Khái Luận
Triết lý
Kinh Hoa Nghiêm
Hòa Thượng Thích Đức
Nhuận
Viện
Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA
Xuất bản 2000 - Bìa : Họa sĩ Phượng
Hồng
---o0o---
Phần II
Giới thiệu Bồ Tát Đạo
Con Đường Lý Tưởng
Của Minh Đức-Thanh Lương
Bắt đầu từ đây chúng ta hãy đi vào tác phẩm “Bồ Tát Đạo ,hay Con Đường Lý
tưởng”.
*
Về hình thức: Sách chia làm 3 phần, 53 chương, dày trên 1.300 trang (bản
chữ đánh máy).
-
Về nội dung:
* Phần I – Dẫn nhập
Tác giả dẩn kinh Hoa Nghiêm, phẩm “Nhập pháp giới”- hay nhập Chân Như pháp
giới, có nghĩa nhập cảnh giới Tỳ Lô Giá Na (Vairacana) pháp thân, tức thể
nhập Tâm đại đồng của vũ trụ bao la, không còn phân biệt có mình hay kẻ
khác, tâm và cảnh tuy hai mà một – làm nền tảng xây dựng tác phẩm. Và “cốt
truyện” thì lấy đồng tử Thiện Tài (Sudhanu), một nhân vật điển hình, khát
khao đi tìm con đường lý tưởng hay hạnh phúc, chân lý tuyệt đối để giải
thoát cho mình và cho toàn thể nhân loại, một lòng hướng thượng cầu “nhất
thiết trí” (Sarvajnata), hướng hạ phát “đại bi tâm” (Mahàkarunà), nên
chàng đã đi khắp đó đây, có lúc phải băng rừng, lội suối, gian nan cực
khổ, nhưng tâm vẫn chẳng hề thoái chuyển, hễ nơi đâu có ánh nắng mặt trời
là (ở đó) có dấu chân chàng đi tới, chỉ cốt sao tìm minh sư thiện hữu
;chàng đã học hết các triết lý đông tây kim cổ, và đã lần lượt học mọi
pháp môn thuộc tiểu thừa và đại thừa Phật giáo, với một lòng kiên trìhiếm
có, cuối cùng, chàng đã đạt được chí nguyện…
* Phần I I – phần
chính của cốt truyện
Tác giả trình bày chặng đường mà đồng tử Thiện Tài phải đi qua, tượng
trưng cho 53 giai đoạn tu hành, từ lúc sơ phát tâm qua Thập Tín, Thập Trụ,
Thập Hành, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, sau cùng mới tới Đẳng Giác, Diệu Giác
là chứng quả vị tối cao:Phật Đà. Cũng cần nói thêm ở đây là, đồng tử Thiện
Tài tham học với 53 vị Thiện tri thức, bắt đầu học Bồ tát Văn thù Sư Lợi (
biểu thị của Trí Tuệ), nhưng đến Bồ tát Phổ Hiền (biểu hiện của Hạnh
Nguyện) mới là rốt ráo. Mà mọi nghi thức như : lễ bái, hành đạo đều là mật
hạnh,là đầu đà, là trì giới v.v…do đó mà có tông phái Hoa Nghiêm, Thiên
Thai, Tịnh Độ…có Phật giáo đại thừa.
Thuở Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang ở nước Thất La Phiệt (Snavasti) tại khu
rừng Thệ Đa (Jetavana), vườn của trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathopindika)
cùng với 500 vị Bồ tát và hằng hà sa số Thanh văn…
Trong kỳ pháp hội này, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi (Manjusri) nhận thấy trong
thính chúng có một nhân vật xuất sắc, đáng lưu ý, đó là đồng tử
Thiên Tài, một người đã trồng nhiều công đức, cúng dường rất nhiều Phật
quá khứ, lại thông minh dĩnh ngộ, ham học hỏi…Nên Bồ tát Văn Thù đã vận
dụng thần trí siêu việt diễn nói kinh “Phổ Chiếu Nhất Thiết Pháp Giới”
thậm vi diệu, khiến cho đồng tử Thiện Tài khởi lòng cảm phục, xin qui y để
cầu học Đạo Bồ tát.
Chương I. Bài học vỡ lòng do
Bồ tát Văn Thù Sư lợi dạy về “Phát Tâm Bồ Đề”và cầu “Thiện Tri Thức”
Nghe đồng tử Thiện Tài thổ lộ tâm can, thiết tha cầu đạo, và có lòng rộng
rãi, biết nghĩ đến nổi khổ đau của chúng sinh,. Ngài dạy : “Muốn học Đạo
Bồ tát, trước hết con phải biết phát nguyện lớn,sau phải thân cậnthiện tri
thức khắp nơi đẻ học hỏi”.
Và
ngài khuyên Thiện Tàinên tìm đến yết kiến hỏa thượng Công Đức Vân là người
đạo cao đức trọng hiện tu ở núi Diệu Phong, nước Thắng Lạc, về phía nam.
Ngài dạy tiếp: “Con nên tìm đến đó mà cầu đạo. Sau lại cứ hướng nam thẳng
tiến, hãy cố gắng tìm thầy, tìm bạn để trau dồi kiến thức cho thập phần
viên mãn”.
Bình luận về ý nghĩa “phát thệ nguyện lớn”, tác giả viết: “phát tâm nguyện
rộng lớn quả là một cuộc cách mạng tâm hồn, một sự chiến thắng oai hùng
đối với bản thân, một hiện tượng “đại tử nhất phiên”, nghĩa là chết đi
những tính nết xấu, gột sạch tâm hồn cũ, siêu lên trên thế tình, ngoài
vòng sai biệt ước lệ, sống cuộc đời mới..”(BTD,trang 23)
Những ai muốn thực hành Bồ Tát Đạo, tức tự nguyện đi trên con đường lý
tưởng “phục vụ chúng sinh”, thì tâm phải rộng như biển cả, trí phải sáng
như mặt trời, phải tự chết mình đi, để tái sinh một con người mới :con
người thánh thiện, sống bằng tâm hồn Phật, một cuộc sống đẹp như bông sen,
sinh ra từ trong bùn mà không nhiểm bùn (sinh tử nê, bất nhiểm ư nê) mới
đủ “thắng nghĩa” để làm mọi công việc lợi ích cho đời.
Bàn về thân cận thiện tri thức đề cập đến sự học hỏi, điều rất cần cho
những ai muốn mở mang trí tuệ. Người tu đạo không chỉ học cho biết rồi để
đó, mà còn phải biết cách áp dụng sở học vào việc tu trì thì sự học mới
thật tốt đẹp, nếu không chỉ là cái đãy đựng sách, chẳng ích lợi gì cho
mìnhvà cho đời cả. Người không chịu học hỏi, thân cận thiện tri thức là
người tự che dấu cái ngu dốtcủa mình, tự nuôi lòng ngã mạn, tự cao, tự
đại; lời nói và cử chỉ thì thô lỗ, vô lễ. Sự học hỏi có nhiều cách khác
nhau: “Những cảnh rất tầm thường cũng nói lên những bài học triết lý rất
sâu xa; Một bà mẹ lấy vạt áo che kín đứa con thơ nằm gọn trong lòng bàn
tay trìu mến cũng gợi cho ta lòng Phật… thương chúng sinh như mẹ hiền
thương con đỏ, mẹ chẳng hề rơi con một phút, thì Phật cũng luôn luôn ở
cạnh chúng ta để ban cho chúng ta tình thương vô hạn”. (BTD trang 301)
Người có trí tuệ dẫu vật vô giá trị cũng làm nên có giá trị, và ngược lại
…Ta hãy lấy một thí dụ : “Khi người đó chỉ mới nhìn một gốc tùng giàcỗi
đứng trơ vơ bên hốc đá trên đỉnh núi, cũng có thể cho ho về dũng cảm, kiên
gan, đức độ, tiết tháo, tự cường của bậc quân tử, cốn gắng vươn lên, không
chịu sống tầm thường, hèn hạ như đám cỏ lau đầy bụi ở rạch nước tanh hôi
bên đường, sẵn sàng cúi rạp mình trước ngọn cuồng phong để được yên thân,
khỏi bị gãy đổ”(BTD trang 30)瑩bsp;
“Phải học cho rộng, cho sâu, nghe nhiều, nói ít, suy luận kỹ càng để phá
ngã, phá pháp, đạt tới trí bát nhã và tâm từ bi quảng đại, vô lượng vô
biên, đó là mục tiêu đầu tiên nhằm tiến tới của người bước chân vào BỔ TÁT
ĐẠO hay Con Đường Lý Tưởng để tự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha.” (BTD
trang 37)
Chương 2- Hòa Thượng Công Đức
Vân dạy “Pháp Môn Niệm Phật”
Theo lời thầy- Ngài Văn thù- dạy bảo, đồng tử Thiện Tài tiến về hướng nam,
hỏi thăm đến nước Thắng Lạc, núi Diệu Phong, nơi hòa thượng Công Đức vân
tĩnh tu để xin học đạo và Hòa thượng dạy cho Pháp Môn Niệm Phật là pháp
môn thù thắng đệ nhất có thể áp dụng cho mọi hạng người, thông minh hay
ngu tối, không phân nam, nữ, tuổi tác, ai ai cũng có thể dễ dàng thực
hiện.
Hòa thượng, chỉ mới thoáng nhìn đồng tư Thiện tài đã khởi tâm thương hại
người học trò quá ngây thơ chất phác, liền bảo : “Con không thấy ta lúc
nàỏ cũng niệm Phật đó sao?)
“người tu hành muốn được thành Phật ắt phải học nhiều pháp môn và trải qua
thời gian tu tập lâu xa 3 A tăng kỳ kiếp, mà ở cõi Sa bà ô trược này có
nhiều chướng ngại, laị không thường được gặp Phật thì sự thành công thật
là rất khó. Muốn bảo đảm cho sự tu hành chắc chắncó kết quả mong đợi, và
muốm làm an lòngnhững ai còn e ngại khó tu, khó chướng, Phật đã phải
phương tiệnchỉ bày cho một đường lối thù thắng, đó là việc nhất tâm niệm
Phật, cầu Vãng sinh về cõi Cực lạc của Phật A Di Đà, để thường được gặp
Phật, làm bạn với các vị Bồ tát, ngày đêm được nghe tiếng pháp nhiệm mầu.
Ở đó, suối reo, chim hót, tât cả đều diễn ra tiếng pháp vi diệu, sống
trong cảnh thuận tiện sung sướng đó thì lo gì chẳng chúng đạo quả Vô
thượng bồ đề?”
“Ta chỉ có pháp “Trì danh niệm Phật”để dạy con thôi, con khá nên nhớ lấy,
và hành trì cho tới chỗ “nhất tâm bất loạn”.
Trong chương này tác giả đã khảo cứu các tài liệu về pháp môn Tịnh độ, và
trình bày pháp môn này một cách hết sức sáng sủa, và khuyên hành giả muốn
tu cho có kết quả : Trước hết phải có đức Tin vững chắc. Thứ nữa, phải
chuyên tâm thực Hành pháp môn “trì danh niệm Phật”. Sau cùng là phát thệ
Nguyện lớn cho bền vững , sâu rộng.Tín Hành nguyện là ba điều căn bản
thiết yếu, không thể thiếu một mà thành tựu được .
Trong kinh A Di Đà, Đức Thích Ca bảo ngài Xá Lợi Phất (Sàriputra) rằng :
“Từ đây (chỉ cõi Sa bà) đến phương Tây, cách xa mười vạn ức cõi Phật, có
một thế giới gọi là Cực lạc, ở cõi đó có Đức Phật A Di Đà hiện nay đang
thuyết pháp. Này ! Xá Lợi Phất, cõi kia vì sao gọi là Cực lạc?- Vì nhân
dân trong nước ấy không còn mọi khổ đau,mà hoàn toàn vui sướng, nên gọi là
Cực lạc”.
Dưới đây xin dẫn chứng những khám phá mới nhất về những thiên thể mà các
nhà khoa học đã tìm ra ( theo tác giả) : “Nhà bác học Carl Sagan, giáo sư
đại học đường Havard về môn Thiên văn học, đã lên tiếng trong một buổi nói
chuyện tại hội Hỏa tiễn Mỹ” ông tin chắc có những giống người rất thông
minh sống rải rác trên các hành tinh của chúng ta ở tinh đó tới thăm trái
đất của ta. O⮧ Sagan còn cho hay : O⮧ đã căn cứ vào toán học mà đưa ra giả
thuyết ít nhất phải có trên một triệu hành tinh trong số 100 tỷ hành tinh
trong giải Ngân hà đã xuất hiên những nền văn minh rực rỡ, vượt xa hẳn nền
văn minh của chúng ta ngày nay trên trái đất”.
Gần đây, khoa học gia Melvin Berger còn cho biết : những khám phá mới
nhấtcủa Thiên văn học hiện đại : với những máy vô tuyến viễn vọng kính tối
tân, loài người đã nhìn thấy thiên hà của chúng ta có chừng 150 tỷ ngôi
sao, trong đó chừng một tỷ hành tinhcó thể có người sống- ngoài ra còn có
hàng tỷ thiên hà tương tự như thiên hà của chúng ta ở, mà thiên hà gần
nhất mệnh danh là Trôn ốc trong chòm Andromedo có những vì sao nhỏ bé, lờ
mờ, cách xa chúng ta khoảng ngót triệu năm ánh sáng…Đó mới chỉ là những
khám phá sơ khởi..”( BTD Trang 131,132) 瑩bsp;
Chương 3. Thiền sư Hải Vân dạy phép “Quán Tưởng”
Sau khi nghe đồng tử Thiện Tài trình bày nguyện vọng, Thiền sư dạy:
“…Không thuận theo ngoại cảnh vui thích, thì tâm con không bị lôi cuốn bởi
lục dục, thất tình- không bị mờ ám bởi hình, danh, sắc, tướng, làm cho
mình bị say mê mà đánh mất cả lương tri, lương năng.
“Không nghịch theo ngoại cảnh đau buồn thì tâm con được ổn định, không còn
thấy cảnh đời đáng chán ghét mà phải tìm cách xa lánh, ở ngoài vòng cương
tỏa.
Vì
không còn thuận nghịch, nên con ít sân hận, oán hờn, ít so sánh phân biệt,
không còn đứng núi nọ trông núi kia cao…
Từ
một tư tưởng ưa thích, lòng tham nổi dậy, lôi cuốn theo những tư tưởng
chiếm đoạt, tranh chấp, đố kị, bủn xỉn, vị kỷ, bám giữ, vui, buồn…
Từ
một tư tưởng ghét bỏ phát sinh những tư tưởng sân hận, mưu mô, xảo trá,
lường gạt, loại trừ, để rồi gây nên những oán thù truyền kiếp. Cả hai loại
tư tưởng yêu ghét đều làm cho tâm con mất thăng bằng, bình đẳng và xa lìa
Chân tính.
