải như vậy. Nếu mở rộng quan điểm thời
gian và không gian ra nữa, thì sẽ phát hiện thấy, trên thế giới có rất
nhiều người cùng ở với chúng ta đã có quan hệ vợ chồng. Những nhân duyên
đó trong tương lai dần dần chín mùi mà chưa chắc là ở đời này. Trong đời
này có rất nhiều nhân duyên chín mùi, nhưng còn do chúng ta lựa chọn trong
số nhân duyên chín mùi đó, chúng ta lựa chọn lấy ông này, bà kia làm chồng
làm vợ. Còn đối với những nhân duyên chưa chín mùi, thì hãy chờ đợi ở vị
lai.
Người với người đều có nhân
duyên. Nhưng lựa chọn và phán đoán cũng rất quan trọng. Chúng ta không nên
vì học Phật mà trở thành nhà túc mạng luận. Tất cả đều là quan hệ nhân quả
nhưng vẫn có phạm vi để chúng ta cân nhắc, lựa chọn. Đó là vì bản tính
chúng ta mạnh hơn nhân duyên.
Thế giới nội tại ở trong chúng
ta lớn mạnh hơn nhân duyên.
Vì vậy mà chúng ta không bị
tình dục chuyển, mà có thể siêu việt lên trên tình dục.
Trong Thiền tông, có câu chuyện
này: Có một người tu hành, đã tu hành hơn 20 năm, và được một bà già
thường xuyên cúng dường mỗi ngày, và đều cho một cô gái xinh đẹp đem cơm
cúng dường nhà tu hành. Một ngày bà già muốn thử trình độ của nhà tu hành,
bèn dặn cô con gái đưa cơm ngồi trên đùi nhà tu hành và hỏi nhà tu hành
cảm giác thế nào. Cô gái trở về, thuật lại với bà già rằng, nhà tu
hành chỉ nói:
“Khô mộc y hàn nham
Tam đông vô hoản khí”.
(Cây khô dựa vào tảng đá lạnh
Ba mùa đông không có hơi ấm)
Bà già nghe nói rất bực, cho
rằng 20 năm cúng dường là uổng công, bèn phóng hỏa đốt am và đuổi nhà tu
hà nh đi chỗ khác. Bà cho rằng tu hành mà biến thành người vô tình thì
không phải là người tu hành chân chính.
Siêu việt tình cảm cha mẹ không
phải là vô tình mà là chí tình. Chí tình là thăng hoa tình cảm đến trình
độ cao nhất. Như xem cha mẹ thiên hạ như cha mẹ mình, vợ con thiên hạ như
vợ con mình. Nâng cao tâm tánh, mở rộng tâm tánh, để bao dung mọi phiền
não và chuyển hóa tình dục.
Nên nhớ bốn chữ này: “Tùy
duyên, nhậm vận” là ứng xử một cách tự tại với nhân duyên, không dao
động, không thay đổi. Trên thế giới này, có rất nhiều nhân duyên gặp gỡ,
làm tâm người dao động. Chú ng ta vẫn có thể không né tránh, không đoạn
trừ tất cả những nhân duyên đó mà vẫn tu hành được nếu biết nhậm vận tùy
duyên. Tình dục sẽ được làm cho thanh tịnh và con người sẽ được giải
thoát.
SO SÁNH VỚI GIÂY PHÚT TRƯỚC^
Có nhớ tới mâm cỗ thịnh soạn
hôm qua cũng không giúp gì cho cơn đói ngày hôm nay. Bây giờ ăn no căng
bụng, cũng không giúp gì cho cơn đói của giờ phút sau! Mỗi giờ phút đều có
tình hình của giờ phút ấy. Các giờ phút đều không giống nhau.
Có sự thể nghiệm như vậy, mới
không chấp trước vào giờ phút trước hay giờ phút sau; không chiếm hữu gì
cũng không cầu mong gì thì sẽ không chấp trước vào giờ phút trước cũng
không chấp trước vào giờ phút sau.
Chúng ta học Phật không cầu
mong được gì, chỉ cầu mong làm cho nhân cách con người được nâng cao và
hoàn thiện không ngừng.
Thường có người đến gặp tôi,
như là để so sánh “thành tích” vậy. Họ cho rằng tôi rất có danh
tiếng, chắc là tu hành rất tốt. Họ hỏi: “Ông tu hành được quả vị nào
rồi?”, đồng thời cũng nói với tôi một cách nghiêm túc là họ đã chứng
đệ tam quả. Tôi trả lời là tôi tu hành chưa chứng được quả nào hết. Chỉ có
ngày nào cũng được ăn quả chuối, được nuôi dưỡng tốt, thưởng thức mùi vị.
Tức là không được gì! Nếu tâm còn nghĩ được nhiều, ít quả, thì trong
cuộc sống sẽ có vướng mắc, bị
trở ngại.
Xin đừng có nghĩ tu được “bao
nhiêu quả”, mà nên làm sao cho giờ phút này so với giờ phút trước, giờ
phút sau này so với giờ phút này anh nhận thức “tánh không” một
cách tốt hơn, giờ phút này so với giờ phút trước, anh sống từ bi hơn, anh
gần gũi hơn với chúng sanh, nhân cách anh hoàn thiện hơn.
Hằng ngày, cứ tiến bộ như thế
thì sẽ có ngày, anh tiến tới đích từ bi, trí tuệ hoàn thiện và tự tại.
Đừng có một mặt tu hành, một
mặt lo nghĩ rằng mình đã tu đến trình độ nào! Nếu ngày nào cũng nghĩ tới
vấn đề đó thì lấy thời gian đâu mà tu hành?
Hãy sống mỗi giây phút một cuộc
sống tốt đẹp. Hãy sống qua mỗi ngày một cách tốt đẹp, nói chung hãy sống
một cách tốt đẹp.
Anh đang lễ Phật, vái Phật. Nếu
con anh khóc, đòi mẹ thì xin anh hãy tạm thời ngưng lễ Phật, đến chăm sóc
đứa bé. Bởi vì, trong giây phút này, đứa bé đang cần anh, chứ Phật không
nhất định cần đến anh, Đức Phật, không cần gì hết. Phật và Bồ Tát đều
không muốn được gì, không cần gì hết ở nơi anh.
Có câu chuyện vui như sau: một
người đi trong sa mạc, mới đi được nửa đường, thì vừa mệt, vừa đói, vừa
khát. Anh ta bắt đầu cầu nguyện Bồ Tát đến cứu anh ta. Đi mãi, đi mãi, anh
tìm được giữa quãng đường một cây đèn thần. Anh rất thích bèn lượm lên và
xoa xoa. Quả nhiên, hiện ra một người khổng lồ, người khổng lồ nói với anh
ta rằng: “Tôi là đầy tớ của ông, ông có gì sai bảo?” Anh ta nói: “Tôi
đang rất khát, xin cho tôi một bát nước”. Người khổng lồ trả lời: “Ở
đây tôi không có nước”. “Vậy thì hãy cho tôi một bộ quần áo, vì tôi
đang rét”. Người khổng lồ nói: “Tôi ở đây, không có quần áo”. “Vậy
thì hãy cho tôi một quả dưa”. “Tôi cũng không có quả dưa”. Cuối
cùng, người khách bộ hành hỏi: “Thế thì anh cho tôi cái gì nào?”
Người khổng lồ trả lời: “Tôi có thể cho ông Phật pháp”. Người khách
bộ hành nghe xong bèn chết xỉu trong sa mạc.
Phật pháp là gì? Khi người khác
khát, anh cho họ chén nước. Đó là Phật Pháp. Khi người khác đói anh cho họ
bát cơm, đó là Phật pháp. Giúp đỡ người khác, với tâm không cầu đền đáp,
và luôn luôn như vậy, đó là Phật pháp.
NHÂN SANH TỐT ĐẸP NHẤT CHÍNH LÀ
Ở ĐỜI NÀY, THẾ GIAN NÀY^
Phật pháp không có xa lìa cuộc
sống, cũng không xa lìa đời sống này, thế gian này.
Trong nội dung các bài giảng
đầu tiên của Phật Thích Ca, có bốn câu rất trọng yếu, gọi là bốn gia hạnh:
“Cuộc sống vô thường, thân người khó được, lý nhân quả là chân thực,
luân hồi là đau khổ”.
Điều nên đặc biệt chú ý là lẽ
vô thường.
Cuộc sống là vô thường, cho nên
phải biết trân trọng giờ phút này. Sau đó cần ghi nhớ, thân người là khó
được. Cuộc sống này, thế gian này là nhân sanh tốt đẹp nhất. Hãy cứu cái
thân này ngay tại cuộc sống này, đừng có chờ đợi một cuộc sống nào khác.
Phải suy nghĩ thế này: Chúng ta hãy khẳng định cái thân này của chúng ta
là đáng trân trọng, hãy khẳng định cuộc sống của chúng ta trên thế giới
này là đáng trân trọng, khẳng định cuộc sống này, thế gian này của chúng
ta là đáng trân trọng.
Nếu chúng ta có thể trân trọng
thân người này, cuộc sống này của con người, thì chúng ta sẽ biết trân
trọng cõi Tịnh Độ, và trân trọng mọi chúng sanh.
Nếu đối với cuộc sống này và
thế gian này mà không biết trân trọng thì tất cả Phật pháp sẽ trở thành hư
vọng, chúng ta sẽ không có nơi nào để đứng vững chân cả.
Hằng ngày chúng ta hãy kiểm
điểm hành vi nơi thân ta, lời nói của ta, ý nghĩ của ta, và hằng tháng,
hằng năm, chúng ta cũng kiểm điểm như vậy.
Ở đời sống này, thế gian này,
không ngừng kiểm điểm hành vi nơi thân ta, lời nói của ta, ý nghĩ của ta.
Và đời này qua đời khác, cũng kiểm điểm như vậy. Đó chính là sự tu hành
căn bản, trọng yếu nhất.
ÁI HẬN TÌNH THÙ TRONG NHÂN
GIAN,
ĐÂU ĐÂU CŨNG CÓ YÊU GHÉT TÌNH THÙ^
Ai cũng có kinh nghiệm yêu
người, ghét người, và cũng đều hiểu rõ thế nào là ái tình, thế nào là thù
hận.
Nếu anh là người ít kinh
nghiệm, thì hãy xem tiểu thuyết hay các phim truyền hình. Nội dung của các
tiểu thuyết và phim truyền hình, nói chung cũng không vượt ngoài phạm vi
yêu, ghét, tình, thù.
Xem phim truyền hình và tiểu
thuyết, chúng ta biết được nhiều chuyện kỳ lạ trên đời. Chúng thực ra
không có gì là đặc biệt, mà chỉ là những bức ảnh thu nhỏ lại của đờ i sống
thực tế. Những câu chuyện trong tiểu thuyết, trong kịch truyền hình đều có
thể xảy ra trong cuộc sống hiện thực, và hàng ngày đều có thể xảy ra.
Cách đây vài ngày tôi có nhận
được thư một nữ độc giả ở miền Nam. Đó là một cô gái tuổi còn trẻ, câu
chuyện của cô ta kể lại trong bức thư có đủ tính kỳ lạ và bi kịch để viết
thành một thiên tiểu thuyết.
Cô ta, sau khi tốt nghiệp
trường Cao Trung ở miền Nam, bèn lên Đài Bắc học đại học, sau yêu một sinh
viên đồng học, và mặc dù gia đình phản đối, hai người vẫn lấy nhau và sống
3 năm rất hạnh phúc.
Cha của cô gái là lái xe cho
một công ty vận tải hàng. Một ngày, ông ta chở hàng từ miền Nam lên Đài
Bắc. Dọc đường, xe ông cán chết một người đi đường. Người đó chính là con
rể của ông ta. Thực là một ngẫu nhiên bất hạnh, không thể nói xiết được.
Cô gái, với người con 3 tuổi,
không có cách gì sống được ở Đài Bắc, chỉ có thể trở về miền Nam sống với
cha mẹ. Hàng ngày gặp người lái xe đã cán chết chồng mình, mà người đó lại
chính là cha mình, mâu thuẫn trong nội tâm cô ta thật là đau đớn.
Còn người cha thì hằng ngày gặp
con gái mình, rất lấy làm đau lòng nhưng không làm sao được. Làm sao ông
biết được người rể của ông trên đường ông đang chạy xe, và bị xe ông cán
chết?
Trong thư, ngườ i con gái hỏi
tôi: “Đó là do nhân duyên gì?”
Tôi không trả lời được. Làm
sao có một tình tiết kiểu “điện ảnh” như vậy xảy ra trong đời sống hiện
thực? Có đấy, tôi có đọc một truyện gián điệp rất có ý nghĩa như sau: “Đầu
cuộc thế giới đại chiến lần thứ nhất, có một gián điệp người Đức tên là
Karl đến Pháp làm tình báo, bị Pháp bắt được và giam lại, rồi lấy danh
nghĩa của Karl cung cấp tin tình báo giả cho Đức, sau đó lại thu thập tin
tình báo của Đức gởi cho Karl”.
Ba năm sau, Karl được trả tự
do. Bên Pháp thu được một khoản tiền lớn, là tiền lương hàng tháng của
Karl. Không biết dùng làm gì, bèn mua một chiếc xe hơi đặt tên là Karl, để
kỷ niệm việc dùng tên người này mà thu thập được nhiều tin tình báo
quan trọng.
Một ngày năm 1919, chiếc xe hơi
đó đang chạy trên đường thì cán chết một người. Mà người đó lại chính là
Karl, một gián điệp lừng danh thế giới”.
Tôi đọc truyện ấy rất đỗi kinh
ngạc. Sao trên đời này lại có những ngẫu hợp lạ lùng như vậy? Có đấy, nhất
là những truyện liên quan đến ái tình và cừu hận.
Không có người nào, kể cả người
rất giàu, dám nói với người khác: “Tôi hoàn toàn hiểu rõ ái tình”
(hay là cừu hận).
Bởi vì ái tình cũng như cừu hận
đều không thể tăng theo lũy tích được, lần này, anh nói bị thất bại trong
luyến ái, và anh nghĩ rằng: “Lần sau, tôi sẽ khéo và thông minh hơn,
tôi có thể yêu đương thành công hơn”. Nhưng, anh lại có thể thất bại
lần nữa.
Luyến ái vĩnh viễn không có
cách nào tích lũy kiến thức, trí tuệ “cho anh đâu”. Đối với cừu hận cũng
vậy. Bởi vì, mỗi lần yêu đương hay hận thù đều có bộ mặt riêng của nó.
MỞ MANG TRÍ TUỆ TRONG
LUYẾN ÁI VÀ HẬN THÙ^
Người học Phật nên giải quyết
vấn đề luyến ái và hận thù như thế nào cho phải?
Cũng tức là trong luyến ái và
hận thù, tìm sự giác ngộ như thế nào? Trong luyến ái và hận thù, mở mang
trí tuệ như thế nào? Làm thế nào gạt bỏ được bộ mặt bên ngoài của luyến ái
và hận thù để thấy được bộ mặt thật ở bên trong!.
Trong kinh Phật có câu chuyện
này:
Một ngày, Phật cùng với học trò
đến một địa phương, thấy một số tín đồ đạo Bà-la-môn tập họp và tụng kinh
xung quanh xác một người chết. Học trò hỏi Phật: “Họ tập họp xung quanh
người chết như vậy để tụng kinh, thì có thể làm cho người chết tái sanh
lên các cõi lành được không?”
Phật không trả lời mà hỏi lại
học trò: “Nếu đem một hòn đá ném xuống giếng, rồi tập họp người xung
quanh giếng tụng kinh cầu cho hòn đá nổi lên, thì hòn đá nó có nổi lên mặt
nước không?"
Các học trò đều trả lời: “Hòn
đá không thể nổi lên được”.
Phật lại hỏi: “Vì sao?”
Học trò trả lời: “Hòn đá vì
bản chất nó không nổi lên được”.
Phật nói: “Điều này cũng
giống như những người Bà-la-môn kia, khi họ tụng kinh xung quanh người
chết vậy. Khi hành vi của bản thân một người quyết định mạng vận của người
ấy sau khi chết rồi, thì người khác không có cách gì thay đổi được”.
Đọc câu chuyện này, tôi kinh
sợ: Một người chết rồi lại dựa vào người khác để thay đổi mạng vận của
mình! Hi vọng thật là mỏng manh xa vời, cũng như hòn đá chìm xuống giếng
rồi, khiến nổi lên sao đặng. Nếu hiện nay, không ra sức nâng cao bản thân
mình, thì có khác gì mạng vận của hòn đá bị ném xuống giếng!
Bài học của câu chuyện đó là:
1. Tự giác là điều trọng yếu
nhất. Người khác có thể sám hối, hồi hướng, tụng kinh hộ cho mình, tuy
cũng có công đức lớn nhưng vẫn là hạn chế.