Con phải dùng đại dương làm bối cảnh để tập trung tinh thần mà quán tưởng
(suy ngẫm).
Đại dương sâu rộng, bát ngát, bao la, có vô lượng châu báu thì tâm đại bi
cũng có vô lượng đức tính cao đẹp. Đại dương muôn trùng rộng rãi, thu nạp
nước các sông ngòi, và những trận mưa to, thác lũ mà không hề tăng giảm
thì tâm đại bi cũng chứa đựng mọi sầu não của chúng sinh và rửa sạch mọi
vết thương lòng của muôn loài đau khổ mà vẫn như bất động, bình đẳng, vô
phân biệt. Con phải mở rộng tầm mắt bao quát cả vũ trụ mông mênh, mở rộng
tâm hồn cho vô biên cao cả, nhìn xa thấy rộng cảnh vật bên ngoài, rồi lại
nhìn sâu vào đáy lòng mình để tìm hiểu chân lý của trời đất tiềm ẩn nơi
đó. Vì Tâm tức Phật, Phật tức Tâm. Không thể tìm Phật hay sự thật ở đời,
ngoài Tâm được. Với lý “Vạn vật đồng nhất thể” thì vũ trụ với con người
chỉ là một mà thôi …
Con nên bắt chước ta, dành nhiều thì giờ cho công phu thiền định và quán
tưởng. (BTD, trang (155- 156 )
Chương 4 – Trưởng lão Thiện
Trụ dạy về pháp môn “Vô Ngại
Thần Túc Thông”.
Khi người ta đã đắc pháp này thì thân tâm được tự tại, vô ngại: “Trong một
niệm (họ) tùy ý muốn đi đứng, tới lui chổ nào cũng được, trí tuệ thì quang
minh đạt tới cứu cánh vô ngại, biết rõ các pháp quá khứ, hiện tại và vị
lai của mọi thế giới, biết rõ căn tính và ngôn ngữ của mỗi loài, hiểu được
sự cấu tạo, duy trì và an lập của vũ trụ, la0I có thần lực bay tới tận các
thế giới ở xa muôn dặm để quan sát, đồng thời có thể thị hiện, biến hóa ra
mọi dự vật để cứu độ chúng sinh khắp mười phương”. (BTD ,trang 186)
Chương 5-Thượng tọa Di Già
dạy đồng tử Thiện Tài “Trì chú Đà la ni”
Đà
la ni (Dharani), phiên âm từ tiếng Phạm, Tàu dịch: Tổng trì hay Năng trì,
có nghĩa trong một chữ, một câu mà tóm thâu cả vô lượng công đức và thu
hoạch những pháp lành, cùng gìn giữ một thiện duyên, bảo vệ những chủng tử
tốt trong tiềm thức, đồng thời có nghĩa là Năng già : có sức che lấp những
chủng tử xấu, ngăn chặn những niệm tưởng đen tối không cho hình thành.
Những Dharani hay chân ngôn rất đa dạng, mỗi bài có một công dụng khác
nhau, sử dụng đúng qui cách thì đều linh ứng cả.
Chương 6 - Trưởng giả Giải thoát dạy : “Thiền” hay
pháp môn “Vô Ngại Trang nghiêm giải thoát”.
Trưởng giả khuyên Thiện Tài :
“Muốn thực hành Bồ tát hạnh ngươi phải phát đại nguyện, học đủ các pháp
môn để tịnh Phật quốc, tập đủ mọi diệu hạnh để điều phục chúng sinh. Phật
có đủ vô ngại thần thông để qua lại mười phương pháp giới, dùng trí tuệ vi
tế và thâm nhập vào các kiếp số. Phải giữ giới luật tinh nghiêm để gạn lọc
tâm cho trong sạch. Phải dùng tinh tiến để kiên cố tự tâm, dùng nhẫ宠nhục
để sang bằng mọi ý tưởng sai biệt và phân biệt. Phải dùng từ bi để trị
bệnh Tham, sân, ích kỷ, làm cho tâm được rộng rãi bao la. Phải năng quán
tưởng và thiền định để đắc tuệ nhãn, cho tâm được giải thoát và mau nhập
cảnh giới nhất thiết trí, đạt tới Vô thượng bồ đề” (BTD, trang 270).
Thiền, là một pháp môn tu không cần đến văn tự, ngôn ngữ mà chủ trương “dĩ
tâm truyền tâm”để giải phóng con người ra khỏi phiền não và thể nhập với
thực tại tuyệt đối.
Người tu thiền chỉ ngồi yên lặng,gạt bỏ ra ngoài mọi tư tưởng và hình ảnh
tốt xấu, nhờ đó mà gạn lọc được tâm hồn, để nó trở nên thanh tịnh. Đó là
một phương pháp tập trung tinh thần để đạt tới trạng thái ý thức hoàn toàn
sáng suốt và trong sạch, tức thể nhập được Phật tính ở ngay trong bản tâm
mình.
Tác giả luận giải về Thiền như sau:
?
Môn đồ hỏi Mã Tổ Đạo Nhất:
Bạch Hòa thượng, vì sao nói: “tức tâm tức Phật?”
Sư
đáp: Để cho trẻ con khỏi khóc.
Hỏi: Lúc trẻ đã nín rồi thì sao?
Đáp: Phi tâm, phi Phật.
Hỏi: Trừ hai câu này ra, nếu có người hỏi Phật nữa thì phải trả lời cách
nào?
Đáp: Chẳng phải vật.
Hỏi: Nếu lại có người còn hỏi nữa thì phải trả lời sao?
Đáp: Thể nhập đại đạo.
Giải thích:
Câu thứ nhất: “tức tâm tức Phật”có ý khuyên nên hướng vào nội tâm để tìm
cầu Phật nơi tâm mình, không nên hướng ngoại tìm cầu Phật tính.
Câu thứ hai: “phi tâm phi Phật” khuyên nên siêng năng tu hành. Hai phép
này để giáo hóa hạng còn sơ cơ. Đối với hạng người tu đã lâu thì dạy:
“chẳng phải vật” và “ thể nhập vào đại đạo” là muốn khuyên nên thoát ra
ngoài vật để hòa đồng cùng vũ trụ. Tâm là vật, vật là tâm. Đạo phải tìm
trong hiện tượng giới, trong chổ “bình thường tâm” (BTD, trang 203)
?
Một đêm trăng ba vị Thiền sư ( Bách Trượng Hoài Hải, Tây Đường Trí Tạng
và Mã Tổ Đạo Nhất thưởng ngoạn.
Mã
Tổ hỏi: “Lúc này ta nên làm gì?”
Tây Đường thưa: “Ta nên cúng dường” (ý muốn nói đến tụng kinh, niệm Phật”.
Bạch Trượng thưa: “Ta nên tu hành”( ý muốn nói đến công phu ngồi thiền).
Nam Tuyền lẳng lặng, chẳng nói một lời, phất tà áo bỏ đi ngắm trăng một
mình.
Mã
Tổ nói: “Tụng kinh mãi thì lạc vào rừng Tam tạng kinh điển, mà ngồi thiền
thì chơi vơi chìm đắm trong biển lặng vô biên, Chỉ đi ngắm trăng như Nam
Tuyền trong lúc này mới theo đúng đạo tự nhiên của trời đất, siêu việt ra
ngoài cảnh vật. Thế mới gọi là “Tâm đạo bình thường” (BTD, trang 208)
Một đặc điểm khác của Thiền thuộc phương diện tu luyện là đốn ngộ tức là
nhận rõ chân lý tức khắc, không cần phải qua những giai đoạn chuẩn bị học
tập lâu dài. Một tỷ dụ điển hìnhvề đốn ngộ là trường hợp Lục Tổ Huệ Năng.
Ngài từ nhỏ đến khi ngộ đạo, không được học một chữ, kinh kệ không biết,
nhân một buổi đi bán củi ngoài chợ, chợt nghe có tiếng người tụng kinh Kim
Cương, câu:
“Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm: Nakvacit pratisthitam cittam
utpàdayitaviam”, Ngài tự nhiên ngộ đạo. Thật là một trường hợp hy hữu, có
một không hai. Có lần Tổ dạy các đệ tử cách giảng pháp phải căn cứ trên
lập trường “Bất nhị”và Tổ lập luận : “Nếu có người hỏi về lẽ tối phải đáp:
Sáng là nhân, tối là duyên. Sáng đi thì tối lại. Lấy tối để hiểu sáng, lấy
sáng để hiểu tối, đôi bên qua lại đắp đổi làm nhân duyên cho nhau. Tất cả
pháp, khi bàn đến, chớ lìa tự tính, và cứ mỗi câu hỏi đều đáp lại bằng
cách trái ngược, như vậy thành nghĩa Trung Đạo mà chẳng bao giờ xa lìa
chân lý”.( BTD, 171)
Thiền có mục đích:
-
“Dẫn hành giả tới chổ giải thoát hay giác ngộ trực tiếp”.
-
“Đề cao nếp sống tự nhiên, bình đẳng và yêu thiên nhiên”.
-
“Diễn tả cái phong thái phóng khoán của thiền và cái cơ trí bén nhạy của
trực giáct âm linh”.
Chương 7 và 42- Hòa thượng
Hải Tràng và thần Bảo Nhãn, Quỷ vương La Sát và Phật mẫu Ma Ya dạy: “Pháp
môn Lục Độ và Bát Nhã”
Hòa thượng nói: "Do tu Bát nhã Ba la mật (Prajinapàramità) mà tôi đắc tuệ
nhãn và hàng ngàn tam muội khác. Lúc nhập tam muội này, tôi biết rõ tất cả
thế giới không chút chướng ngại và thấy mọi sự vật trong vũ trụ đều dung
thông, dung nhiếp với nhau. Tôi biết rằng cái tâm của mỗi người là cái tâm
chung của trời đất và cái lý của mỗi sự vật là cái lý chung của vạn vật.
Khi đã rõ được một phần tử trong vũ trụ, thì cũng rõ được sự vật trong đời
đất. Đó là cái lý Một là Tất cả và Tất cả là Một – Tâm, Vật không hai
"(BTD, trang 305)
Phật mẫu Ma Gia thì dạy: "Từ quá khứ đến vị lai, khắp thập phương thế
giới, thử hỏi chư Phật và Bồ tát nào không do trí Bát nhã sinh ra? Và muốn
thành Phật quả, thì người tu hành nào không phải học hỏi và tu theo pháp
môn Bát nhã?" (BTD, trang 899)
Muốn chứng lý Bát nhã phải qua ba giai đoạn tu tập:
1..Gia Hạnh Trí Bát Nhã – Tăng gia công hạnh tu Bát nhã, tức phải tinh
tiến tu hành các pháp môn quán tới chỗ nhận định rõ được thực tướng hay
thể tính của các pháp vốn "Không".
2..Căn Bản Trí Bát Nhã- Tức thể tính Bát nhã. Tuy thể tính vốn sẵn có
trong mọi chúng sinh, nhưng phải nhờ công phu tu hành tinh tiến mới phát
huy và làm hiển lộ cái trí hay thể tính đó.
3..Hậu Đắc Trí Bát Nhã- Tức diệu dụng của Bát nhã. Sau khi chứng được căn
bản mới có được diệu dụng này. Tới lúc đó thì: "Tâm vô quải ngại, xa lìa
mộng tưởng, điên đảo, đạt tới cứu cánh niết bàn", và người tu biết rõ bản
tính la chân, sắc tướng là giả, và phải lìa bỏ giả tướng mà quay về chân
tính.
Tính, tướng bất nhị, hễ theo về chân tính thì phá vỡ ngay được chấp ngã,
tức là những giả tướng bề ngoài.
Phát huy nguồn ánh sáng sẵn có trong mỗi chúng sinh (tức căn bản trí) bằng
cách tu tập các pháp quán vô
"Tất cả phương pháp tu hành của Bát nhã nhằm vào tiêu điểm ngã, vô thường.
Có được nguồn ánh sáng ấy (tức trí tuệ bát nhã) chiếu soi thì tâm được tự
tại, hành giả sẽ sống trong thể tính chung của muôn loài và nhận thấy mình
với chúng sinh là một, chúng sinh là mình, mình là chúng sinh, một là tất
cả và tất cả là một, sự sự vô ngại trong pháp giới bao la, mọi sự mọi vật
đều tương tức, tương nhập như kinh Hoa Nghiêm đã đề xướng" (BTD, trang
902)
Chương 8- Ưu bà di
HữuXả dạy đồng tử Thiện Tài cách "diệt trừ phiền não", còn gọi là pháp môn
"ly ưu an ổn
tràng" (giải thoát cho tâm
khỏi mọi phiền não ưu tư, được an vui thanh tịnh).
Vì
mỗi chúng sinh đều có Hoặc, Nghiệp, Khổ khác nhau, sinh ra đủ loại phiền
não.
"Nỗi đau khổ của loài người bắt nguồn từ vô minh, do những nguyên nhân
chính là Aᩬ?Thủ, Hữu. Vì ưa thích ham muốn nên mới bám giữ lấy cảnh vật
chung quanh, làm sổ hữu riêng tư, và khi bị mất những vật mà ta ưa quí làm
của riêng, coi như mất đi một phần thịt xương của mình thì sinh buồn phiền
đau khổ"
"Những phiền não thô dễ biết nên dễ chữa. Chỉ những phiền não từ vô thủy
rớt lại, ẩn sâu trong tiềm thức mới khó loại trừ,"Tất cả chúng ta đang
sống trong chiêm bao, do vô minh dệt thành màn sương dầy đặc vây phủ quanh
mình, nên lúc nào cũng say sưa trong đại mộng. Phải thức tỉnh hẳn mới hay
mình vừa mới trải qua một giấc mộng dài. Chúng sinh đang sống trong vô
minh vọng thức, nào có hay đâu mình sống trong cảnh đó; chỉ khi nào hoàn
toàn giác ngộ mới biết rõ được cảnh vô minh vọng thức mình vừa trải qua.
"Hàng phàm phu sống trong vòng thức biến nên không rõ được cảnh thức biến.
Chỉ khi nào tới Phật quả cứu cánh mới phá tan vô minh trong tâm
thức, và chỉ lúc đó mới thực giác ngộ hoàn toàn, cũng như người tỉnh hẳn
giấc mộng dài, hết ngái ngủ, mới biết được rằng mọi chuyện vừa xảy ra
trong giấc mộng đều là huyễn cả".( BTD, trang 320-321)
Chương 9. Nói về Pháp môn "Bồ
tát Vô Thắng Tràng Giải ơn Thoát"do tiên ông Tỳ Mục Cù Sa truyền lại cho
Thiện Tài.
Nói xong, tiên ông liền cầm tay xoa đầu Thiện Tài tức thì chàng trông thấy
vi trần số thế giới, lại được nghe chư Phật thuyết pháp cho hằng hà sa số
chúng sinh trong khắp các cõi, nhờ đó mà Thiện Tài được vô lượng tam muội
và trí tuệ quang minh. Nhưng đến khi tiên ông vừa buông tay ra thì Thiện
Tài thấy mình trở về trạng thái như cũ.
Kế
đó, Tỳ Mục Cù Sa lại bảo thiện Tài: "Tôi chỉ biết bấy nhiêu pháp đó
thôi, nếu muốn công hạnh được viên mãn, hãy tìm đến vị Bà la môn, pháp
danh là thắng Nhiệt, ở bộ lạc Y Sa Na, về phương nam, mà học hỏi thêm".
(
Tác giả đã bình giải về những ẩn ý của một vài danh từ dùng trong kinh:
"Việc tiên ông Cù Sa xoa đầu và cầm tay Thiện Tài là cốt dùng tha lực giúp
cho chàng định tâm, kiểu như dùng phương pháp thôi miên, tập trung tinh
thần buộc Thiện Tài phải quán tưởng hay suy nghĩ về một đề tài nào đó. Đến
khi tiên ông buông tay và không còn xoa đầu Thiện Tài nữa là lúc Thiện Tài
xuất định, tâm thần trở lại như cũ.
"Tên của vị Bà la môn Thắng Nhiệt cũng gợi cho ta ý tưởng sau đây: ba độc
tham, sân, si, và thất tình, lục dục gây cho chúng sinh những nổi khổ đau
như lửa đốt tâm can.
"Thắng được tam độc ấy tức là dập tắt được ngọn lửa làm cho chúng sinh
phải chịu đau đớn ê chề" ( BTD,trang 340-341 )
Chương 10. Bà la môn
Thắng Nhiệt dạy về: "Bồ Tát Hạnh Bồ Tát Vô Tận Luân Giải Thoát"( tức: bánh
xe giải thoát quây vô tận).
Bồ
tát là tiếng gọi tắt, viết đủ là: Bồ đề tát đóa, do phiên âm ở chữ
Bodhisattva: Bodhi (Bồ đề) co nghĩa là giác ngộ và Sattva (tát đóa)
là chúng sinh. Vậy bồ tát là chúng sinh đã giác ngộ. Bồ tát có ba đặc
tính:
1.
Tuy đã giác ngộ nhưng chưa hoàn toàn được như Phật. Vì chưa gột sạch vi tế
vô minh, vẫn cố gắng tu hành để viên thành Phật quả (tự iác, tự độ)
2.
Đã giác ngộ rồi nhưng có nguyện vọng khai ngộ cho toàn thể chúng sinh còn
bị vô minh ám chướng (giác tha, độ tha)
3.
Thực hiện lý tưởng: "thượng cầu giác ngộ, hạ hóa chúng sinh", lấy đó làm
lẽ sống của mình.
Tính cách thứ nhất thiên về Trí.
Tính cách thứ hai thiên về Bi.
Tính cách thứ ba gồm cả Bi lẫn Trí.
Bởi vậy, Bồ tát còn có tên gọi là bậc Đại Sĩ hay Khất Sĩ nữa.
Về
phương diện thực hành Bồ Tát Đạo là sáu pháp Ba la mật (Paramita). Ba la
mật có nghĩa làtừ bờ bên này (mê) vượt qua bờ bên kia (ngộ): 1. Thí, 2.
Giới, 3. Nhẫn, 4. Tính tiến, 5. Thiền, 6. Tuệ, cộng với:7. Phương tiện, 8.
Thệ nguyện, 9. Lực, 10. Trí, gọi là 10 Ba la mật và làm muôn hạnh lành có
lợi ích cho hết thảy chúng sinh.
"Điểm đặc sắc nhất của đạo Bồ tát là trong khi hướng vào cảnh giới tự
chủ của tinh thần mà vẫn không trốn tránh những nổi thống khổ cố hữu của
kiếp người, trái lại, vẫn lấy "khổ đế", đế thứ nhất trong "tứ đế" làm
trung tâm và cơ duyên hành đạo. Vì Bồ tát nghĩ rằng: "nỗi khổ đau của
chúng sinh là nổi khổ đau của mình"
"Bồ tát coi sự khổ đau lẫn vui sướng, luôn luôn tự chủ. Chính ở đây mà
người hành đạo thấy rõ ý nghĩa và giá trị của đời chỉ có hứng thú nhờ ở sự
tích cực phục vụ cho đời: đó là đặc chất căn bản của tinh thần bậc siêu
nhân"(BTD, trang 365-366)
Chương 11, 12 –Đồng nữ Từ
Hạnh dạy môn "Bát Nhã Phổ Trang Nghiêm"và Tỳ khưu Thiện
Kiến dạy môn "Bồ Tát Tùy Thuận Đăng Giải Thoát"(tức là ngọn đèn trí tuệ
của Bồ tát muốn soi tới đâu cũng được).
Nói chung, cả hai vị đều dạy Thiện Tài: "Pháp môn Bát Nhã"tức thuyết minh
về chân lý "Không" ( Sùnỳatà ). Ta hãy nghe tác giả luận về nghĩa chữ
"Không".
"Theo lý duyên khởi thì mọi vật trong vũ trụ chỉ là những hợp tướng tạm
thời của nhiều nguyên tử duyên lại với nhau. Khi duyên hết thì hợp tướng
lìa tan. Đó cũng là định luật vô ngã, vô thường của sự sự, vật vậtở cõi
đời này. "Vật chất có thể biến thành năng lực và năng lực cũng có thể biến
thành vật chất"Từ vật chất biến thành năng lực, không còn là vật chất nữa,
thì bản thể của vật chất là "Không". Do đó, câu "Sắc tức thị không, không
tức thị sắc"đồng nghĩa với câu : "vật chất tức năng lực, năng lực tức vật
chất". Tất cả những gì do vật chất và tinh thần hợp lại mà cấu thành đều
là "Không" cả. Cái "Có"(ngũ uẩn hay danh sắc – Tâm và Vật) do cái "Không"
mà ra, thì "Không"là căn bản, nguồn gốc, bản thể của cái "Cóᦱ?ot;. Phật
giáo đại thừa cho rằng: Vạn vật có hai tướng, một tướng bề ngoài và một
tướng bề trong. Cái tướng bề ngoài ta có thể dùng ngũ quan và ý thức (giác
quan thứ 6) mà xét thấy được. Nhưng bên trong những cái vỏ sai biệt của
hình tướng bề ngoài còn có một cái Thể chung (Bản thể hay Thực tướng) của
muôn loài, vạﮠvật. Cái thực tướng đó là "Không". Không sinh diệt, không
nhơ sạch, không thêm bớt, không biết từ đâu đến và đi về đâu, không biết
giờ khởi điểm hay lúc tận cùng…. . Hiểu thấu được nguyên lý duyên sinh là
đạt tới thực tại tối hậu, tới, "Chân không diệu hữu", tới tuệ bát nhã,
không còn phải tranh luận hão huyền nữa. Ta thấy rằng:
_Vô thường tức là không có những thực thể bất
biến trong thời gian.
_Vô ngã tức là không có những thực thể bất
biến trong không gian.
Chân lý "Không" có hiệu lực phá trừ kiến chấp.
Vậy, vô thường tức vô ngã, tức duyên sinh, tức "Không " (BTD ,trang
390- 391)
Và
thế kỷ I I dương lịch, Bồ tát Long thụ (Nàgàrjuna) hệ thống hóa tư tưởng
Bát Nhã và trứ tác các bộ : Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ
Luận, làm rường cột cho "Không tông Bát Nhã".
Phương pháp của Tam Luận Tông (Madhyamika) là chứng minh tính cách bất lực
của các khái niệm căn bản của trí óc con người sống trong tương đối. Đây
cũng là một phương pháp để chứng minh yếu nghĩa chữ "Không" của Bát Nhã.
Điểm quan trọng cần phải lưu ý : Phương pháp của Tam luận tông không phải
là một trò chơi về chữ nghĩa, bởi vì Tam luận tông có một chủ đích rõ
ràng, làm vô hiệu hóa các khái niệm đã ngăn cản trí óc con người đạt tới
thực tại siêu việt: Mục đích của Tam luận tông không phải là đưa ra một
quan điểm mới để phá đổ một quan điểm cũ, bởi vì theo Tam luận tông thì
mọi quan điểm đều sai lầm, thiếu sót, và lý do rất giản dị là quan điểm
chẳng phải là chân lý. Cho nên Tam luận tông chỉ là một phương pháp mà
không là thực tại, cũng không phải là sự diễn tả chân lý tối cao. (BTD
,trang…).
Mở
đầu bộ Trung luận, phẩm Quán Nhân Duyên I, Bồ tát Long Thụ đưa ra tám cái
"không"( Bát Bất) :
"Bất sinh, diệc bất diệt.
Bất thường, diệc bất đoạn.
Bất nhất, diệc bất dị.
Bất lai, diệc bất xuất."
Nguyên bản chữ Phạn:
"Anirodham anutpàdam.
Annucckedam asàsvatam.
Anekàrtham ananàr tham.
Anàgamam anirgamam."
Theo thuyết "Bát Bất" trên đây, ta thấy: Vạn pháp do các nhân duyên hội
ngộ mà sinh, nên gọi là "bất sinh". Khi nhân duyên tán thì vạn pháp phải
hủy diệt; nhưng đã không có sinh thì làm gì có diệt, vì thế gọi là "bất
diệt". Và vạn pháp đã do nhân duyên sinh tất nhiên không tránh được sự đổi
thay, gọi là "bất thường". Vì vạn pháp không thật cho nên cũng chẳng có gì
là đoạn, nên gọi là "bất đoạn". Vạn pháp sinh khởi chẳng giống nhau, như
mộng mạ và cây lúa không phải là một, nên gọi là "bất nhất". Nhưng
cây lúa lại do mộng mạ mà thành, nên gọi là "bất dị". Vạn pháp vốn không
thật có nên gọi là "bất lai, bất xuất".
Theo quan niệm mê chấp thường tình của thế gian, người ta cho rằng vạn
pháp có sinh, có diệt, có thường, có đoạn, có một, có khác, có lại, có đi…
Vì
muốn khai thị cho thế nhânnên Bồ tát Long thụ đã dùng tám thứ không là :
không sinh, không diệt, không thường, không đoạn, không một, không khác,
không lại, không đi, để đã phá những nhận thức sai lầm của thế tục, tức
phá bỏ triệt để chấp tướng, chứ không phải phủ nhận cái Thực tướng Vô
tướng của các pháp. Đấy là lối dùng Không môn để đi vào thực tướng Trung
Đạo vậy.
Biện chứng pháp của Bồ tát Long Thụ là một phương tiện để đánh đổ các khái
niệm mà không để cho người ta bị kẹt vàokhái niệm đối lập, vì thế mới gọi
là Trung Đạo, nghĩa là siêu lên khỏi thế giới khái niệm có niệm đối lập,
vì thế mới gọi là Trung Đạo, nghĩa là siêu lên khỏi thế giới khái niệm có
và không, sinh và diệt,v.v..
"Biện chứng pháp này còn được diễn tả bằng nguyên tắc chân đế (paramartha
– satya) hay chân lý tuyệt đối so với tục đế (samvriti- satya) là chân lý
tương đối" (BTD, trang 403)
Nền tảng biện chứng pháp của Bồ tát Long Thụ là nguyên lý nhân duyên, và
ngay trên đó, ta đã thấy triết lý "Không" đưa tới chân lý Trung Đạo
"Madhyamà Pratipadà":
"Nhân duyên sở sinh pháp
Ngã thuyết tức thị Không
Diệc Danh vi Giả danh
Thị danh Trung đạo nghĩa"
Dù
Phật hay các vị Bồ tát có xuất hiện ở đời này hay không, để tuyên bố hay
không tuyên bố rằng các pháp là "Không", thì tự tính của chúng cũng vẫn
như thế, vì bản tính của các pháp vẫn "như thế".
(Pháp nhĩ như thị: Dharmata). Lập thuyết của Tam Luận tông về chữ
"Không"dẫn tới chân lý "trùng trùng duyên khởi" và "Một là Tất cả", "Tất
cả là Một", Sự sự vô ngại pháp giới của tông phái Hoa Nghiêm.."
Chương 13, 22, 44 –Đồng
tử Tự Tại Chủ, trưởng giả Ưu Bát La Hoa, đồng tử Biến Hữu và đồng tử Biến
Tri dạy "Pháp môn Ngũ Minh".
Đồng tử Thiện Tài hình dung trong đầu óc Tự Tại Chủ hẳn là một người đứng
tuổi, từng trải việc đời, ngờ đâu lại chỉ thấy một niênđang chơi đùa với
một số đồng tử khác, trên đường cát ven sông . Thiện Tài cung kính chắp
tay vái chào và tỏ bày nguyện vọng.
Tự
Tại Chủ đáp: "Thuở nhỏ, nhờ được học đủ các ngành công, kỹ nghệ nên nghề
gì tôi cũng biết qua. Tôi còn học đủ các môn khoa học thường thức, biết
trị bệnh và bào chế linh dược. Tôi lại biết các kiến thiết những cung điện
nguy nga, và kinh doanh về các ngành nông, công, thương, làm lợc ích cho
hằng hà sa số chúng sinh. Ngoài ra, tôi còn biết được tướng mạo và am
tường tâm lý của loài người, biết rõ tính tình của kẻ lành, dữ, hiểu rõ
rồi đây sẽ sinh vào đường thiện hay ác…Tôi còn theo môn toán
học, biết rõ trong đống cát này có bao nhiêu hạt cát, biết được danh hiệu
của chư Phật khắp pháp giới mười phương. (BTD , trang 409 – 410)
Thiện Tài thấy Tự Tại Chủ thật là một nhân vật kỳ tài, nên quyết tăm noi
gương về mọi ngành, nghề và có được nhiều phương tiện để giúp đở mọi
người…
Muốn thực hành hạnh lợi tha và giác tha, Bồ Tát phải:
*
Có trí sáng suốt và thực tế,
*
Có tâm bi, bình đẳng, vô lượng vô biên,
*
Có lòng hăng hái dũng cảm phi thường để thắng những trận giặc nội tâm và
điều phục những kẻ thù là những ác tưởng chỉ lăm le làm cho tâm mình hèn
yếu, nhút nhát, biếng lười…
*
Ngoài những đức tính trên, Bồ tát còn cần học đủ sáng suốt năm món (Ngũ
minh) là điều kiện tối cần thiết cho sự thành đạt, để thực thi tốt nguyện
vọng của mình.