2. Phật giáo có tính nhân gian
rất mạnh. Nếu như ở đời này, thế gian này, anh không có cách nào tự giải
thoát thì sau khi chết đi sẽ rất khó giải thoát; khi còn sống, không giải
quyết được vấn đề thì sau khi chết đi, cũng sẽ không giải quyết được vấn
đề.
3. Hành vi của người có thể
quyết định tương lai của người đó, quyết định đời sống tiếp sau của người
đó, quyết định bước chuyển của người đó trong luân hồi. Hành vi của con
người có thể quyết định tất cả.
SUY NGHĨ LẠI HÀNH VI VÀ NHÂN
SANH ^
Qua câu chuyện kể trên, mới
thấy được “hành vi” của con người thực là trọng yếu.
Làm người mà có hành vi và ý
nghĩ yêu thương và hận thù là chuyện rất tự nhiên. Một người không có yêu
thương, cũng không có hận thù sẽ bị xem như là kỳ dị. Do yêu thương mà
chúng ta có các hành vi này, hành vi khác kể cả từ bỏ sinh mạng, còn đối
với người mình oán hận, thì thậm chí một trang giấy mình cũng không muốn
bỏ ra.
Tuy rằng yêu thương, hận thù là
chuyện rất tự nhiên, nhưng ban đêm, khi tinh thần vắng lặng, sáng suốt,
chúng ta hãy suy nghĩ lại vấn đề ấy xem sao?
Yêu thương, hận thù có phải là
bản chất của con người không?
Con người có thể hay không vượt
lên trên những tình cảm đó để sống với một đời sống an tịnh?
Làm người, phải chăng cả đời
đều phải quanh quẩn trong vòng yêu thương, hận thù hay sao?
Biết suy nghĩ như vậy, thì sẽ
phản tỉnh và tìm ra được lối suy nghĩ mới.
Một người nếu sống đến tuổi 70,
tức là đã sống qua 2 vạn, năm nghìn, năm trăm năm mươi ngày, cũng tức là
61 vạn 3 nghìn 2 trăm giờ, hay là 3.679 vạn 2 nghìn phút. Nếu tính thành
khắc, thì sẽ là 22 ức, 752 vạn khắc (Khắc là giây (30 giây bằng một phút);
1 ức = 100 triệu. 22 ức = 2.200.000.000). Một thời gian dài như vậy dùng
để làm gì?
Bạn tôi có một ví dụ rất hay.
Hơn 2 vạn 5 nghìn ngày sinh mạng có thể ví với 2 vạn 5 nghìn đồng gởi ngân
hàng, chỉ có điểm khác là ngân hàng sinh mạng quy định mỗi ngày chỉ được
phép rút một số tiền nhất định để chi dùng mà thôi. Mỗi ngày chỉ được dùng
một số tiền. Tự nhiên số tiền ấy rất có giá trị. Người rút tiền phải suy
nghĩ, trong một ngày dùng số tiền đó như thế nào. Mỗi ngày trước khi ngủ,
phải suy nghĩ xem số tiền đó trong ngày có được dùng vào những việc có ý
nghĩa hay không; nếu đó hoàn toàn là những việc vô nghĩa thì số tiền đó
xem như là đã hoang phí.
Mỗi ngày, một người làm việc
bình thường tám tiếng, ngủ tám tiếng và nghỉ ngơi tám tiếng. Suốt ngày
công tác rất là bận. Thu được tiền vào cũng có hạn. Để có số tiền thu vào,
cũng phải rất gian khổ. Bởi vì ngoài công tác ra, còn có các vấn đề nhân
sự phải xử lý, và trong xử lý, thế nào cũng có mâu thuẫn.
Trong công tác thường có những
nỗi khổ lớn, mà đức Phật nói, tức là xa người mình mến: người mà anh ưa
thích không phải là đồng sự của mình. Gần người mình ghét: người mình
ghét, lại hàng ngày làm việc với mình. Cầu không được: mỗi tháng đều muốn
tăng lương mà không được; hàng ngày trong công việc, gặp những thứ phiền
muộn. Có thể nói trong số một trăm người làm việc ở thời buổi này, hết
chín mươi người không làm việc được thoải mái.
Rất nhiều người đến gặp tôi và
kể về hoàn cảnh công tác khó khăn của họ. Có thể thấy vấn đề lớn của
con người hiện đại là rất ít người hiểu rõ được ý nghĩa của nhân sinh quan
trong công tác. Đặc biệt là những người thuộc lứa tuổi thành niên của
chúng tôi, phải làm việc để nuôi sống gia đình, mỗi chiều tối đi làm việc
về, vắt tay lên trán tự hỏi: Vì sao lại phải sống qua ngày như thế này?
Trong kinh Phật, có câu chuyện
như sau:
Có con một nhà giàu, dùng đạn
vàng để bắn chim. Mọi người đều cho anh ta là ngu xuẩn. Vàng là cái
quý báu nhất, lại đem bắn chim. Nếu bắn trúng thì còn được, nhưng đại bộ
phận đạn bắn ra đều không trúng đích, bay đi đâu không ai biết.
Đức Phật mượn chuyện cổ tích
“Đạn vàng bắn chim” để răn dạy chúng ta rằng, số đông người đều dùng sinh
mạng rất quý báu để làm những việc không có ý nghĩa, không có lợi ích đối
với bản thân.
Hàng ngày, vẫn có một số người
sống như gã con nhà giàu trong truyện, lấy đạn vàng bắn chim sẻ. Dùng thời
gian rất quý báu để đổi lấy đồng lương không có giá trị, hay chỉ có giá
trị ít ỏi. Trong công tác lại không thấy có tiến bộ. Phải chăng đó là 8
giờ công tác bị lãng phí?
Còn 8 giờ ngủ?
Phần lớn 8 giờ ngủ là trải qua
những giấc mơ, phản ứng lại những sự cố trong ngày. Những tình cảm bị ức
chế trong ngày lại bộc phát kịch liệt trong giấc mơ ban đêm. Giấc mơ cũng
đầy rẫy những chuyện đáng sợ, ít có giấc mơ tốt đẹp làm tăng trưởng trí
tuệ. Như vậy, 8 giờ ngủ ban đêm cũng là lãng phí.
Còn 8 giờ nghỉ ngơi còn lại thì
sao?
Thông thường, đàn ông thì giao
tiếp bạn bè, phụ nữ thì xem truyền hình, phần lớn số tiền kiếm được trong
công tác gian khổ, đều đem chi dùng cho sự nghỉ ngơi. Trước ngày
lập gia đình thì đại bộ phận thời gian nghỉ ngơi, đàn ông dành cho hẹn hò,
uống cà phê, nói chuyện điện thoại. Sau khi kết hôn thì thời gian nghỉ
ngơi lại dành để vợ chồng cãi nhau, to tiếng, thậm chí còn đánh nhau nữa.
Đánh nhau rồi, lên giường, vợ chồng mỗi người nằm một góc giường, mỗi
người theo đuổi dòng suy nghĩ riêng của mình. Thế là 8 giờ nghỉ ngơi trôi
qua!
Tóm lại, 8 giờ công tác là 8
giờ theo đuổi dục vọng, 8 giờ nghỉ ngơi là 8 giờ thỏa mãn dục vọng, 8 giờ
ngủ là 8 giờ mê mờ trong dục vọng.
Sống qua những ngày như vậy,
thực là đáng sợ. Dù có tới 22 ức giây phút cũng là trôi qua mau chóng một
cách hư vọng.
Những người sống như vậy là
phàm phu. Trong chữ phàm có một điểm tâm
凡.
Đó là cái tâm theo đuổi dục vọng. Nếu bỏ được cái tâm ấy đi, thì con người
trở nên thanh tịnh.
Cái tâm trong chữ phàm là cái
tâm luyến ái và thù hận, là cái tâm khiến cho chúng ta lẩn quẩn ở trong
thế gian này.
THƯƠNG YÊU, HẬN THÙ LÀ CÓ
THỂ THAY ĐỔI^
Mỗi cá nhân chúng ta đều đã nếm
mùi ái tình. Nếu ái tình mà thất bại thì sinh ra hận thù. Ái tình, thù hận
đan xen nhau mà sản sanh ra. Yêu biến thành hận; tình biến thành thù.
Người yêu chia tay với mình rất khó trở thành bạn tốt của mình được, bởi
vì mình không có cách nào khác tha lỗi cho đối phương, vì lòng thương
trước đây đã biến thành hận thù rồi.
Khi tình yêu đã biến thành hận
thù, mà hóa giải hận thù thành ra không có gì hết, là chuyện hết sức khó
khăn. Nhưng nếu gắng sức thì vẫn có thể làm được.
Khi đã thương yêu đến mức có
thể hi sinh tính mạng thì cũng có thể làm nhiều chuyện ngốc xuẩn, như là
dầm mình trong mưa, lấy dao cắt ngón tay để viết bức thư tình bằng máu
(nhưng đối phương nghĩ là anh dùng thuốc màu để viết). Thậm chí, nếu người
yêu bảo anh nhảy từ trên lầu cao xuống để chứng tỏ tình yêu say đắm, anh
cũng nhảy. Khi còn nhỏ, tôi cũng là con người như thế.
Có người tự sát vì thất tình.
Vì sao? Vì muốn tỏ cho người yêu biết, mình yêu cô ta nồng nàn tới mức
nào, và cũng muốn chứng minh cho bản thân mình thấy là mình thành tâm yêu
cô ta tha thiết. Chỉ vì như vậy thôi mà hy sinh cuộc sống quý báu của
mình?
Khi tôi còn nhỏ, tôi cũng bị
thất tình, cũng muốn tự sát. Lại còn cho rằng, trên thế giới này người mà
không có tư tưởng tự sát, nhất định là người ngu. Đã là người tài hoa thì
phải có tư tưởng tự sát!
Có bao nhiêu chuyện thú vị về
vấn đề này. Người bị thất tình vì muốn tự sát cho rằng sống trên thế gian
này không còn có ý nghĩa gì nữa. Đó toàn là những người bị hãm vào cảnh
yêu thương và hận thù mãnh liệt, không cách nào thoát ra được, nếu may mà
thoát ra được cơn khốn quẩn đó thì sẽ thấy không tự sát thực là hạnh phúc!
Như vậy, chúng ta thấy rất rõ,
luyến ái và hận thù đều có tính không gian và thời gian, không thể bao hàm
tất cả mọi thời gian và không gian được.
Thí dụ , anh bị một người hàng
xóm lừa lấy một món tiền, rồi người ấy bỏ trốn sang Mỹ. Anh không cách
nào đòi lại số tiền ấy được. Qua ba năm, lại vì đường xá xa xôi, anh cũng
quên mất số tiền nợ đó. Bởi vì mối hận thù của anh cũng đã vơi đi nhiều.
Yêu thương hay hận thù đều có
thể biến đổi. Suốt cả đời chỉ yêu một người hay ghét một người đều là
chuyện khó khăn, bởi vì thời gian làm thay đổi tâm tính của chúng ta.
Cô gái mà ngày xưa tôi yêu mến
đến mức muốn tự sát, thì vài năm sau, ngồi trong phòng làm việc, cố gắng
mãi cũng không hình dung được dáng mặt thân hình của cô ta như thế nào.
Lúc này, tôi mới thấy rõ, tôi hoàn toàn thoát khỏi vòng khốn quẫn của mối
tình xưa!
Cho nên, phương pháp tốt nhất
để giải quyết vấn đề yêu đương và hận thù là đột phá sự hạn chế của không
gian và thời gian, đứng ở một vị trí cao hơn để xem xét.
MỘT VỊ TRÍ TƯƠNG ĐỐI CAO
HƠN, VỚI TRÍ TUỆ MỚI HƠN^
Có một loài cá, gọi là đấu ngư.
Muốn nuôi giống cá này, phải nuôi riêng mỗi con một nơi, nếu không thì
chúng sẽ tàn sát nhau. Ngay đối với con cá nuôi riêng lẻ, nếu đặt trước
chậu nước một cái gương soi thì con cá cũng sẽ húc đầu tấn công vào cái
gương cho đến khi nó chết mới thôi.
Lúc đầu, tôi rất lấy làm lạ về
tính chiến đấu của giống cá này, không hiểu làm sao quần thể giống cá này
có thể sinh sôi được. Sau khi nghiên cứu mới hiểu, giống cá này có thói
quen, mỗi con sống ở một địa bàn riêng, không được xâm phạm địa bàn của
nhau. Ở sông và suối, địa bàn không gian rộng, mỗi con sống ở địa bàn
riêng của mình, tự nhiên có thể hòa bình cùng tồn tại, không xâm phạm lẫn
nhau. Còn nếu nuôi giống cá này trong cùng một chậu nước thì chúng phải
đánh nhau đến chết mới thôi.
Nếu mở rộng không gian thì sẽ
phát hiện đấu tranh không còn có ý nghĩa gì nữa.
Con người hiện đại đấu tranh
là vì không gian quá hẹp, và người nào cũng muốn nới rộng phạm vi thế lực
của mình.
Đột phá sự hạn chế của không
gian và thời gian thì có thể giải quyết vấn đề yêu thương và hận thù. Tuy
nhiên, nói như vậy, cũng không phải là dễ hiểu.
Có lần, tôi từ Đài Bắc, đáp phi
cơ đi Cao Hùng. Sau khi phi cơ bay, tôi nhìn thấy dưới đất có một quả núi
đẹp đẽ lạ lùng, đầy hoa màu lam, màu xanh, màu hồng. Tôi lấy làm lạ, sao
mình ở Đài Bắc cũng đã lâu rồi mà không biết có núi đẹ p đẽ dường này, bèn
hỏi một thiếu nữ ngồi gần: “Thưa cô, nhờ cô xem hộ tôi, xem núi đẹp kia
là ngọn núi nào?” Cô gái liếc mắt ngó xuống rồi trả lời: “Đó là núi
Lạp Sắc”.
“Núi Lạp Sắc!”
Núi Lạp Sắc này, nhìn dưới đất
thì không đẹp, và còn dơ bẩn nữa, cho nên mới có tên như vậy (Lạp sắc
: bụi bặm, dơ bẩn), nhưng nhìn từ trên cao xuống thì lại khác hẳn, vì sao?
Vì có một không gian rất rộng, và nhìn từ cự ly xa!
Trong cuộc sống, chúng ta gặp
rất nhiều chuyện tình ái và hận thù, giống như núi Lạp Sắc vậy. Sở dĩ
chúng ta không kham nhân chịu đựng nổi là vì chúng ta ở ngay trong núi Lạp
Sắc, nếu chúng ta ở mộ t vị trí cao hơn thì núi Lạp Sắc không còn đáng ghê
sợ, và chúng ta cũng đỡ bị nguy hại.
Ban đêm, tôi ngồi viết thường
nghe tiếng như trẻ con khóc, kỳ thực không phải là tiếng trẻ con khóc mà
là tiếng mèo kêu. Tiếng mèo kêu thực đáng sợ, đủ làm cho người ta sởn tóc
gáy. Vì sao con mèo lại kêu dễ sợ như vậy? Đó là tiếng gọi ái tình của con
mèo. Tiếng kêu đó có thể làm cho mèo cái xiêu lòng!
Nghe tiếng gọi ái tình của mèo,
tôi thấy mình thực là may mắn, vì con người có thể có thái độ hòa dịu
hơn để nói chuyện tình yêu.
Trước đây, tôi có nuôi một con
mèo Xiêm. Lớn lên, nó cũng kêu gọi ái tình. Tôi sợ mất con mèo Xiêm quý,
cho nên đóng chặt cửa không cho con mèo đi đâu cả. Nhưng có một ngày nó
xổng qua cửa sổ mất hút. Năm ngày sau mới về cả mình mẩy đầy thương tích,
một bên tai đứt hẳn, chân lại bị què.
Tôi nhìn con mèo mà sững sờ.
Một mặt băng bó thương tích cho nó, một mặt nghĩ rằng, giống mèo làm
chuyện ái tình thực là kinh thiên động địa, với tất cả tính thú vật của
nó. Thực là may mà giống người chúng ta không làm chuyện ái tình đến mức
độ ác liệt như vậy.
Nhưng chúng ta lại có thể thấy
rất nhiều người làm chuyện ái tình cũng không khác giống mèo! Làm đến mức
bản thân bị tổn thương hay là cả hai bên đều bị tổn thương.
Điều này giúp tôi nhận thức
được rằng, nếu thay đổi quan điểm để nhìn cùng một sự kiện thì sẽ sanh ra
trí tuệ mới.
Hãy mở rộng không gian để nhìn
sự kiện mà chúng ta gặp phải: Những khó khăn và thất bại, luyến ái và thù
hận. Chúng ta sẽ phát hiện thấy sự thực, ảnh hướng của chúng cũng không
lớn lao mạnh mẽ gì, chúng ta sẽ thấy, ngày trước bị ái tình hay thù hận
làm cho khốn quẫn, thực là ngu xuẩn.