*
Trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn ghi: "Bồ Tát cầu đạo giác ngộ ở đâu? – Phải
vào ngũ minh mới cầu đạo được".
Ngũ Minh là :
-
Nội minh: môn học về giáo lý.
-
Nhân minh : môn học về cách suy luận, biện giải để tìm chân lý,
-
Thanh minh : môn học về sinh ngữ để các dân tộc có thể hiểu nhau.
-
. Y phương minh : môn học về cách thức chữa trị bệnh nhân.
-
Công xảo minh: môn học về kỹ nghệ trong các ngành cho được tinh xảo.
Với pháp ngũ minh được trao giồi kỹ lưỡng, Bồ tát trở thành những chiến sĩ
từ thiện lo xây đắp hạnh phúc cho toàn thể chúng sinh, và chuyển biến thế
giới đau khổ này thành cõi Niết Bàn, an lạc.
Chương 14 – 15- Ưu bà di Cụ Túc và cư sĩ minh Trí dạy pháp Môn : "Bố Thí
Ba la mật"
Bố
thí (Dàna) gồm có 3:
1.Tài thí: là đem tiền của, vật
thực cho đến cả sinh mệnh của mình ban cho kẻ khác, Tài thí chia làm nội
tài là hy sinh, mắt, tai, máu, thịt, thân mệnh mình cho chúng sinh. Ngoài
tài là đem tiền của, báu vật, xe cộ, nhà cửa, vật dụng cho kẻ khác, miễn
là cứu giúp được cho chúng sinh thoát khổ, được vui.
2.Pháp thí : Là đem giáo lý của
Phật ban phát, giảng dạy cho người đời từ bỏ được lòng tham, ích kỷ đến
tận gốc rễ. Pháp của Phật là những liều thuốc chữa tâm bệnh cho chúng sinh
hết mọi khổ đau phiền não. Pháp thí chia làm khẩu giáo và thân giáo.
Khẩu giáo: là đem lời hay, lẽ
phải, những pháp tu chân chính để dạy dân chúng khiến họ đạt được lẽ cao
siêu mầu nhiệm của đạo Giác Ngộ, Giải Thoát, đó là chính ngữ.
Thân giáo: có khi chẳng cần phải
đăng đàn thuyết pháp, hoặc trứ tác, lập ngôn cũng gọi là pháp thí, vì Bồ
tát "hành bất ngôn chi giáo"
Đem gương sáng cả một đời sống đạo đức tràn đầy từ, bi, hỉ, xả, tinh tiến,
nhẫn nhục, v.v.. để cảm hóa lòng người, đó là hạnh tu cao tột của chính
mệnh, chính nghiệp. Lối thân giáo pháp thí đó công đức chắc chắn nhiều hơn
lời giảng đạo lý suông mà chính bản thân người giảng không làm đúng theo
như lời giảng.
3.
Vô UṠ?hí : Có phúc đức, trí tuệ
vẫn chưa đủ. Nếu không luyện cho tâm được vững vàng để có thể đối phó với
mọi mối nguy hiểm xảy đến. Bởi vậy, người tu cần phải tạo cho mình một cái
tâm bình tĩnh trước mọi đe dọa, thử thách, mà lòng không khiếp sợ hay rối
bời, để làm chổ tựa nương vững chắc cho mọi người chung quanh. Gây niềm
tinh tưởng an tâm là ban bố sự vô úy cho chúng sinh được nhờ cậy. Ban cho
người khác cái không sợ hãi là làm cho chúng sinh được vững dạ làm ăn sinh
sống…
"Thấy kẻ hỏi xin rồi mới mở túi tiền, hoặc cho mà còn theo thời gian và
không gian đã ấn định, hay bố thí vì sợ hãi, vì lợi lộc, vì tiếng khen
hoặc vì đổi chác, thì chẳng phải là lối bố thí "Ba la mật". (BTD,trang
429)
Những chương dưới đây thuộc pháp môn "Tứ Vô Lượng Tâm".
Chương 16, Trưởng giả Pháp BảoKế dạy về "Tâm
Bi"
Chương 17, Trưởng giả Phổ Nhãn dạy về lý
"Chân Không".
Chương 18, Vua Vô Yếm Túc dạy "Tâm Xả".
Chương 19, Vua Đại Quang dạy "Tâm Từ".
Chương 21, Ngoại đạo Biến Hành dạy "Tâm Hỉ".
Tứ
Vô Lượng Tâm.
1.Từ (Maitri) là tình thương yêu
bao la, ban hạnh phúc an vui cho hết thảy chúng sinh trong ba cõi.
Người có tâm Từ không oán giận kẻ đã gieo họa và gây đau thương tan tóc
cho mình, và không hề nghĩ đến sự trả thù, làm hại hoặc bài xích, bôi nhọ,
làm giảm giá trị hay dìm kẻ khác, nên không bao giờ sợ ai,
cũng không làm cho ai sợ mình.
2.
Bi (Karuna) là lòng thương vô
lượng, là tâm rung động trước những cảnh đau thương của chúng sinh, và
quyết chí xoa dịu và dập tắt những ngọn lửa khổ đau nung nấu tâm can của
nhân loại.
Người có tâm Bi sẵn sàng quên mình, chịu sự thiệt thòi, không chỉ sống cho
mình, mà còm sống cho kẻ khác, quyết không nhìn nhận uy lực của một người
nào có quyền sát hại hay làm khổ kẻ khác,…
_Đối tượng của Bi là những khổ đau.
_Đối tượng của trí rộng rãi hơn, bao gồm cả vui lẩn buồn khổ.
3.
Hỷ (Mudita) có nghĩa là vui theo
(tùy hỉ) niềm vui của kẻ khác, và đức tính cao thượng đứng hàng thứ ba
trong Tứ vô lượng tâm. Hỷ, không phải là trạng thái thỏa thích suông, cũng
không phải là cảm tình riêng đối với cá nhân nào. Hỷ là lòng vui thích
trước sự thành công của mọi người, là lòng thành thực chung vui, góp mừng
và ngợi khen người khác. Ganh tị là kẻ thù số một của tâm hỷ, và hỷ là sự
mừng vui như ngọn lửa là thiêu hủy ganh ghét, đố kỵ;
4.
Xả (Upeksà) là tâm xa lìa, không
luyến ái, không bám giữ, không oán giận, ghét bỏ, cũng không ưa thích say
mê, nhưng xả cũng không có ý nghĩa là vô ký (avyàkrta), lãnh đạm, lạnh
lùng, không màng thế sự, mà chỉ là lìa bỏ mọi chấp trược, dứt hẳn lòng
tham lam, bủn xỉn, sân hận, oán thù, si mê, kiêu căng, tật đố, ngã mạn,
lười biếng…. trong tâm ta.
Cuộc đời còn đau khổ, tối tăm, thì Bồ tát còn thị hiện ở đời (bằng mọi
cách) quyết thực thi bốn pháp "Từ bi Hỷ Xả" để làm lợi ích cho chúng sinh.
Chương 20 - Ưu bà di Bất Động dạy pháp :" Tinh Tiến Ba la mật"
Tinh Tiến (Viriya), với nghị lực, cố gắng khắc phục mọi khó khăn, lười
biếng…, là siêng năng chuyên cần để mong đạt cho kỳ được mục đích cuối
cùng.
Có những việc nếu xét thấy chưa yên tâm, không làm; việc trái lẽ phải,
không làm, việc gây oan nghiệt, không làm. Chỉ việc nào xét thấy là đúng,
hay, đẹp, nên làm, cần làm, phải làm thì làm cho kỳ được.
Người tu hạnh Bồ tát gặp thuận duyên không lấy làm đắc chí, gặp nghịch
cảnh chẳng hề nản lòng, thoát chuyển: "càng nhiều gian lao, Bồ tát càng
bền gan và can đảm quyết tâm, khó khăn, nặng nhọc chỉ làm thoái chí kẻ yếu
hèn, nhưng Bồ tát càng gặp chướng ngại, khó khăn lại càng thêm bền gan và
cương quyết, càng hăng hái cố sức vượt qua…
"Thực ra, không phải người tu đạo mong cầu thử thách dồn dập đến với mình,
nhưng phải chấp nhận trên đường hành đạo, Bồ tát gặp nhiều chông gai, nên
luôn luôn cần cảnh giác và tự đặt mình vào mọi trường hợp khó khăn, để tìm
cách vượt lên trên những cam go thử thách, thì mới tiến bước được"(BTD,
trang 500)
Và
dưới đây là những tấm gương sáng về hạnh tinh tiến:
-
"Bố tát thường Đề vì cầu chính pháp mà quên ngày đêm, quên mưa nắng,
quên cả vũ trụ, cả thân tâm".
-
"Pháp sư Đạo An đem đổ chúng vào rừng khai khẩn, tự thực kỳ lực để duy
trì chính pháp trong đời loạn, trống trận đánh thấu ngưỡng cửa mà Ngài
vẫn ngồi sang định kinh A Hàm".
-
"Bồ tát Thường Bất Khinh gặp bất cứ ai cũng chúc cho họ (sẽ) thành Phật.
Người đời cho là kẻ điên khùng, có khi còn bị chửi mắng, bị ném gạch và
bị đánh đập nữa, nhưng ngài vẫn không lùi bước, giữ nguyên ý định.
-
"Ngài Đạo Sinh bị đuổi vào rừng cũng vẫn sắp đá lại thuyết pháp, khiến
đá cũng cuối đầu nghe (ngoan thạch điểm đầu).
-
"Ngài Tuệ Viễn dám cải lại Ngụy Vũ đế và chống với những kẻ bất lương để
giữ gìn chính pháp"
-
"(và gần đây nhất) Hòa Thượng Thích Quảng Đức và sáu vị Tăng, Ni tự
thiêu để phản đối chính quyền nhà Ngô triệt hạ cờ Phật giáo…
Đó
là những vì sao chiếu soi cho hậu thế cần phải lưu tâm suy nghĩ mà thi
hành cái nhiệm vụ của mình: Hy sinh bảo vệ chính pháp; thể hiện trọn vẹn
ba đức đại hùng, đại lực, đại từ bi…
Chương 23_ Thuyền trưởng Bà Thi La dạy pháp: " Nhẫn Nhục Ba La mật"
Nhẫn Nhục (Khanti) : là đức tính chịu đựng những nghịch cảnh não lòng và
lấy những phiền muộn do người khác gây ra cho mình, mà không tỏ vẽ khó
chịu , cũng chẳng thốt ra một lời oán trách kêu ca.
_"Nhẫn" là kiên nhẫn, gánh chịu vui vẻ.
_"Nhục " là hối nhục; bị tổn thương lòng tự ái mà vẫn không ta thán.
"Nhẫn nhục bao gồm mọi sự chịu đựng như nóng, lạnh, đói khát, bị đánh đập
tra tấn, giam cầm, tật bệnh, đao binh, quở trách, chê bai, mạ lị; gây đau
khổ cho thể xác lẫn tinh thần.
Nhẫn nhục thường phải dùng đến trong những trường hợp nghịch cảnh đau
thương, nếu vượt được thì chóng thành Phật quả. Ngược lại, nếu trong cơn
thử thách mà không lấy nhẫn nhục để đối trị lại, để cho ngọn lửa sân hận
bùng lên, sẽ tiêu tan, tàn phá hết rừng công đức",(BTD, trang 525)
Nhẫn nhục không có nghĩa sợ sệt, hèn nhát mà, ngược lại, là một đức tính
cao cả của bậc đại nhân: làm những việc khó làm và nhẫn những điều khó
nhẫn, kẻ tầm thường không thể nào theo kịp hay bắt chước được.
Có
hai cách nhẫn nhục: "Nhẫn nhục vì hoàn cảnh cô đơn, vì địa vị thấp hèn,
hay vì danh, vì lợi, vì sợ thế lực uy quyền của của người có thế đè
bẹp mình dể dàng, mà bắt buộc phải nuốt hận làm ngơ, là thứ nhẫn nhục còn
ô nhiễm, chỉ vì muốn yên thân để tránh những sự bất lợi xảy đến cho mình.
Nhưng nhẫn được với kẻ yếu hèn dưói mình mới thật là đáng quí.
"Nhẫn nhục không chấp tướng là thứ nhẫn nhục để tiêu trừ sân hận, kiêu
căng, tham lam, vị kỷ. Nếu có người mắng nhiếc mình, hoặc phê bình, chỉ
trích, thì hảy bình tâm tự kiểm điểm xem mình thực có lổi hay không, nếu
quả thật có lổi, ta cầ phải sửa đổi để cải hóa lương tâm. Còn nếu không có
lổi, mình hảy bỏ qua đừng trụ tâm vào đó, những lời vu cáo không đáng được
lưu ý vì nó chẳng dính dáng gì đến ta, do đó chẳng nên chuốc lấy ưu phiền,
sân hận, mà chỉ nên coi những lời nói, những cử chỉ khiêu khích như gió
thoảng ngoài tai". (BTD, trang 533)
Nhẫn nhục là mầm sinh ra Giới, Định, Tuệ và là dụng cụ để nhổ hết mọi pháp
ác, là vật trang điểm tâm hồn của bậc trí thức, là sức mạnh vô địch của
người tu phạm hạnh…
Chương 24_ Trưởng giả Vô Thượng Thắng dạy
Thiện Tài về "Tứ Nhiếp
Pháp"
Trưởng giả nói: "Tôi đã thành tựu Bồ tát đắc Nhất thiết chủng trí và các
pháp thần thông vô ngại. Do đó tôi có thể thị hiện (vibhavana) khắp nơi
trong đại thiên thế giới để thuyết pháp độ sinh, làm cho ai nấy đều bớt
dần tâm sân hận, oán thù, phá mọi oan kết, trừ nạn chiến tranh, làm lành
lánh ác, cắt đứt phiền não, diệt tham, sân, si, khiến cho chúng sinh xu
hướng về việc Thiện mà tạo được nhân lành. Nhưng muốn hành đạo có hiệu
quả, phải đem đạo vào đời. Lúc đầu, dùng phương tiện bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sự, giúp ích mọi người trong đời sống hiện tiền, sau mới tiến
dần tới sự lợi ích vĩnh viễn cho chúng sinh"
Tứ
Nhiếp Pháp gồm bốn pháp môn đối trị ở đời. Hay nói cách khác là: 4 pháp cư
xử thông thường mà người ta cần phải áp dụng nó trong những môi trường
sinh hoạt tập thể, thường gọi là xã hội văn minh.