THẤY RÕ THỰC TƯỚNG CỦA NHÂN
DUYÊN ^
Đứng trên quan điểm Phật giáo
mà nói, thì trong phương pháp tu hành của Phật giáo, điều cơ bản nhất là
thay đổi quan niệm về không gian và thời gian để đối xử với hiện thực.
Đối với thời gian chẳng hạn,
cần nhận thức rằng, trước khi chúng ta sanh, thời gian đã tồn tại, và sau
khi chúng ta chết, thời gian vẫn tồn tại. Do đó mà có quan niệm về ba đời:
quá khứ, hiện tại và vị lai.
Đối với không gian, chúng ta
cũng cần có quan niệm mở rộng thì mới hiểu được đạo lý luân hồi và nhân
quả. Cuộc tình duyên hiện tại của chúng ta chỉ là cuộc tình duyên cmột đời
sống trước chưa kết thúc; mối hận thù hiện tại chỉ là một mối oan trái đời
sống trước chưa trả xong. Nghiệp chướng cũng chỉ là món nợ của chúng ta
đối với thế giới này, sẽ được bồi hoàn dần dần với cuộc sống này của chúng
ta.
“Vô minh” là một sức mạnh đen
tối đang làm chúng ta đau khổ hiện nay, nó từ ở đâu đến nhỉ? Nó đến từ một
thời vô thỉ, từ vô số lượng kiếp trước không kể xiết được, và từ một không
gian rất lớn, vô cùng.
Chúng ta thực không hiểu rõ, từ
các kiếp trước, chúng ta đã gây ra bao oan trái, mà hiện nay, chúng ta
gặp lại bao nhiêu điều bất hạnh như bị chà đạp bị vu nhục, bị đào thải.
Nếu nghĩ rằng, trước đây, chúng ta cũng đã từng biết bao nhiêu lần chà
đạp, vu nhục, đào thải những người khác? Cứ nghĩ như vậy, chúng ta sẽ bớt
oán giận.
Có hai quan điểm, có thể rút ra
từ suy nghĩ trên:
Một là yêu thương hay oán giận
không thể không có nguyên do của chúng.
Hai là bản chất của yêu thương
và oán giận là một.
Đối với người tu hành, thì
thanh toán hết các món nợ quá khứ còn lại là việc làm trọng yếu nhất. Sám
hối, hồi hướng cứu giúp người khác... tất cả những việc là m đó là để trả
nợ. Một trong những bộ kinh Phật quan trọng là Kinh Lăng Nghiêm. Một nửa đầu
của bộ kinh nói về quan niệm “bồi hoàn”, trả nợ. Chỉ sau khi chúng ta trả
lại sáu căn tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cho trời đất, trả lại sáu
trần tức là sắc, thanh, hương, vị , xúc, pháp cho thế giới này thì chúng
ta mới có thể thấy được minh bạch Phật tánh của chúng ta.
Thế nhưng, công việc “bồi hoàn”
không phải là vứt bỏ sáu căn, sáu thức của chúng ta, mà đầu tiên là phải
mở rộng không gian và thời gian, thì mới có thể thấy được thực tướng của
nhân duyên.
THIỀN ĐỊNH VÀ BÁT NHÃ,
LÀM CHO TÂM TÍNH KHÔNG DAO
ĐỘNG ^
Muốn cho yêu thương và oán giận
không làm dao động tâm tánh của chúng ta, có hai phương pháp:
Một là thiền định, sẽ giúp
chúng ta đoạn trừ được ảnh hưởng của tình ái và thèm muốn.
Hai là Bát nhã, tức là lấy trí
tuệ để mở rộng quan điểm của chúng ta về không gian và thời gian, thấy rõ
được lý chân không diệu hữu.
Nói như trên quá huyền diệu.
Nhưng có một ví dụ có thể dùng để minh họa. Một ví dụ mà mọi người đều
biết, nhưng tôi sẽ giải thích theo một quan điểm khác.
Thần Tú là người học trò giỏi
của Tổ thứ năm Hoằng Nhẫn, bất luận về mặt học vấn, tri thức hay là công
phu thiền định. Nhưng ông vẫn không được truyền y bá t tuy trình độ tu
hành của ông rất cao, nhưng đáng tiếc là trong lịch sử, tên tuổi của ông
bị ánh sáng của Huệ Năng che mờ.
Câu kệ của Thần Tú được nhiều
người thảo luận:
“Thân như Bồ đề thụ,
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức,
Mặc sử nhạ trần ai”
(Thân như cây Bồ đề,
Tâm như đài gương sáng,
Luôn luôn siêng quét lau,
Chớ để dính bụi trần)
Ý tứ bài kệ là: Muốn có trí tuệ
Bồ đề phả i giữ cho được cái gương tâm thức được trong sáng. Và để giữ
gương được trong sáng thì phải luôn lau chùi, đừng để cho trong tư tưởng,
tâm niệm của mình có cái gì nhơ bẩn dính vào.
Có thể xét bài kệ trên của Thần
Tú trên ba giác độ:
Một là bài kệ của Thần Tú vẫn ở
trong phạm vi “hữu” (có). Có cái thân này, cái tâm này, có bụi bặm. Do đó,
chưa hiểu được triệt để “tính không” của sự vật.
Hai là Thần Tú cho rằng Thiền
có mục tiêu để đạt tới. Mục tiêu và phương pháp là quét chùi thật sạch,
quét chùi không ngừng mọi bụi bặm trong tâm thức. Thế nhưng, mục tiêu của
Thiền không phải là quét chùi bụi bặm của tâm. Công năng của thiền định
không phải là để “có” được một cái gì hết.
Ba là Thần Tú cho rằng, một
người muốn nhập cảnh giới Thiền, thì phải phấn đấu không ngừng (luôn luôn
lau chùi bụi bặm nơi tâm). Muốn nhập cảnh giới thiền, đúng là phải phấn
đấu. Thế nhưng, kinh Phật lại dạy chúng ta Bát nhã là không có tranh đấu,
là không có Người, Ta không có mục tiêu có thể đạt tới. Bài kệ của Thần Tú
được xem là chưa ngộ đạo, không có cách nào để thấy được thực tướng chân
chính.
Còn bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng
là:
“Bồ đề bổn vô thụ
Minh kính diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai!”
(Bồ đề vốn không có cây,
Gương sáng cũng không đài,
Xưa nay vốn không có vật nào
hết,
Có nơi nào để dính bụi?)
Bài kệ của Huệ Năng cũng có thể
xét trên ba giác độ:
Một là bài kệ này nói về thực
tướng của Bát nhã. Không có một danh tướng nào có thể bao hàm Bát Nhã,
không thể nói Bát nhã là “cây Bồ đề” hay “đài gương sáng”, không thể nói
Bát nhã là “cái này” hay “cái kia”, hay “một cái gì đó cố định”, Bát nhã
chính là Tánh không tuyệt đối.
Hai là công phu thiền định là
để mở cửa Bát Nhã. Người nào thấy được tướng thật của Bát nhã, thì căn bổn
sẽ không có cửa để mở, cũng không có bụi bặm, căn bản không có nhiễm ô,
cũng không cần lau chùi.
Ba là ra sức cầu Bát Nhã tam
muội không có gì là sai. Nhưng nếu dừng lại trên ý nghĩa của sự tìm cầu đó
thì Bát Nhã “không phải là ở đây”.
Bài kệ của Thần Tú cho chúng ta
thấy Thiền định là quan trọng. Bài kệ của Huệ Năng cho chúng ta thấy,
ngoài thiền định ra, còn có một cái siêu việt thiền định, quan trọng hơn
thiền định. Đó là Bát Nhã. Bát Nhã là trí tuệ sâu xa vi diệu nhất.
TỪ THIỀN ĐỊNH VÀ BÁT NHÃ XEM
XÉT LUYẾN ÁI VÀ HẬN THÙ ^
Một người dùng công phu Thiền
định để khắc phục tình dục là chuyện hết sức khó khăn và gian khổ, nhất là
con người hiện đại, có nhiều vọng niệm lại càng khó dùng công phu Thiền
định để khắc phục tình dục.
Nhà văn Nhật Bản Thực Đốc có
viết một truyện cổ tích nội dung như sau: có một vị tiên, tên là Cửu Mễ vì
thất tình cho nên xuất gia tu hành, cho rằng đó là phương pháp tốt nhất để
giải quyết tình dục. Ông tu hành trong núi 30 năm, và tự cho rằng mình đã
hoàn toàn khắc phục được tình dục. Lúc bấy giờ, ông đã có được nhiều phép
thần thông bèn gọi một đám mây lại, nghĩ rằng sau khi mình đã hoàn toàn
chế ngự được tình dục thì có thể xuống nhân gian đi chơi một chuyến. Bèn
cưỡi mây đi chơi. Khi bay qua một con sông, ông thấy một phụ nữ đang giặt
quần áo. Ông lại gần xem xét thì động niệm: “Đùi cô gái này sao mà trắng
đẹp thế?” Niệm vừa động như vậy thì mây tản ra, nên ông rơi xuống đất!
Dùng phương pháp Thiền định để
khắc phục tình dục thì cũng giống như tiên ông Cửu Mễ, nhất là trong xã
hội hiện nay, con người hiện đại muốn dùng Thiền định để khắc phục tình
dục thì cũng giống như vào thời Phật Thích Ca còn tại thế, hầu như không
thể làm được. Trừ phi đó là người có năng khiếu đặc biệt, còn người bình
thường thì không thể.
Con người hiện đại, muốn khắc
phục tình dục, giải quyết tình dục thì phương pháp duy nhất là mở mang trí
tuệ Bát Nhã. Vì sao mở mang trí tuệ Bát Nhã lại có thể giải quyết được vấn
đề tình dục?
Bởi vì con người có một bản thể
siêu việt cảm quan. Dù rằng trước kia, anh có phạ m tội lỗi gì, có tình
yêu hay thù hận gì, bản thể đó cũng không bị ô nhiễm.
Khi học tập Thiền định, mà có
một tư tưởng xấu nảy sinh thì phương pháp của Thần Tú sẽ là đoạn trừ tư
tưởng đó. Sự vĩ đại của Lục Tổ Huệ Năng chính là ớ chỗ ông nhận thức được
rằng, trong con người có một bản thể không bị ô nhiễm, do đó có thể hoàn
toàn không cần xử lý bụi bặm trong đời sống, không cần phải chùi quét ý
thức khỏi tư tưởng xấu. Ông đề cao tâm tánh con người lên vị trí thanh
tịnh tối cao. Nhờ đứng ở vị trí thanh tịnh như vậy, cho nên đối với mọi
chuyện ở đời, dù là rất nhỏ nhặt cũng có thể dùng cái nhìn trực quan để
thấy rõ ràng minh bạch.
Nhận định chủ quan rằng, trong
con người, có một bản thể thanh tịnh không nhiễm, có thể giúp người học
Phật chúng ta có được niềm tin rất lớn, tức là dù có lúc mắc vào chuyện
tình ái cũng không có quan hệ gì. Bồ Tát là như vậy, nhờ chúng ta có niềm
tin đó, thấy rằng luyến ái cũng không làm ô nhiễm được tâm tánh chúng ta,
cho nên mới có thể có được thái độ tương đối tốt đẹp để đối xử vấn đề tình
dục.
Bây giờ hãy đứng ở giác độ khác
để nói chuyện. Thần Tú nói về một kinh nghiệm đặc thù của Thiền định. Ông
cho rằng muốn tu hành thì tâm phải được định tỉnh lại và luôn luôn chùi
quét tư tưởng.
Còn Lục Tổ Huệ Năng thì nói với
chúng ta rằng, Thiền định không phải là một kinh nghiệm gì đặc thù, nó
không khác gì kinh nghiệm của cuộc sống hằng ngày. Kinh nghiệm Thiền định
khai ngộ có thể rút ra được từ tất cả mọi kinh nghiệm.
Nói một cách giản đơn, Thần Tú
cho rằng phải dùng phương pháp thường xuyên quét sạch bụi bặm nơi tâm, thì
rồi mới có được cái tâm thật của con người.
Tâm thật của con người giống
như tâm của trẻ con, thiên chân, thong dong, không có hư dối, tức cái tâm
của con người dù có phải ngủ trong điện thờ Phật cũng ngủ được thoải mái.
Còn bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng
thì sâu sắc và cảm động lòng người hơn rất nhiều. Bài kệ của ông nói rằng,
cái chân tâm đó của con người ở đâu cũng có, nơi nào cũng có, bởi vì không
bao giờ bị nhiễm ô!
Nghe Lục Tổ Huệ Năng nói, người
nào mà không có được niềm tin lớn.
Chúng ta sống trong thế giới
này, tuy chúng ta bị bao nhiêu ràng buộc, thống khổ, thử thách, thế nhưng
về chủ quan chúng ta phải có nhận định: Chúng ta có một Phật tánh siêu
việt tất cả mọi chuyện đó!
KHÔNG CẦN BÀI XÍCH CẢM QUAN,
PHẢI KHÉO LÉO DÙNG CẢM QUAN
ĐỂ TU HÀNH ^
Ái tình hay thù hận của chúng
ta đều đến từ cảm quan. Một người sống trên thế giới này không thể không
có cảm quan. Cảm quan tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thông qua các
cảm quan, xâ m nhập vào nội thân thì có sắc âm thanh, mùi, vị, xúc, pháp.
Con người không thể thoát lìa
khỏi thế giới của cảm quan. Nếu hoàn toàn phủ định thế giới cảm quan, thì
cũng không thể sống trong thế giới này được. Một thế giới hoàn toàn mất
cảm quan là một thế giới đáng sợ. Một người mất cảm quan sẽ không thể phân
biệt các mùi phân, mùi thịt, mùi hoa sen. Anh ta sẽ không còn cách gì phân
biệt cái đẹp cái xấu, cái hay, cái dở của thế giới này.
Huệ Năng xác định là, ở đàng
sau cảm quan của chúng ta có một cái siêu việt cảm quan. Trong kinh Phật,
cái siêu việt cảm quan đó gọi là Phật tánh hay tự tánh. Điều rất có ý
nghĩa là cái siêu việt cảm quan đó, không phải từ trên hư không đến, mà
chính là từ ở cảm quan đến, cho nên chúng ta không được phủ nhận tầm quan
trọng của cảm quan.
Trong nửa phần sau của kinh
Lăng Nghiêm, Phật bảo với 25 vị Bồ Tát có mặt báo cáo về kinh nghiệm tu
hành của họ: 25 vị Bồ tát ấy báo cáo về 25 phương pháp tu hành. Xem đoạn
ấy của kinh Lă ng Nghiêm mới phát hiện thấy, đại bộ phận các vị Bồ Tát đều
khai phát tánh không, khai phát trí tuệ Bát Nhã từ 6 cảm quan: mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý.
Trong số Bồ Tát này, tôi nhớ có
một vị tên Hỏa Đầu Kim Cương, vốn rất mãnh liệt về tình dục. Nhưng ông lại
bắt đầu sự tu hành của mình, xuất phát từ lòng ái dục của ông, chuyển hóa
được lòng ái dục đó thành lòng từ bi đối với thế giới này, và cuối cùng,
ông chứng ngộ được Thật tánh là cái không thể bị hủy hoại–tức là Kim
Cương.
Trong Mật Tông, cũng có một vị
thần Kim Cương, gọi là Ái nhiễm Kim Cương. Vị này cũng vậy, xuất phát từ
tham ái, nhiễm trước mà khai ngộ, tu hành, chứng được quả vị.
Bây giờ, lấy Bồ Tát Quán Thế Âm
là m ví dụ, một vị Bồ Tát mà mọi người đều biết rất rõ. Bồ Tát Quán Thế Âm
tu hành như thế nào? Ngài dựa vào đâu để tu hành pháp môn mà trong kinh
Lăng Nghiêm gọi là “Nhĩ căn viên thông pháp môn”. Nghĩa là Ngài dựa
vào thính giác để tu hành. Ngài dùng thính giác để nghe những âm thanh nội
tại để nghe những âm thanh xin cứu khổ của chúng sanh. Dựa vào thính giác
mà Ngài chứng nhập tánh không, chứng ngộ được Bát Nhã của Phật, mở mang
được lòng từ bi và trí tuệ rộng lớn nhất.
Vì vậy tu hành không nhất định
là đóng bịt cửa các cảm quan lại, không nhất định là phải bịt tai lại hay
là cắt xẻo tai đi! Bồ Tát Quán Thế Âm từng dạy chúng ta rằng, phải khôn
khéo dùng tai của ngươi, lại có một số Bồ
Tát dạy chúng ta, hãy khôn khéo
dùng mũi, dùng mắt của ngươi. Chúng đều là công cụ tu hành cả.
LUYẾN ÁI VÀ HẬN THÙ ĐỀU LÀ
BÀI HỌC ĐỂ TU HÀNH ^
Bồ Tát đã biết lợi dụng cảm
quan để tu hành thì các chuyện luyến ái hận thù trong nhân gian không phải
là không có ý nghĩa. Nếu có người cho rằng đều là không có ý nghĩa thì
người ấy sẽ không thấy được cái có ý nghĩa hơn, ở đằng sau luyến ái và hận
thù. Tu hành như vậy không phải là tu hành theo Đại thừa, cũng không phải
là tu hành của nhân gian.