1..Bố Thí (dànam)_ Sự tương trợ, cứu giúp người về mặt vật chất cũng như
tinh thần, một cách không vụ lợi.
2..Ái Ngữ (Priyavàdita)_ Lời nói hợp lý, tức lời nói không giận hờn, đặt
điều, xu nịnh, dèm pha, mà chỉ nói những lời chân chính, hòa ái.
3..Lợi Hành (Arthacaryà)_Làm tất cả công việc gì hữu ích cho tự thể, tha
nhân, và cho cuộc đời…
4..Đồng Sự (Samànàrthatà)_ Phục dịch công vụ. Ai nấy nên đem hết tài năng
mình ra làm việc công ích để cùng xây dựng một xã hội người văn minh, Giác
Ngộ và Giải thoát.
"…Bồ tát không thể vui hưởng Niết bàn an lạc một mình nếu thấy còn có
chúng sinh" mà hóa thân trong sáu đường, hòa mình vào cuộc sống trăm sai
ngàn biệt để cùng làm, cùng hưởng, cùng chung nếp sống, bìng đẳng vô phân
biệt, và dùng mọi phương tiện để diệt khổ, ban vui, khiến cho chúng sinh
được an lạc, thù thắng, trong một thế giới từ bi, khoan dung, độ lượng".
Chương 25_ Tỳ khưu ni
Sư Tử Tần Thân dạy pháp"Trì Giới Ba La mật"
Căn bản của giới:
1.. Nguyện dứt tất cả điều ác (nhiếp luận nghi giới)
2.. Nguyện làm mọi việc lành (nhiếp thiện pháp giới)
3.. Nguyện độ hết thảy chúng sinh (nhiều ích hữu tình giới)
Trì Giới (sila) có nghĩa là thanh tịnh ba nghiệp: thân, khẩu, ý. Thân:
không sát, đạo, dâm. Khẩu: không nói chia rẽ, nói lời hung ác, nói dối
trá, nói thêu dệt. Ý: Không tham, sân, si. Chẳng những thân không vi phạm
mà tâm cũng không hề nghĩ, tưởng đến những điều xấu ác đó, cho đến cả cái
"biết mình đã đoạn trừ được những điều đó"cũng không còn nữa, tới lúc đó
mới gọi là Trì giới ba la mật.
-
"Trì giới chấp tướng là chỉ làm lấy lệ, vụ hình thức bề ngoài, chứ thực
tâm vẫn còn nhiễm ô. Đó là lối trì giới để lấy tiếng khen, hoặc bị miễn
cưỡng, ép buộc, thiếu tự nguyện và thành thực, như vậy chẳng có ích lợi
gì cả".
-
"Trì giới chấp tướng là giữ theo giới luật mà mình đã trụ trì, không vì
danh lợi, hiếu thắng, mà chỉ vì theo đức tính thanh tịnh của tâm không
nhiễm trược. Khi đã biết là lẽ phải thì vui vẽ tự làm. Chẳng vì bó buộc,
giữ giới một cách tự nhiên, lúc nào cũng nghiêm trì giới luật mà không
thấy mình giữ giới nữa. Thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh , đó là nghĩa
câu : "xưng tính tác Phật sự" (làm việc Phật theo bản tính), (BTD,trang
558-559)
Chương 26 _ Thiện nữ Ba Tu Mật Đa dạy về tâm bình đẳng
Ly dục và vô phân biệt hay hành
"Ngũ Đình Tâm Quán"
Tức năm pháp quán tưởng để chặn đứng vọng niệm và lìa ái dục, đầu
mối của sinh tử luân hồi.
Phương pháp quán này phải dùng trí tuệ để phân tích, suy nghiệm và quán
sát. Đó là :
1.. Quán thân bất tịnh, trừ diệt tham ái.
2.. Quán từ bi, trừ diệt sân hận.
3.. Quán nhân duyên, trừ diệt mê hoặc, si cuồng.
4.. Quán giới phân biệt, trừ diệt ngã chấp.
5.. Quán sổ tức, trừ diệt loạn tâm.
Ghi chú : - Quán giới phân biệt : phép quán này chia thân, cảnh làm 18 (6
căn, 6 trần, 6 thức).
Trong 18 giới này không làm sao tìm thấy cái gì là cái "ta"cả. Cái ta chỉ
là một số Sắc pháp và Tâm pháp tạm thời hợp lại thành ngũ uẩn (Skandha):
sắc, thụ, tưởng, hành, thức) mà có, và chỉ có tên gọi chứ không có thực
thể.
Pháp quán này dùng để đối trị với ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, ngã si, và
làm cho ta thấy được tất cả pháp là vô ngã, vô thường…
Và
dưới đây xin lược kê những chương thuộc "Pháp môn Bát Nhã":
Chương 27, Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La dạy Lý "Chân Không Diệu Hữu".
Chương 28, Quán Tự Tại bồ tát dạy "Tâm Bi Vô Lượng".
Chương 32, Dạ thần Bà San Bà Diễm Đề dạy lý "Nhị Không".
Chương 37, Dạ thần thủ hộ nhất thiết Thành Đăng Trưởng Uy Lực Dạy về chữ "Không"
Chương 38, Dạ thần Khai Phu Nhất thiết thụ Hoa dạy về "Chân Như".
Chương 39, Dạ thần Đại Nguyện Tinh Tiến Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh
dạy " thu thúc 6 căn".
Chương 41, Thích nữ Cù Ba dạy "Đạo lý Nhân Duyên sinh".
Chương 43, Thiện nữ Thiện Chủ Quang dạy về "Thực Tại Siêu ViệtCủa Các
Pháp".
Chương 45, Ưu bà di Hiền Thắng dạy pháp môn "Vô Tận Tam Muội Giải Thoát Vô Y Xứ Đạo Tràng"( Phàm các
sựHiểu biếtdo lục thức đem lại, Bà đều đắc pháp thần Thông cả).
Chương 47, Trưởng giả Diệu Nguyệt dạy pháp
môn "Tịnh Trí Quang Minh" (biện giải
lẽ chân giả).
Chương 48, Trưởng giả Vô Thắng Quân dạy về
"Kiến Tính thành Phật"và "Giác Ngộ
Giải thoát".
Chương 50, Đồng tử Đức Sinh và đồng tử Hữu
Đức dạy về "Chân Lý Tuyệt Đối".
Chương 51, Bồ tát Di Lặc giảng pháp môn "Bát
Nhã và Duy Thức" (Luận về chữ "Tâm".
Tất cả những chương nói về "Pháp môn Bát Nhã"trên đây đều hàm ẩn những
giáo lý cao siêu, mầu nhiệm của triết học đại thừa Phật giáo, đã được tác
giả trình bày với một bút pháp linh hoạt, trong sáng, khúc chiết và dễ
hiểu, tôi không muốn làm mất nhiều thời giờ quí báu của các bạn bằng cách
đi sâu vào chi tiết trong mỗi chương, chỉ xin mời bạn hãy đọc …để được
thưởng thức những cái Hay, Đẹp về cả ý lẫn lời của mỗi chương nói trên.
Chương 29- Bồ tát Chính Thụ ban ơn thí Chính pháp.
Bồ
tát nói: "Tôi từ thế giới Diệu Tạng ở phương Đông, là cỏi của Đức Phật Phổ
thắng Sinh, cách đây hằng hà sa số vi trần thế giới mà tới. Mỗi bước chân
tôi đi là trải qua vô lượng cõi Phật, và tôi đã cúng dường vô số chư Phật
mười phương. Tôi biết rõ tâm tính của mỗi chúng sinh trong khắp cõi mà tôi
đã đi qua, và thấu rõ nguyện vọng cùng căn tính của mỗi người, nên đã vì
tất cả mà tùy thuận thuyết pháp độ sinh theo tiếng nói, âm thanh của từng
giống, loại. Tôi cùng Bồ tát Quán Tự Tại dùng tâm bi vô lượng để ban vui
cứu khổ cho nhân loại, chúng sinh. Tôi khuyên Thiện nam tử nên cố gắng mở
rộng thêm tâm Bi …cho thực vô bờ bến để hàng Bồ tát đạo". (BTD, trang
636)
Đại Bi là lòng thương yêu rộng lớn và sáng suốt, là tôn trọng sự sống và
quyền sống của hết thảy chúng sinh. Cuộc đời vốn dĩ đã phức tạp, khổ đau,
kiếp sống con người thì ngắn ngủi và đầy bất trắc, chúng ta hãy thương yêu
nhau. Vì mỗi con người đều đáng thương và cần được phụng sự.
Chương 30- Thần Đại Thiên dạy : "Phá Chấp Ngã và Chấp Pháp"
(
Thần Đại Thiên): Tôi đã thành tựu quả Bồ tát giải thoát, tên là "Vân
Võng". Nói xong, Thần liền hóa phép thần thông hiện ra trước mắt Thiện Tài
từng đống châu báu, thất bảo cao như núi, cùng những hương hoa, y phục,
dụng cụ, âm nhạc, nhiều vô số kể. Rồi, Thần lại bảo Thiện Tài.
"
Tôi đã vì tất cả chúng sinh mà biến hóa ra những thứ này để dạy hạnh Bồ
tát. Nếu kẻ nào ham mê dăm dục, tâm thường phóng dật, thì tôi liền hiện
ngay ra những cảnh bất tịnh. Nếu kẻ nào lòng sân hận, kiêu căng, tật đố
thì tôi hiện ra những hình tướng đáng sợ như Thiên lôi, La sát uống máu,
ăn thịt để răng đời. Nếu ai hôn trầm, lười biếng, giải đãi, tôi sẽ hiện ra
những cảnh đao binh, nước lửa, bệnh tật, trộm cướp v.v…buộc họ phải cố
gắng, tinh tiến, siêng năng , chăm lo công việc. "Vân Võng"có nghĩa là
lưới mây . Mây tuy thưa mỏng nhưng khó thoát. Nó vây bọc quanh mình như
nghiệp quả. Người đời, không ai tránh khỏi nghiệp, dù là nghiệp nhỏ, cho
nên tôi đã dùng đủ mọi phương tiện khiến chúng sinh phải từ bỏ hết mọi nết
hư, tật xấu, mà tinh tiến tu tập các pháp lành để trở thành người lương
thiện, xa lánh đường hiểm ác, tới nơi vô ngại, an lành.
"Người nào có đạo tâm trong sạch thì không còn mong cầu điều chi cả, bởi
lẽ đã rõ biết các pháp đều hư huyễn, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, có gì
đâu là chân thật mà mong cầu?
"Người nào có đạo tâm đã rõ các pháp thế gian đều tương đối, trong họa có
phúc, trong phúc có họa, cho nên tâm lúc nào cũng bình thản ở trong cảnh
thịnh suy, họa phúc mà tâm chẳng hề giao động, luôn luôn phẳng lăng như
tờ.
"Quan niệm về một cái ngã thường tồn, bất biến và luôn luôn đồnh nhất, là
một quan niệm sai lầm, hoàn toàn phi lý. Chính nó là nguyên nhân phát sinh
ra những tình cảm và tư tưởng ích kỷ, ty tiện, những tham vọng vô bờ bến,
những quyến luyến đam mê, oán thù bất tận. Chính nó là tác giả những cuộc
xô sát ác liệt giữa người và người, không giây phút nào ngơi. Tất cả thống
khổ, thương đau trên cõi trần gian này đều bắt nguồn từ quan niệm sai lầm
về ngã kiến (thấy có ta) cấu tạo ra cả. Vậy, người tu cần phải diệt trừ
cho được cái quan niệm sai lầm đó, tức là phải phá chấp ngã và luôn cả
chấp pháp một cách triệt để, và có phá được cả hai món chấp ấy mới mong
giải thoátnổi hoàn toàn khỏi mọi khổ đau và ác nghiệp_ Đó là mục tiêu đầu
tiên và cuối cùng của người hành Bồ Tát Đạo" (BTD, trang 644-646)
Trong chương này tác giả đề cập hai phương pháp phá chấp: một của "pháp
môn Duy Thức", và một của "Không Tông Bát Nhã"với những lý luận chính xác,
đanh thép. Cuối cùng đưa đến nhận thức: Tuy cùng nhằm mụv đích phá chấp
ngã, phá chấp pháp mà hai pháp môn Duy Thức và Bát Nhã đã áp dụng hai
phương pháp khác nhau;
"Không Tông Bát Nhã" thì lặng nhìn Bản thể sự vật, không nói năng gì, và
phóng sẳn tầm mắt vào nơi sâu thẳm của tâm thức im lìmđể nhận thấy rõ cái
chân tính rỗng lặng của vạn hữu".
"Pháp Tướng Duy Thức"lại dừng chân ở phía ngoài hiện tượng mà quan sát và
phân tích tỉ mỉ từng khía cạnh mọi cảm giác của nội tâm để rồi cùng tiến
sâu phía bên trong Thể tính của vạn vật, và cùng nhận ra ngay cái Thực
Tướng Vô Tướng của muôn pháp hóa sinh. Rốt cuộc, cả hai phái pháp Tính và
pháp Tướng đều gặp nhau ở điểm siêu tuyệt nơi Bản Thể Chân Như, hay Chân
Không của vạn pháp" (BTD, trang 692)
Chương 31 _ Thần An
Trụ dạy "Pháp môn lục thông"
1.. Thiên Nhãn Thông : mắt nhìn thấy được thật xa, trông thấu xuốt mọi
pháp, nhận rõ những vật li ti như vi trùng, v.v…
2.. Thiên Nhĩ Thông : tai nghe rõ âm ba ngoài nghìn dặm tựa như máy thu
thanh.
3.. Thần Túc Thông : hay Như Ý Thông , hoặc Bất Tư Nghị Lực: là những hoạt
lực tự tại vô ngại, không thể suy lường được về khả năng. Với pháp này có
thể bay bổng như chim trời, đi trên mặt nước hay duy chuyển nhẹ nhàng
nhanh chóng, tựa như cưỡi gió lướt đi, biến hóa vô cùng mau lẹ.
4.. Túc Mệnh Thông : là biết rõ kiếp quá khứ, vị lai, thấu suốt nghiệp
chướng của mình và của mọi người trong nhiều đời nhiều kiếp.
5.. Tha Tâm Thông : là biết rõ những tư tưởng thầm kín và hiểu thấu ý muốn
của mọi người, do đó dể cảm thông và đáp đúng được mọi nguyện vọng của tha
nhân.