Các kinh Tiểu thừa bảo chúng ta
rằng, phải đoạn trừ mọi lòng ái dục mới có thể được giải thoát; mới có thể
ngộ được tự tánh; tu hành theo Đại thừa thì không như vậy. Về sự khác biệt
giữa Đại thừa và Tiểu thừa, tôi xin đưa ra hai ví dụ dễ hiểu:
Ví dụ thứ nhất là trồng cây.
Một ngườỉ muốn trồng cây, sau khi trồng, anh ta ra sức làm cho cây trồng
được lớn mạnh. Một người khác, khi bắt đầu trồng cây đã có ý định: Ta sẽ
bắt cây này có hình thù một cái dùi đầu tròn. Sau khi cây lớn, anh ta bèn
sửa sang cắt dọn để cây mang hình một cái dùi đầu tròn. Làm như vậy, anh
ta không làm cho cây lớn tốt được. Còn người thứ nhất thì đầu tiên tập
trung sức lại làm cho cây trồng được tốt, rồi sau mới lo cắt dọn. Đó là
phương pháp của Đại thừa. Còn phương pháp của người thứ hai là phương pháp
Tiểu thừa.
Tu hành ở nhân gian, điều quan
trọng nhất là trồng cây của anh cho tốt. Trồng cây của anh cho tốt là thế
nào? Nghĩa là làm cho anh có tâm từ bi rộng lớn, có trí tuệ rộng lớn. Sau
đó mới sử dụng lòng từ bi và trí tuệ của anh, để xem xét luyến ái và hận
thù. Xem xét như vậy sẽ thấy sự vật rất rõ ràng, minh bạch.
Ví dụ thứ hai là trồng hoa.
Người Tiểu thừa trồng hoa, thì chỉ trồng một cây hoa. Nếu gần cây hoa đó
có cỏ mọc thì lập tức nhổ cỏ đi. Chỉ canh cánh chăm sóc cho cây hoa mọc
tốt là được. Còn người Đại thừa thì trồng rất nhiều hoa, vì có rất nhiều
người cần tới hoa của anh ta, và anh ta cũng không ngừng gởi hoa đến những
người khác. Vì phải chăm sóc nhiều cây hoa như vậy, và phải làm cho cây
nào cũng lớn tốt, cho nên có lúc không chú ý được tới những cỏ dại, mọc
lên giữa các cây hoa. Chờ khi các cây hoa lớn, nếu có một vài sợi cỏ cũng
không thành vấn đề. Nhưng nếu chỉ trồng có một cây hoa mà thôi thì chỉ một
ít cỏ cũng thành vấn đề rất nghiêm trọng.
Hiểu như vậy rồi, sẽ có quan
điểm rất tốt để xem xét vấn đề dục vọng của nhân gian. Tôi luôn luôn tin
rằng, mọi sự vật ở thế gian này đều thuộc phạm vi tu hành của con người,
mọi đối tượng chúng ta gặp trong nhân gian đều là đối tượng của từ bi, chứ
từ bi không phải chỉ là mua cá hay chim để rồi thả gọi là phóng sanh. Anh
gặp một người đau khổ trên đường, người ấy cũng là đối tượng từ bi của
anh. Mỗi nhân duyên gặp gỡ đều là nhân duyên khai mở trí tuệ, ở bất cứ nơi
nào hay lúc nào đều có thể tu tập Thiền định. Đối với người học Phật, sống
một ngày là một ngày tu hành.
Rất nhiều Phật tử, mỗi ngày đêm
đều lên khóa lễ sớm chiều nghiêm túc. Sáng dậy, lập tức đánh chuông đánh
mõ tụng kinh. Tối đến cũng như vậy. Trong chùa Phật là người thành kính
thanh tịnh, ra khỏi chùa thì lập tức biến thành người khác rồi. Tu hành
như vậy là không triệt để. Trong chùa, ngoài chùa, và ở khắp mọi nơi, sự
ứng xử của chúng ta phải không thay đổi.
Đối với người yêu, chúng ta hy
vọng người yêu cũng như mình đều có được đời sống hạnh phúc. Nhưng nếu
chẳng may, tình yêu không thành thì cả hai người đều rút ra được bài học
trong thất bại, mở mang trí tuệ, đi theo con đường trí tuệ. Đó chính là
khóa tu hành của chúng ta: là sự giác ngộ trong ái tình, và có lòng khoan
dung đối với người mình thù hận, thậm chí còn cười với họ nữa.
Giữa những người cấp tháo nóng
nảy, hãy chịu đựng và bình tĩnh.
Giữa những người hung bạo hãy
ôn hòa.
Giữa những người có lòng tham,
hãy sống khẳng khái.
Giữa những người buồn khổ, hãy
sống từ bi.
Giữa những người lòng tràn đầy
cừu hận, hãy sống với lòng không hận thù.
Tất cả những cái đó đều là công
khóa tu hành.
Cho nên, luyến ái và hận thù
đối với chúng ta cũng là công khóa tu hành.
KHIẾN CHO DANH HIỆU PHẬT VÀ
TÂM NIỆM CHÚNG TA THỐNG NHẤT
^
Có người miệng thì niệm Phật
nhưng hành vi vẫn ác xấu. Niệm Phật như vậy sẽ không có hiệu quả. Mà phải
làm cho danh hiệu Phật và tâm niệm chúng ta thống nhất với nhau.
Cũng như thiền định không nhất
định phải ngồi thiền mới có kết quả. Mỗi người, trong cuộc sống thường
ngày của mình, đều có thể đạt được thiền định. Một người lắng nghe âm
nhạc, một người chuyên tâm suy nghĩ, đến mức người ngoài gọi mà không hay,
sự chuyên chú ấy cũng giúp họ đạt được định tâm. Người nhập thiền chân
chính cũng là như vậy, tức là không bị ngoại cảnh làm xao động.
Nhờ chuyên chú nên đạt tới cảnh
giới quên mình, đó là một loại định, nhưng loại định này không được sâu
sắc sáng láng như tam muội định, hơn nữa nó là từ ở bên ngoài vào, thí dụ,
nhờ vào tiếng nhạc mới có định. Chỉ có định khai thác từ bên trong mới có
được kiến địa (chỗ thấy), có kiến địa mới có Bát Nhã.
Chuyên chú là một phương pháp
để nhập định. Sự chuyên tâm sâu sắc vào cảnh giới định có thể giúp làm cho
tâm thần được thống nhất. Chúng ta không phải từ bỏ cảm quan như là một
cái gì xấu, mà chúng ta phải biết lợi dụng cảm quan của chúng ta. Các pháp
môn thiền định đều dựa vào cảm quan mà tu hành. Trong sinh hoạt, giờ phút
nào cũng là tu hành. Như vậy, trong một ngày, 24 tiếng đồng hồ, lúc nào
cũng giữ được trạng thái giác ngộ rất tốt bất cứ ở đâu và khi nào cũng ở
trạng thái tỉnh giác đó thì sẽ có một ngày bỗng nhiên bừng sáng, khai ngộ.
Các vị đại Thiền sư ngày xưa
cũng giác ngộ theo kiểu như vậy. Sự giác ngộ của các vị ấy không phải do
thiền định, mà là do trong mỗi giờ phút họ đều giữ được tâm trạng tỉnh
giác.
Người tu tập phương pháp bổn
tôn của Mật giáo đều biết tu theo phương pháp bổn tôn thì phải quán tưởng,
trì chú, bắt ấn, có người mỗi ngày tu hành vài giờ như vậy, cảm thấy rất
đủ rồi, kỳ thực vẫn chưa đủ.
KHIẾN CHO TÂM MÌNH VÀ TÂM BỒ
TÁT ẤN CHỨNG NHAU ^
Bổn tôn tu tập là thế nào? Tức
là gặp bất cứ vật gì, cũng đều xử trí như là ở trong tâm mình, có bổn tôn
đang ngồi. Thí dụ, tu theo phép thờ Bồ Tát Quán Thế Âm là Bổn tôn, khi gặp
sự kiện gì, sự vật gì chúng ta cũng đều xử trí như là Bồ Tát Quán Thế
Âm đang ngồi trong tâm chúng ta. Dùng quan điểm của Bổn tôn (Bồ Tát Quán
Thế Âm) để đối xử với thế giới này, dùng con mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm để
nhìn thế giới này. Trong cuộc sống mà gặp khó khăn, gặp luyến ái hay hận
thù thì phải suy nghĩ: Bồ Tát Quán Thế Âm gặp phải hoàn cảnh khó khăn này
thì Ngài giải quyết thế nào? Nếu Ngài gặp phải cảnh ngộ luyến ái hay thù
hận như thế này thì Ngài giải quyết ra sao? Gặp bất cứ sự vật gì đều suy
nghĩ: Bồ Tát xử trí như thế nào? Phương pháp đó gọi là ngoại quán tưởng.