6.. Lậu Tận Thông : là vượt lên mọi phiền não, nghiệp chướng, sống ngoài
vòng sinh tử, luân hồi, hoàn toàn giải thoát, không bị vướng mắc nghiệp
duyên ràng buộc nữa.
"Trong sáu phép thần thông chỉ có Lậu Tận Thông là được Đức Phật khuyến
khích, vì đây là lối luyện cho tâm hư, nhập Niết bàn (Nirvana) thanh tịnh,
và khi đã đắc pháp này rồi, tự nhiên thông trên đều rộng mở, không cần tu
mà cũng được .." (BTD, trang695- 696)
Chương 33_ Dạ thần
Phổ Đức Tịnh Quang dạy về "Thực Tướng của các Pháp"
Dạ
Thần nói : "Bồ tát muốn hành đạo phải phát tâm cao dày. Khi đã thành tâm
phát nguyện vô thượng Bồ đề thì có thể thành tựu được mười hạnh Phổ
Hiền và viên mãn được thanh tịnh tâm. Tâm thanh tịnh thì trông thấy
được chư Phật. Mắt thanh tịnh thì nhìn thấy được tướng tốt trang nghiêm
của Như Lai. Trí tuệ thanh tịnh thì biết rõ công đức rộng lớn như biển cả
của chư Phật, và thấy rõ được vô lượng Phât Pháp quang minh khắp pháp
giới, trông thấy từ mỗi lổ chân lông của Như Lai phóng ra, và trong một
niệm thấy chư Phật xuất hiện khắp pháp giới, lại nghe hiểu âm thanh của
chư Phật chuyển pháp luân trong tam thế, biết tường tận danh hiệu của hằng
hà sa số chư Phật mười phương, lại biết đụoc cả chư Phật dùng bất tư nghị
tự tại thần thông lực để đều phục muôn loài…Khi tâm chẳng còn khởi vọng
phân biệt, và nhìn thấy rõ chư Phật tam thế xuất hiện ở khắp các đạo
tràng, thấy Như Lai chẳng còn tùy thuộc vào không gian và thời gian, thấy
Như Lai không từ đâu đến, không đi về đâu, không sinh cũng không diệt,
không thực cũng không hư, chẳng chân cũng chẳng vọng , chẳng hoại cũng
chẳng đổi dời, vì Thể tính là vô sinh , và Pháp thân là bình đẳng, vì Như
Lai là nguồn sống bất tận, là ánh sáng vô biên độ khắp chúng sinh , vì
tính của Như Lai thường còn chẳng biến đổi, vì Như Lai vốn vô tướng, và
Tính, Tướng bất nhị, chính là "Chân Không Diệu Hữu".
"Còn ở trong vòng điên đảo mê mờ thì chưa rõ được cảnh Viên Giác của chư
Phật, vì thế mà người tu cần phải gạn lọc tâm hồn sao cho cái tâm vọng
động si mê của mình được thanh tịnh, hầu cho ánh sáng nhiệm mầu của Chân
Tâm được tỏ bày vi diệu.." (BTD , trang 705- 706)
Chương 34 –35 -Dạ
thần Hỷ mục Quan Sát Chúng Sinh và Dạ thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức dạy
"37 đạo Phẩm"
Đạo đế là con đường dẩn chúng sinh đến quả vị giải thoát, ra khỏi tam giới
sinh tử, luân hồi. Pháp môn dẩn tới chổ cứu cánh giải thoát có nhiều vô
kể, trong đó phải nói đến 37 đạo phẩm. Phàm người tu đạo Bồ tát ai cũng
phải hành trì 37 đạo phẩm, mới mong đạt tớ chỗ rốt ráo Bồ đề.
I.
Tứ Niệm Xứ:
-
Không sạch cho là sạch ( Quán thân bất tịnh).
-
Không vui cho là vui (Quán thụ thị khổ).
-
Vô thường cho là thường (Quán tâm cho là thường ).
-
Vô ngã cho là ngã (Quán pháp vô ngã).
II. Tứ Chính Cần:
-
Việc ác đã làm, quyết không làm nữa (Dĩ sinh ác pháp linh đoạn).
-
Việc ác chưa làm, quyết không bao giờ làm (Vị sinh ác pháp linh bất
sinh).
-
Việc thiện đã làm, thì quyết tâm làm thêm nhiều nữa (Dĩ sinh thiện pháp
linh tăng trưởng).
-
Việc thiện chưa làm, quyết làm cho kỳ được (Vị sinh thiện linh sinh).
III. Tứ Như Ý Túc hay Tứ Thần Túc:
-
Do quyết tâm tu hành cho định tuệ ngang nhau mà đắc thần thông (Dục như
ý túc).
-
Tinh tiến tu hành cho đắc định tuệ ngang nhau mà đắc thần thông (Tinh
tiến như ý túc).
-
Do tu chính định mà đắc thầ thông (Định như ý túc).
-
Do chính quán mà đắc thần thông (Quán như ý túc).
IV. Ngũ Căn:
-
Lòng tin sâu sắc ở Tam Bảo, ở pháp Tứ Diệu Đế (Tín Căn).
-
Siêng năng tu hành theo chính đạo (Tinh tiến căn).
-
Luôn nhớ nghĩ đến chính pháp ( Niệm căn)
-
Giữ tâm không tán loạn (Định căn).
-
Tâm trí sáng suốt, phân biệt rõ chính tà (Tuệ căn).
V.
Ngũ Lực:
Có đức tin chân chính (Tín lực).
Quyết tiến bước trên đường tu đạo (Tinh tiến lực).
Sức suy tưởng sâu rộng (Niệm lực).
Định lực kiên cố (Định lực).
Thần trí sáng láng( Tuệ lực).
VI. Thất Giác Chi, còn gọi là "Thất Bồ đề phận".
-
Thường xuyên ở trong sinh không quán, tạo cho định tuệ được thăng bằng
(Niệm giác chi).
-
Dùng trí tuệ vô lậu để quán chiếu sự vật, không sai lầm (Trạch Pháp giác
chi).
-
Dũng mãnh trừ diệt các tư hoặc, thực hành chính pháp (Tinh Tiến giác
chi).
-
Vui mừng được giải thoát và tùy hỷ tất cả việc thiện (Hỷ giáic chi).
-
Những cảm khoái an lạc, vui tươi là do sự diệt trừ kiếnn hoă(Khinh an
giác chi).
-
Dùng pháp không sinh quán đối trị các tư hoặc làm cho tâm không tán loạn
(Định giác chi).
-
Dùng sinh không quán đối trị phóng xả tất cả pháp thế gian, không lưu
giữ một bóng dáng gì trong tâm, tạo cho tâm hồn luôn luôn thanh tịnh
sáng suốt (Hành Xả giác chi).
VII. Bát Chính Đạo:
-
Sự thấy biết đúng như thật bốn Thánh Đế, hay nói cách khác: sự nhận thức
các hệ thống giữa vũ trụ và các luận lý siêu hình chi phối vạn vật
(Chính Tri Kiến).
-
Tư tưởng chính đáng, không tham, không giận, những tư tưởng từ bi (Chính
Tư Duy)
-
Lời nói chân chính không thô lỗ, đặt điều, xu nịnh, dèm pha (Chính Ngữ).
-
Đời sống trong sạch, không sát sanh, trộm cắp, tà dâm (Chính Mệnh)
-
Hành động đúng theo lẽ phải, phù hợp với chân ly, tránh làm thiệt hại
phiền não cho kẻ khác (Chính Nghiệp).
-
Chăm chỉ làm những việc thiện, tránh những hành động, tư tưởng, ngôn ngữ
tà ác, tu luyện thân tâm cho mỗi ngày thêm tốt đẹp (Chính Tinh Tiến)
-
Suy xét ᶦ?224; tưởng nhớ những việc hay, lành, gột bỏ mọi ý nghĩ xấu để
giữ cho ba nghiệp (thân, khẩu, ý) luôn luôn trong sạch (Chính Niệm)
-
Chuyên chú tâm trívề mọi điều lành. Tâm có định thì trí mới sáng suốt,
và một khi đi vào hành động ít bị sai lầm đến nổi gây ra những khổ đau,
phiền não cho mình và cho kẻ khác (Chính Định).
*.
Chính Ngữ- Chính nghiệp- chính tinh tiến- chính mệnh thuộc về Giới (Sila)
*.
Chính niệm- chính định- thuộc về Định (Samàdhi)
*.
Chính tri kiến- cfhính tư duy thuộc về Tuệ (Prajna).
Chương 36 – Thần Tịnh
Tĩnh A⭠Hải dạy: "Pháp môn Trung Đạo"
Và
dưới đây tác giả bàn về thuyết Trung Đạo của Phật giáo đã áp dụng một Biện
chứng pháp kỳ thú xây dựng trên Tam luận:
Chấp nhận – Phủ nhận- Chấp nhận…
"
Cứu cáng của biện chứng pháp này có thể là một chấp nhận hay một phủ nhận,
nhưng đây lại là cái "chấp nhận của chấp nhận" hoặc cái "phủ nhận của phủ
nhận", vượt hẳn ra ngoài giới hạn của biện chứng, và chỉ có thể thực hiện
được nhờ vào diệu dụng của tâm linh mà thôi.
Trong kinh Kim Cương có câu:
Nhất thiết pháp giả, tức thị nhất thiết pháp, thị cố danh nhất thiết pháp.
"Cái gì gọi là hết thảy pháp, tức không phải là hết thảy pháp, đấy chỉ là
cái tên để gọi các pháp (sự vật). Ta thấy Phật nói: "có", rồi lại phá luôn
"có", và lập ngay cái "không", và trong khi cái "có" và cái "không" đang
giằng co nhau, thì Phật lại đưa ngay một nhát gươm thượng thừa để, chặt
đứt cả Có lẫn Không, cắt đôi dòng suy tưởng để đi ngay vào cái Thực Tướng
Không Tướng nên cũng gọi là hết thảy pháp.
"Nói pháp mà nói như thế mới thật là "Không có pháp nào để mà nói cả".
Cũng trong tinh thần nói trong im lặng ấy, Phật đã mở pháp Tiểu thừa dạy
lý Vô Ngã cho những đệ tử quen chấp cái "tôi"là thực có. Thực hành Pháp Vô
Ngã, hàng tiểu thừa tiêu diệt được cái "tôi"và cầu mong được giải thoát.
Tuy nhiên, vì người đời chấp Hữu Ngã nên Phật mới dạy Vô Ngã, nhằm tạo đòn
đối nghịch, nhưng nếu còn đối nghịch là còn chân lý tương đối có hai
chiều, chưa phải là lẽ Đạo.
"Trung Đạo, không có nghĩa là nơi trung giangiữa "có" và "không" mà có ý
nghĩa vượt ra ngoài vòng sai biệt. Ngoài sự so đo. Đó là con đường người
ta từ Mê tới Ngộ, từ phàm tới thánh, thoát khỏi mọi tà kiến chấp trước.
"Không có cái "Có"mà cũng không có cái "Không". Cả hai thuộc về trường hợp
"ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt". Chân lý của Đạo không ở vào biên
giới nào cả, và bất cứ quan niệm tương đối nào cũng có cái lý Trung Đạo
nằm ở trong.
"Trong kinh A Hàm có nhiều đoạn nói rằng: "Nhờ lý duyên khởi mà ta xa lánh
được nhị biên, thoát khỏi thường, đoạn, hữu, vô, nhất, dị, và có năng lực
phá chấp triệt để đưa từ thế tục đế đến Thắng nghĩa đế.
"Biện chứng pháp lấy tên là " Bát Bất Trung Đạo"là con đường giữa bác bỏ
tám cái chống đối nhau: sinh- diệt- thường- đoạn- nhất- dị- lai- khứ, vì
đó chỉ là những quan niệm, thì không thể nói là có hay không, hay vừa có
vừa không, hay chẳng có chẳng không. Những gì tương đối đều là giả có,
không chân thật.
"
Khi tâm con người còn bị vọng tưởng mê hoặc, thấy mọi sự quanh mình đều có
thực thì còn bị mê lầm. Chẳng những mọi hiện tượng, mọi sắc tướng đều
trống rỗng, đều là KHÔNG, bởi vì chúng tuỳ nhân duyên sinh mà chẳng có
thực thể, thậm chí đến cái tuyệt đối, chính nó cũng là "Không"vì nó ở
ngoài trí nhận định và khái niệm của con người. Nó là bất khả tư nghị,
không thể nói lên lời hay bày tỏ bằng văn tự được.
"
Nói tuyệt đối là "Không"thì làm sao đạt được cái "Không"ấy? Chạy theo cái
"Không" này phải chăng chúng ta sẽ rơi vào hư vô trống rỗng ?- Không. Nếu
vạn vật đều là giả có, đều là "Không" theo ý nghĩa trống rỗng, thì cái
"tuyệt đối Không"của Trung Đạo lại hết sức chân thật và chẳng trống rỗng
chút nào cả, bởi vì nó hàm chứa cả vạn hữu bên trong. Thực khó lấy trí
phàm của ta mà phán đoán, dò xét và nhận thức được cfái tuyệt đối mầu
nhiệm này, và phải dùng trí Bát Nhãlà cái trực giác siêu phàmbén nhạy để
chứng nhận cái "Không"ấy mới biết rõ nó như thế nào. Trực giác ấy chỉ đến
với ta trong lúc tịch tĩnh của tâm hồn. Khi ta biết từ bỏ mọi lý luận và
lý trí so sánh nhị nguyên để diễn đạt tư tưởng. Trong cái thực chứng ấy,
mọi đối đãi đều tiêu tan, không còn Ngã, Pháp, Khách, Chủ gì nữa.
"Muốn tìm cái chân lý tuyệt đối ấy phải bới tìm nơi đáy lòng mình, cũng
như muốn thấy Bồ Đề, Niết bàn phải đi sâu vào tận cùng tâm khảm, dùng
phương pháp "hồi quang phản chiếu"mà thu gọn không – thời gian vào một
điểm "đương xứ" để cho dĩ vãng và tương laivô tận gặp được nhau trong một
khoảnh khắc hiện tiền.
"Nói vạn pháp là "không"là muốn nói vạn pháp không chân thật, không thực
có bền bỉ, và từng sát na sinh diệt. Tuy vậy, mọi vật lại từ cái thể
"không" ấy mà ra cả. Sắc trần tuy không phải là biểu hiện của sự thật
tuyệt đối, nhưng nó vẫn hàm chứa một sự thật tương đối, ước lệ. Vậy, cái
chân thật, cái tuyệt đối vốn ở trong cái sắc trần tương đối. Nhưng ở vào
một mức độ nào đó thôi, mức độ phù hợp với hoàn cảnh của thế gian.