Nếu chúng ta thường xuyên quán
chiếu Bồ Tát Quán Thế Âm, ở trong nội tâm của chúng ta, lại thường xuyên
dùng con mắt Bồ Tát của Bồ Tát Quán Thế Âm để xem xét thế giới này, một
mặt lấy tâm của Bồ Tát để đối đãi với chúng sanh, một mặt lấy tâm của
chúng sanh để quán tưởng Bồ tát. Như vậy tâm chúng ta sẽ dần dần cùng với
tâm Bồ tát ấn chứng nhau, dần dần lâu dài về sau, có thể hòa hợp với Bổn
tôn, đạt tới chỗ “Tâm tâm tương ấn”.
Trong cuộc sống, mỗi giờ mỗi
phút đều tu hành, chúng ta sẽ thấy chúng ta có biện pháp để duy trì được
cái tâm giác ngộ đó.
Kỳ thực, hòa hợp với Bổn tôn
không phải là phương pháp riêng có của Mật giáo. Trong Hiển giáo cũng dùng
phương pháp đó, dù chúng ta tu hành theo pháp môn nào. Khi chúng ta niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, và lấy Bồ Tát Quán Thế Âm làm gương sáng soi
theo, thường xuyên nâng cao quan điểm nhìn của mình lên đến trình độ của
Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu tu hành như vậy sẽ dễ dàng có hiệu quả hơn, nhanh
chóng hơn so với phương pháp ngày ngày chỉ tụng kinh ở điện thờ Phật.
MỌI NGƯỜI ĐỀU CÓ PHẬT TÁNH
NHƯ LAI ^
Giả sử nếu Bồ Tát Quán Thế Âm
gặp cảnh ngộ luyến ái và thù hận, thì Ngài suy nghĩ như thế nào? Xử
trí như thế nào đây? Ngài sẽ chuyển hóa ái tình của người thành lòng đại
từ đại bi. Trong kinh Lăng Nghiêm nói Ngài “nhập lưu vong sở, văn sở
văn tận, giác sở giác không”.
Có nhiều người không hiểu nghĩa
bốn chữ nhập lưu vong sở. Nay phân tích như sau: nhập lưu, vong sở ý tứ
là: Bồ Tát Quán Thế Âm nhập vào con sông lớn của sanh mạng vũ trụ, từ bỏ
chấp trước của tự ngã. Vì không còn ngã chấp, cho nên khi nghe tiếng kêu
khổ, kêu cứu khổ của tất cả chúng sanh trong vũ trụ, Ngài đều giác ngộ với
trí tuệ rộng lớn, tất cả đều là không rỗng, sáng suốt, không còn bị sự
động giao của tất cả mọi sự biến hóa đó.
Hiểu được cảnh giới của Bồ Tát
thì khi nói vấn đề luyến ái, sẽ biết lấy lòng từ bi để đối đãi với đối
tượng yêu thương. Trong nhà thì lấy lòng từ bi mà đối đãi với cha mẹ, con
cái, nếu chẳng may, phả i chia tay với người yêu thì cũng lấy lòng từ bi
đối đãi với họ, không sanh lòng oán hận đối với họ. Như vậy, sẽ không còn
có hận thù.
Sự thực, yêu và hận, tình và
thù không có khác biệt gì với lòng đại từ đại bi của Bồ Tát. Vấn đề là
chúng ta có hay không có biện pháp chiếm được vị trí cao để xem xét, xử lý
vấn đề đó. Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có đức
tướng, trí tuệ của Như Lai, chỉ vì do có vọng tưởng và chấp trước mà không
chứng ngộ được mà thôi”. Đứng về Phật tánh mà nói, Phật tức là mỗi một
chúng ta, bởi vì ở trong mỗi người, đều có Phật tánh của Phật, vì vậy mọi
người đều có thể thành Phật. Dưới con mắt của Phật thì chúng sanh tất yếu
sẽ có ngày thành Phật. Quan điểm này, trong kinh điển Phật giáo, cũng được
xác định là: “Phật, ta, chúng sanh về bổn thể là không có phân biệt”.
Chúng ta yêu, chúng ta hận thù.
Các vị Bồ Tát từ vô lượng kiếp tới nay cũng đều trải qua kinh nghiệm yêu
thương và hận thù, và các Ngài đã siêu việt lên trên thương yêu và hận
thù, mà phương pháp siêu việt thì hết sức đơn giản. Tóm tắt chỉ có mấy
chữ: Tự giác, từ bi, mở mang trí tuệ Bát Nhã.
TÌNH CẢM PHONG PHÚ TU HÀNH
VÔ NGẠI ^
Tôi rất thích xem điện ảnh, sau
khi học Phật, tôi cũng thường xem điện ảnh. Gần đây, tôi có xem bộ phim
đầu đề là “Lưu dân đại hanh” do Chu Nhuận Phát và Chu Sở Hồng chủ diễn.
Đấy là một câu chuyện ái tình làm động lòng người. Kết thúc của câu chuyện
là đôi trai gái phải chia tay nhau, xem phim mà tim tôi như nát ra và tôi
đã khóc. Những người học Phật cùng với tôi xem phim, thấy tôi khóc, không
hiểu được bèn hỏi: “Ông học Phật lâu năm như vậy, sao mà cảm tình nhiều
và nhạy bén thế?”
Vì sao học Phật lâu năm lại
không thể có cảm tình? Học Phật càng lâu năm, cảm tình càng phong phú lên
mới phải. Tôi chảy nước mắt vì tôi cảm thông với nỗi đau khổ do ái tình
đem lại, cảm thông với nỗi khổ phân ly của đôi trai gái. Tuy câu chuyện
điện ảnh là giả, hư huyễn, thế nhưng trong cuộc sống hiện thực của
con người, những cảnh ngộ như vậy phải chăng cũng đã xảy ra?
Nếu có một người thất tình đến
khóc vớ i anh thì anh xử trí thế nào? Biện pháp của tôi là cùng khóc với
họ.
Gần đây, có nhiều người đến gặp
tôi và vừa khóc, vừa kể lại những cảnh ngộ éo le của đời họ. Tôi không có
cách gì giúp họ, nhưng tôi cũng cảm thấy đau khổ như họ, vì tôi đặt mình
trong hoàn cảnh của họ, tâm tôi có khác gì tâm họ.
Nếu anh là người có cảm tình
phong phú, anh đừng có mặc cảm tự ty, vì có rất nhiều vị Bồ Tát cũng có
cảm tình phong phú như anh vậy.
Trong kinh Phật, có nói đến vị
Bồ Tát thường bi, nghĩa là luôn thương người xót vật, lại có vị gọi là vị
Bồ Tát thường hay khóc (Thường Đề Bồ tát), 24 tiếng trong ngày đều rơi
lệ. Bồ tát không sợ chảy nước mắt, chỉ sợ không có cách gì để trong nước
mắt được giác ngộ, sanh khởi trí tuệ mới.
Nếu như trong nước mắt mà phát
hiện được trí tuệ mới, giác ngộ mới, vậy thì có lúc chảy nước mắt cũng có
quan hệ gì?
Tôi cho rằng, một người có lòng
từ bi chân thực, thì có thể bình thản đối diện với dục vọng trong đời
sống. Nếu một người có thể tự giác, mở mang trí tuệ thì có thể tìm được
cái ta chân thực ở ngay trên cảm quan và ở trong dục vọng.
Khi chúng ta tìm được cái ta
chân thực rồi, thì ta sẽ hòa hợp được với pháp tánh của Phật, Bồ tát.
Hãy giác ngộ ngay từ đó! Từ ở
trong ái tình của chúng ta, từ ở trong thù hận của chúng ta. Từ ở trong
yêu, hận, tình, thù v.v... từ ở trong những dục vọng của con người mà được
giác ngộ, đạt được một trí tuệ siêu việt hơn, phát hiện được một cái Ta
thanh tịnh hơn!./.
---o0o---
Mục Lục |
Phần 1 |
Phần 2
| Phần 3
|
Phần 4
---o0o---
Vi tính: Mỹ Hồ
Trình bày: Nhị
Tường
Cập nhật: 10-2003