"Sóng không phải là nước mà chỉ là biểu tượng của nước, nhưng sóng vẫn có
nước là gốc ở bên trong. Vì nhận rõ lẽ này mà người tu chứng đạo, dù đã
nắm được cái lý tuyệt đối, mà vẫn không lìa bỏ thế giới sắc tướng bên
ngoài của những sự thật tương đối. Sau khi đắc Bồ đề rồi, các vị Bồ tát
lại hồi nhập thế giới Sa bà, trở về chung sống với thế gian ô trược, có
thế mới độ được chúng sinh đương bị trầm luân trong sinh tử.
"Nếu đứng trên mặt hiện tượng mà xét, thì sự sống chỉ là những dòng sinh
hoạt… biến động, hòa hợp và liên tục. Mọi sự vật hỗ tương ảnh hưởng, quan
hệ mật thiết với nhau trùng trùng điệp điệp trong không gian và thời gian
vô tận vô biên. Bởi luôn luôn sinh diệt, nên sự vật chẳng phải là những
thực thể thường còn, và cũng vì sự lưu chuyển tiếp nối nhau không dứt, cho
nên sự sống bất tận không bao giờ diệt mất.
"Phật giáo không hề xác nhận có một tự ngã hằng hữu và cũng hề chấp nhận
sự diệt vong. Không diệt mất; cùng không còn mãi, mọi sinh hoạt của hiện
tượng giới chỉ là một đại dương liên tục (Rien ne se perd, rien ne se
crée). Nhận thức được sự biến động liên tục đó là đi vào con đường nhận
thức Trung Đạo về mặt hiện tướng. (BTD, trang 754).
Chương 40- Thần Diệu
Đức Viên mãn dạy Thiện Tài về những Quả vị tu chứng được trong đạo Phật.
Muốn được những quả vi đó phải có những đại nguyện:
-
Nguyện cúng dường chư Phật mười phương.
-
Nguyện phát tâm đại Bồ đề.
-
Nguyện siêng năng tu tập và quán tưởng các pháp của Phật.
-
Nguyện dùng tâm thanh tịnh chiếu soi tam thế.
-
Nguyện phát tâm bình đẳng vô phân biệt.
-
Nguyện sinh vào nhà Như Lai.
-
Nguyện có đầy đủ Phật lực quang minh chính đại.
-
Nguyện thấu hiểu tường tận các pháp môn.
-
Nguyện hiện ra thân tướng trang nghiêm khắp pháp giới.
-
Nguyện được sống trong cõi Phật. (chép theo kinh).
Khi đã lập nguyện như vậy rồi phải phát tâm Bồ đề, khởi lòng đại bi, cứu
giúp muôn loài, đem tâm càu nhất thiết trí, dùng Tâm từ vô lượng độ tận
chúng sinh, lấy tâm Bi, dũng mãnh tế độ muôn loài…
Những quả tu chứng được minh giải trong các phẩm của kinh Hoa Nghiêm:
Thập Tín: ……………………6 phẩm, từ 7 tới 12
Thập Trụ:……………………1 phẩm,-15
Thập Hành: …………………1 phẩm,-22
Thập Hồi Hướng………………1 phẩm,-25
Thập Địa: …………………….1 phẩm,-26
Đẳng giác, Diệu Giác:…………11 phẩm,-27 đến 37
Nghĩa là hành giả phải trải qua ba vô lượng (A tăng kỳ) kiếp tu hành, và
lần lượt đi hết các chặng trênn đường đạo, từ thấp đến cao, từ gần tới xa,
qua đủ 53 cấp bậc, từ Tam hiền đến thập thành, học đủ các môn từ dể đến
khó, đi từ tướng ra tính, lại từ tính trở về tướng, không trụ nơi Niết bàn
an vui thanh tịnh, mà lại tự nguyện "hòa quang đồng trần", lăn lộn trong
đường trần để độ tận chúng sinh cương cường ương ngạnh…
Chương 46- Trưởng giả
kiên Cố Giải Thoát dạy pháp môn "Bất Nhị"
Trưởng giả nói: "Trong lý siêu việt tuyệt đối hay Thắng Nghĩa Đế thì các
pháp trên thế gian này đều bình đẳng, không khác nhau trên mặt Bản Thể
Chân Như Tuyệt Đối. Và chỉ khán nhau trên mặt hình tướng tương đối bề
ngoài mà thôi. Do đó, phiền não tức Bồ đề, chúng sinh tức Phật, Sự tức Lý,
Vật tức Tâm, và Hiện tượng tức Bản thể…Tất cả chỉ lả Một, không Hai".
Và
dưới đây là lời bàn của tác giả về pháp môn "Bất Nhị"
-
Theo Kiến Giải của Phái Thiền Tông
Thuyết "Chân Không Diệu Hữu" hay Trung Đạo của Bồ tát Long Thụ trong pháp
môn Bát Nhã là cái nhân đưa tới thuyết "Bất Nhị pháp môn" của Tổ Tuệ Năng
trong phái Thiền Tông Đốn Ngộ Trung Hoa. Tổ Tuệ Năng cho rằng "Phiền não
tức Bồ đề" và khẳng định rằng : sinh hoạt hiện thế là thực hiện cảnh quan
Cực Lạc, thế giới lý tưởng ở ngay chốn trần gian đầy khổ lụy này. Đó cũng
là thuyết "chúng sinh tức Phật"hay "tức thân thành Phật".
Khi nói "Phiền não tức Bồ đề" không có nghĩa là để mặc cho tấm thân ươn
hèn trôi dạt vật vờ, như con thuyền không lái trong biển khổ mênh mông,
phó thác cho con tạo mặc sức xoay vần, đầy đưa mình trên làn sóng để đạt
tới những bến bờ vô định, rồi một ngày kia, chẳng chóng thì chầy, cuối
cùng vẫn cứ được hưởng an vui hạnh phúc. Nói như thế nên phải hiểu theo ý
nghĩa là phải can đảm nhìn nhận sự khổ đau, cắn răng chịu đựng, đừng kêu
la khóc than vô ích, mà phải đương đầu giải quyết các vấn đề khổ đau trên
đường đời một cách kiên gan, không lẩn tránh, tìm mọi cách khắc phục gian
khổ và chính ở chổ kiếm cách giải thoát cho mình và cho mọi người. "Chán
nản cuộc đời, tìm đến cửa Phật" để được an thân, điều đó không hẳn….đáng
trách, nhưng hoài bão cao cả của đức Phật khi ngài xuất gia cầu đạo không
phải chỉ hướng đến mục đích tầm thường và hẹp hòi như vậy. Sống cuộc đời
xuất gia không để trốn tránh đau khổ mà là để chiến thắng đau khổ. Muốn
chiến thắng đau khổ, phải can đảm đương đầu với khổ đau không chút sợ hãi,
bởi vì xưa nay không ai sợ địch mà lại chiến thắng được địch bao giờ. Cũng
vì thế mà cuộc đời trở nên có giá trị và đầy ý nghĩa thanh cao đệp đẽ, vì
đau khổ chính là cái nhân tạo nên sự an lạc và giải thoát cho tâm hồn.
Cũng như đóa sen thơm ngát và tinh khiết, thoát thai từ chốn bùn tanh hôi,
lý tưởng đẹp đẽ nhất là phải giải trừ đau khổ cho mọi người, mọi loài,
giải phóng tất cả nhân loại ra khỏi tình trạng bi thảm đau thương trong đó
họ đang dở sống dở chết. Chính ở trong nghịch cảnh mà chiến thắng được tâm
vọng động, làm chủ được tham, sân, si mới là cuộc chiến thắng vinh quang
nhất không gì sánh bằng.
"
Tổ Tuệ Năng khuyên ta nên từ bỏ tất cả để được tất cả, đó là lời chỉ đạo
sáng suốt để đi đến chân lý tuyệt đối.
*.
Trên phương diện nhất nguyên thì Niết bàn do sinh tử mà có, cũng như Thị
do Phi sinh ra, Aᣠ?o Thiện mà thành vậy. Sinh tử và Niết bàn chẳng qua chỉ
là những lẽ đối đãi với nhau, và cả dai chỉ là một.
*.
Trên phương diện hiện tượng và hình thức nhị nguyên tương đối thì có cặp
mâu thuẫn sinh tử, Niết bàn, luân hồi, giải thoát. Nhưng trên bình diện
Bản thể, bìng đẳng tuyệt đối, vô sai biệt thì không thể phân ra làm hai
thứ riêng biệt được . Bậc tu hành đạt đạo và giác ngộ rồi không còn tham
sinh úy tử, vào Niết bàn không thấy lưu luyến, đắm say mà ở cõi trần hoàn
tục lụy cũng chẳng thấy đau khổ, chán ghét, thản nhiên sống, thời theo xử
thuận, ở cảnh nào thì vui với cảnh đó, vui với những gì mình hiện có, vì
vậy mà không ham muốn trụ ở Niết bàn, cũng chẳng chán cảnh trần gian.
Người đã hiểu rõ lý thế gian, tà kiến và chính kiến thì chẳng còn chấp
việc lìa nhiễm theo tịnh, bỏ tà qui chính, mà phải tìm cách tháo gỡ cả hai
cực đoan thường và đoạn, để thân tâm được rỗng lặng, và chân tâm không
gián đoạn, tự nhiên sẽ được kiên tính thành Phật.
b.
Theo lối kiến giải của Phái Duy thức
"Sự vật chung quanh mà ta nhận thấy được, là do tính biến kế sở chấp và
tính ý tha khởi gây ra, Duy Thức gọi đó là đới chấn cảnh, tức là cảnh chân
thật của Bản thể (còn gọi là Tính cảnh). Kèm theo một chút phân biệt so
sánh chủ quan, do thức thứ 6 (ý thức) đem đến.
"
Nếu ta không tri giác, không khởi vọng niệm thì cảnh Đới Chất đó cũng tan
biến ngay,
"Sự chứng ngộ lý nhất thừa có nghĩa là sự diệt trừ mọi vọng tưởng
(vikalpa) cho rằng mình với người, chủ và khách, năng và sở, tâm và vật,
kiến phần và tướng phần, Bồ đề và phiền não, Bản thể và hiện tượng…. nghĩa
là tất cả những gì đối đãi nhau là hai thực thể riêng biệt hẳn, mà không
biết rằng chúng chỉ là một, cùng chung một Bản thể Chân Như. Khi đã nhận
chân được lẽ nhất thừa vô thượng đó, hay là đạt tới Lý- Sự và Sự sự vô
ngại pháp giới của kinh Hoa Nghiêm thì sẽ cỡi bỏ được mọi ngã chấp, không
còn khổ đau, sinh tử luân hồi nữa, và như vậy đã liễu ngộ được lý Bất Nhị
pháp môn.
"Chúng ta có ngờ đâu rằng những cảm giác do giác quan đem đến cho chúng ta
thường hay sai lạc. Tỷ dụ: hai dây dọi không phải hai đường thẳng song
song mà chính là hai đường xéo góc, vì chúng cùng châu vào tâm điểm của
địa cầu. Cũng như sự chuyển động, đâu có đi theo đường thẳng, bởi ta không
tính đến việc trái đất quay và xoay quanh mặt trời, ngoài ra lại còn chưa
xét tới sự xê dịch của toàn thể thái dương hệ nữa. Một viên đạn hay một
chiếc phi cơđã bay theo đường xoáy ốc chứ không phải đường thẳng.
"
Một thoi sắt theo mắt thường, tưởng là dầy đặc, nhưng kỳ thực, chiếu qua
quang tuyến X lại thấy nó xốp như một miếng bánh; và đường ở lưỡi dao cạo,
ta tưởng là thẳng , nhưng thực ra, soi kính hiển vi, lại thấy mấp mô như
một lưỡi cưa lồi lõm. Cũnh như một viên đá sỏi, thực ra được cấu tạo bởi
hàng triệu triệu vũ trụ tí hon, không dính với nhau và luôn luôn chuyển
dịch vô cùng mau lẹ, chứ không bất động như ta tưởng đâu.
‘Theo các bộ luận của Duy thức học (Vijinadvada) bà về Chân Như thì ta
nhìn một sự vật gì thì không bao giờ ta đạt tới Bản thể chân thật của sự
vật đó cả, mà chỉ nhận được cái ảnh tượng mờ ảo phảng phất giống như vật
ấy do giác quan thu lượm được mà thôi.
Tỷ
dụ ( như khi nói): bông hồng này tươi thắm và thơm ngát quá, đó là ta đã
kết hợp cảm giác màu hồng tươi và mùi hương thơm của bông hoa do thị giác
và khứu giác đem lại, chứ thực ra ta không trực tiếp được với Bản thể của
bông hồng. Duy thức tông dạy ta phải cố gắng tìm đến một thế giới thực là
căn bản của thế giới đới chất này. Đạt tới thế giới thực (tính cảnh) tức
là thoát khỏi sự ràng buộc của ngoại giới. Như vậy, ngoài thế giới chủ
quan của ý thức, Duy thức xác nhận còn có một thế giới khách quan tồn tại,
và đó là thế giới Tính cảnh. Tuy nhiên, thế giới tính cảnh đó cũng không
phải làthần ngã như Bà la môn giáo.
"Đạt tới Bản chất của sự vật, tức là quan niệm xa lìa hẳn cuộc sống hàng
ngày bằng cảm giác, tri giác, tư duy hạn hẹp, tức được giải thoát hay thể
nhập Niết bàn.
"Nhưng cao hơn bậc nữa, Phật giáo đại thừa lại cho rằng: Thế giới bản chất
tồn tại ngoài ý thức đó, chỉ là cảnh sở biến của một tâm thức khác gọi là
A lại gia thức (Alayavijnànam), và cần phải vận dụng a lại gia thức làm
cho nó loại trừ được biến tướng của nó thì mới đạt đến giải thoát thực sự.
"
Phái Duy Thức cho rằng: A lại gia thức (tạng thức hay xứ của sinh tử, luân
hồi) bản tính vốn thanh tịnh và vô phân biệt, chỉ vì bị ô nhiễm bởi vô
minh, tà kiến nên mới sinh ra phân biệt có ngã và ngã sở, chủ thể và đối
tượng, kiến phần và tướng phần, người nhận thức và vật bị nhận thức ….Chủ
thể là Mạt na thức thứ bảy chấp ngã (Adànavijnànam) mà đối tượng là thế
giới ngoại cảnh, hay ngã sở…
"
Do đó, lập trường của nhà Duy thức học là: Từ trạng thái vô minh, tham ái,
che lấp tính linh minh của Chân như thanh tịnh,mục đích cứu cánh của những
công phu tu tập là trở về với trạng thái thanh tịnh Niết bàn nguyên thủy
của mình, hay trở về với Bình đẳng tính trí và Đại viên kinh trí, ở đó
không còn ta và người, ngã và ngã sở nữa.
"Sự chứng ngộ chỉ có nghĩa là trở về nguồn gốc tức Tâm Chân như hai cái
thức đại đồng, ngoài ra, thế giới hiện tượng chỉ là hư giả do thức biến mà
thôi. Chủ tử (bijà) của hết thảy sự vật trong thế gian và xuất thế gian
đều chứa đựng trong Tạng thức ấy, vì nó là cỗi rễ của vạn pháp, cho nên A
lại gia thức có cả chủng tử ô nhiễm lẫn thanh tịnh hóa thức A lại gia,
diệt trừ mọi chủng tử hữu lậu ở đó để Tạng thức trở nên vô cấu,
"
Vượt lên trên sự lý phân ly giữa hiện tượng và Bản thể, tìm được sự dung
hợp giữa đối tượng và chủ thể, chúng ta đi vào con đường bất Nhị pháp
môn". (BTD ,trang 913- 933)
Chương 49- Bà la môn Tối
Thắng Tĩnh dạy về "Tự Nghiệp,Cộng Nghiệp"và "
Chuyển Nghiệp thành Nguyện".
"Phàm đã gieo nhân nào tất phải hái quả ấy, không chút sai lầm, vì thế mà
tôi không lo phải chịu những hậu quả do nghiệp báo đã gây ra, mà chỉ sợ
thân, khẩu, ý gieo lầm những quả báo xấu xa chua chát. Tôi ước mong rằng
chúng sinh đều hiểu thấu luật nhân quả để vượt lên luật nhân quả, tạo
những nghiệp lành, tránh những nghiệp dữ, sửa đổi cộng nghiệp mỗi ngày một
thêm nhẹ bớt, và cố gắng cải biến cõi Sa bà này thành một thế giới Cực Lạc
an vui".
Và
dưới đây là ý kiến của chúng sinh – dù thiện hay ác- đều tạo nghiệp cả.
Chỉ có hàng động của chư Phật và Bồ tát mới không tạo nghiệp mà thôi.
‘
Gây nghiệp ở kiếp này thì thụ quả ở kiếp sau hay ở ngay kiếp này. Quả ấy
lại trở thành nhân để tạo thành nghiệp khác nữa. Nhân cách (co người)do
chính con người tạo lấy, và nghiệp quả do mình gây ra lúc nào cũng ở trên
con đường "trở thành", vì nó luôn luôn thay đổi, do ảnh hưởng của những
hành động thiện hay ác của mình. "Nha36t thiết duy tâm tạo" Chính điều trở
thành người tốt hay xấu là sự thưởng phạt công minh do tự mình gây ra.
"Nếu một kẻ đã nhúng tay vào máu, giết hại mạng sống khác hay đồng loại,
thì hình phạt không phải chỉ bị kết án tù tội bởi xã hội, chưa hẳn là bị
Thượng đế nào đó trừng trị, bị đọa xuống hỏa ngục, hay bắt phải lầm than
khổ sở, nhưng chính quả đó đã làm cho kẻ giết người trở thành một tên sát
nhân. Những hành động dù là tự ý hay bị xúi giục, kể từ lúc hoàn thành đều
là hành động "giết", nếu không có gì, hoặc hành vi thiện hoặc cứu cánh
thiện xoay đổi nhân cách hắn.
"
Một nhân cách tốt hay xấu, sẽ kèm theo những hành vi thiện hay ác và, dĩ
nhiên, hưởng quả ngon ngọt hay cay đắng tùy theo…. nhân cách làm một cái
gì sống động, biến đổi luôn luôn, khó nguyên một trạng thái. Bản chất của
cây xoài không phải là quả xoài, mà chính là cây xoài đó. Bản chất của con
bướm chẳng phải là con nhộng nằm trong kén, mà chính là con bướm đã thoát
xác và trưởng thành. Sự sống của cây xoài, cũng như mầm sống của con bướm
được chứa đựng trong con nhộng . Cũnh như thế, bản ngã của con người hiện
tại- chúng ta nhận lầm cái bản ngãđầy tội lỗi vọng động hiện thời trong
kiếp của ta là thật có, thực ra, cái "bản lai diện mục"từ vô thủy, hay cái
bản ngã của ta trong tương lai, toàn thiện, toàn mỹ, toàn chân, toàn giác
mới đích thực là của ta. Vì vô minh che lấp ta mới có những quan niệm sai
lầm, khác nào cái vỏ kén dầy đặc bên ngoài đã làm cho con nhộng không nhìn
thấy cảnh huy hoàng, xán lạn mà con bướm được nhìn ngắm trong bầu trời
xuân ấm áp, cùng với hoa thơm gió mát…. Muốn cho con bướm được thoát thai
thì con nhộng lại phải lột xác và lìa bỏ cái vỏ bên ngoài của mình, đặng
bướm ra khỏi cái vỏ giam hãm đen tối, hưởng ánh xuân quang tươi đẹp nơi
cảnh vườn hoa thơm cỏ lạ. Khi còn là chúng sinh, phải nô lệ theo nghiệp,
bị nghiệp lôi cuốn, nhờ Phật chỉ rõ cho biết thế nào là "chân", "vọng" để
chuyển nghiệp thành nguyện lớn, rồi tùy hoàn cảnh mà tiến tu qua các cảnh
giới, tiến lên quả vị Phật.
"Chuyển nghiệp thành nguyện"là một nghệ thuật của người hành đạo Bồ tát
(hành giả). Hành giả chủ động (tự tại) đối với hoàn cảnh, không chịu bị
hoàn cảnh chi phối làm nô lệ cho xác thân vật chất, mà phải vương lên,
nhất là trong nghịch cảnh lại là bước thử thách tốt.
*.
Tự nghiệp hay biệt nghiệp (nghiệp riêng mỗi cá nhân).
*.
Cộng nghiệp hay nghiệp chung của tập thể ( một hay nhiều gia đình, một hay
nhiều quốc gia xã hội ). Mội người phải gánh chịu nghiệp riêng cộng với
nghiệp chung. Khoa học ngày nay xác nhận: chỉ một cử động nhỏ của cá nhân
cũng đủ phát sinh những luồng điện ba động …dội vào khắp vũ trụ, và từ
năng lực chuyển thành ánh sáng điện lực hay nhiệt lượng do ta gây ra và
đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của những ba động từ khắp nơi trong vũ trụ
phóng ra, ta và vủ trụ có ảnh hưởng hỗ tương.
Kinh Hoa Nghiêm có câu: "Một vị Phật phát ra một ý nghĩ thì chư Phật mười
phương đều hưởng ứng. Vũ trụ có ảnh hưởng dây chuyền lẫn nhau, biến ra
tướng này tướng khác trong "Lý sự vô ngại"trùng trùng duyên khởi".
"
Trong một cộng đồng dân tộc, khi mọi người đều có ý thức xây dựng một cộng
nghiệp chung ngày thêm tốt lành, thì tự nghiệp của mỗi người tuy khác nhau
nhưng vẫn có ảnh hưởng tốt lành hơn do cộng nghiệp chung".(BTD,trang
999- 1006)
Chương 52- Đồng Tử
Thiện Tài được gặp lại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi.
Sau khi được Đức Di Lạc (Maitreya) dạy cho pháp môn Bát Nhã và Duy Thức,
Thiện Tài cất bước lên đường, vượt qua 110 thành nữa mới đến được nước Phổ
Môn, vào xứ Tô Ma Na để mong sớm được gặp vị minh sư là Ngài Văn Thù Sư
Lợi. Quá nửa đời người bôn ba học đạo, nhưng sở đắc mà chàng thu lượm được
không ngoài một chữ "Không" rỗng lặng!
Thời gian, theo thế nhân, là luôn luôn xê dịch, đổi thay…nhưng với Thiện
Tài thì vả làvô nghĩa vì, khi đã giác ngộ, chàng thấy núi vẫn là núi, sông
vẫn là sông, gió vẫn thổi và nước vẫn chảy, trăng vẫn cứ sáng, bởi lẽ chân
tính bản lai của muôn vật là như thế (Pháp nhĩ như thị).
"…Từ xa xa trông thấy bóng Bồ tát Văn Thù Sư Lợi tận cuối chân trời, Thiện
Tài rảo bước như bay về phía Thầy, mong chóng quì gối ôm lấy chân Sư Phụ
cho rõ lòng thiết tha mong nhớ; đồng thời ngài Văn Thù Sư Lợi, thoạt nhìn
thấy hình bóng người đệ tử yêu quí của mình ở tận mù khơi, lòng cũng rộn
lên niền vui mừng khôn xiết. Ngài liền dơ tay qua khỏi 110 do tuần, rồi
đặt nhẹ lên đầu Thiện tài, đợi đến khi chàng vừa tới, chưa kịp làm lễ bái
yết, Ngài đã cất tiếng khen: "Tốt lắm! Tốt lắm! Kế đó Ngài lại diễn nói
cho người đệ tử thân yêu được nghe vô số pháp lành vi diệu, vô biên tế Đà
la ni, vô
lượng đại nguyện, vô biên đại trí tuệ quang minh, và thần thông tam muội
sao không kể xiết, khiến cho Thiện Tài nhập vào đạo tràng Phổ Hiền hạnh.
Nhờ thế mà chàng thực sự viên mãn được tâm đại bi, trừ được mọi vi tế vô
minh, chướng ngại…Thiện Tài định thần, đắm chìm trong tư duy, quán tưởng,
trong lúc bồ tát Văn Thù Sư Lợi dùng thần thông ẩn hình, biến dạng lúc nào
cũng không hay…" (BTD,trang1119)
Chương 53- Bài học do
Bồ tát Phổ hiền dạy "Phương Pháp Hành Bồ Tát Đạo".
Do
lòng khát ngưỡng công đức hạnh nguyện của đức Phổ Hiền (Samantabhadra), và
nhờ sự gia hộ của Như lai, Thiện Tài dùng tuệ nhãn quán chiếu khắp pháp
giới bao la, nhập vào Tri kiến Phật, ước mong được nghe lời dạy bảo cùng
được nhìn thấy hình tướng của Bồ tát Phổ Hiền. Và do thiện căn của Thiện
Tài nhất tâm cầu nguyện nên đức Phổ Hiền đã hiện ra thân tướng trang
nghiêm cùng với vgô số Bồ Tát vây quanh…
Thiện Tài chiêm ngưỡng thân tướng của Bồ tát tỏa ánh hào quang sáng ngời
soi tỏa khắp mười phương pháp giới, phát ra vô lượng hạnh nguyện Ba la mật
thanh tịnh. Bồ tát xoa đầu Thiện Tài nói:
"
Người có thấy thần lực của ta chăng? Thuở quá khứ, trong nhiều vi trần số
kiếp, ta đã thực hành Bồ Tát Đạo để thanh tịnh tâm Bồ đề và kính thờ vô
lượng chư Phật. Ta ở trong vô số kiếp mà chưa từng có một niệm nhỏ chẳng
theo lời giáo huấn của Như Lai. Ta chẳng bao giờ có tâm sân hận và trụ vào
ngã và ngã sở, không một sát na nào rời bỏ Bồ đề. Ta chỉ an trụ tâm trong
đại bồ đề㠶?#244; thượng và dùng tâm
đại bi cứu giúp chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật. Trong nội tâm và ở
ngoài cảnh giới đều xả hết, cho đến cả mạng sống của ta cũng không hề tiếc
rẻ. Nếu nói những việc ta đã làm thì vô cùng tận. Đại dương bát ngát còn
có thể cạn khô, chứ những hạnh nguyện của ta bình đẳng, thanh tịnh, tùy
thuận chúng sinh mà ứng hiện khắp nơi, làm cho ai nấy đều được an vui, hết
khổ. Chúng sinh nào được nghe danh hiệu của ta, tưởng nhớ, hoặc mộng thấy
ta, đều được chứng Bồ đề tâm bất thoái.
‘
Muốn kiên cố tâm bồ đề và tăng trưởng tâm đại bi, phải năng quan sát chúng
sinh đau khổ, không chổ tựa nương, và hay làm những việc ác, như loài bướm
tự thiêu thân lao mình vào lửa đỏ, lăn lộn trong biển luân hồi không lối
thoát, lại chẳng ưa thích các pháp lành ….
"
Thiện Tài tiếp thu được tất cả hạnh nguyện rộng lớn của đức Phổ Hiền, cuối
cùng, chàng cũng được như Bồ tát Phổ hiền, cũng có những hạnh nguyện,
những thần thông, những biện tài ngôn ngữ vô ngại cùng trí tuệ và tâm đại
bi cao cả rộng lớn" (BTD, trang 1121)
"
Thiện Tài đã học đủ hết các môn, và pháp nào cũng đều đưa đến Pháp Vương
Thành cả.
"
84.000 pháp môn của Phật dạy, tuy chia ra nhiều bộ phái, tính tướng và lý
sự khác nhau, dị biệt ở phần tiểu tiết, nhưng pháp nào cũng chỉ nhằm vào
một mục tiêu: cứu khổ chúng sinh, đưa tới giác ngộ, giải thoát cho mình và
cho muôn loài." (BTD ,trang1122)
Đạo Phật là đạo Như Thật, "chuộng sự thực hành, không ưa lý thuyết suông,
rườm rà, trừu tượng, chỉ để thỏa mãn óc tò mò của lý trí mà thôi. Đạo Phật
vụ ở chỗ "thân chứng" tức thực nghiệm bản thân, và coi nhẹ những sự hiểu
biết qua sách vở, kinh điển, vì HỌC mà không HÀNH thì không thể nào tới
được bờ bến Giác, đạt tớ Chân lý…
Và
để thực thi "BỔ TÁT ĐẠO, hay Con Đường Lý Tưởng" được viên mãn, chúng ta
hãy nhất tâm phát nguyện:
*.. Chúng sinh chưa được cứu độ, nguyện xin được cứu độ (Khổ đế)
*..Chúng sinh chưa được giải thoát, nguyện xin được giải thoát (Tập đế)
*..Chúng sinh chưa được giác ngộ, nguyện xin được giác ngộ (Đạo đế)
*..Chúng sinh chưa được Niết bàn, nguyện xin được Niết bàn (Diệt đế).
---o0o---
Mục Lục |
Phần 1 |
Phần 2 |
Kết Luận
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Đánh máy : Phước Ngọc - Hiếu Ngọc
Trình bày : Diệu Nga - Thùy Châu
Cập
nhật : 22-01-2002