1.-
CẬU BÉ HẠNH PHÚC NHẤT THẾ GIAN: Khi
chưa xuất gia, Phật vốn là vị thái tử của thành Ca Tì La Vệ (Kapilavastu
- Kapilavatthu). Thái tử đã cưới công chúa nước Câu Lị (Koliya) là Da Du
Đà La (Yasodara) làm vợ. Thái tử và công chúa đồng tuổi. Năm mười chín
tuổi, công chúa sinh hoàng tôn La Hầu La. Thái tử vui mừng lắm, nhưng
không phải là niềm vui thông thường của người đời khi sinh con. Nguyên
vì trước đó, đã mấy lần thái tử xin phép phụ vương Tịnh Phạn (Suddhodana)
đi xuất gia học đạo, đều không được chấp thuận, nhưng đức vua có hứa,
nếu khi nào thái tử sinh được vương tôn thì ngài sẽ cho phép xuất gia.
Bây giờ thì vương tôn La Hầu La đã ra đời, nguyện vọng xuất gia của thái
tử chắc là thực hiện được; bởi vậy thái không vui mừng sao được! Thái
tử từ giã hoàng cung vào đêm Mồng Tám tháng Hai, bảy ngày sau khi La Hầu
La chào đời. Đêm ấy, khi công chúa và La Hầu La đều đã ngủ say, thái tử
nhìn hai mẹ con lần chót, rồi với ý chí cương quyết, chàng leo lên lưng
ngựa trắng, rời khỏi hoàng thành đi xuất gia. Từ đó, La Hầu La phải sống
những ngày thiếu vắng bàn tay nâng niu của người cha thương yêu độc nhất
trên đời! Nhưng, thái tử đi xuất gia và rồi đã thành Phật; trước là thân
phụ, bây giờ trở thành bậc đạo sư, dẫn dắt cho La Hầu La về sau chứng
ngộ quả thánh. Đó mới chính là người cha cao cả nhất trên thế gian! La
Hầu La lớn dần trong sự yêu thương cùng cực của mẹ và ông bà nội. Câu
lúc đó là vị vương tôn độc nhất, ngày ngày sống vô tư vô lự trong hoàng
cung. Đến lúc bắt đầu có chút ít hiểu biết việc đời, cậu cũng cảm thấy
thiếu vắng cha là điều đáng buồn, nhưng dù sao cậu vẫn còn có mẹ ở bên
cạnh, và bà rất mực cưng chiều cậu. Bà chính là nguồn ánh sáng duy nhất
của cậu, là niềm an ủi, là mái ấm chở che cho cậu. Trong khi đó, Da Du
Đà La, từ ngày vắng bóng người chồng yêu quí, từ xuân sang hạ, đến thu
rồi đông, một mình vò vỏ trong thâm cung vắng lặng, sống một ngày mà cảm
thấy dài như cả năm, thì nguồn vui duy nhất của bà chính là La Hầu La!
Hai mẹ con nương nhau mà sống qua năm tháng. Có
người nói, Da Du Đà La là người đàn bà bạc mệnh, còn La Hầu La là cậu bé
đáng thương, nhưng đó chỉ là nói theo thói thường ở đời mà thôi. Sự thực
ở đây, dù có bạc mệnh hay đáng thương thì cũng chỉ là một thời gian
ngắn. Hơn nữa, có hi sinh lớn thì chắc chắn sẽ có thu hoạch lớn. Mà quả
vậy, về sau được Phật hóa độ, công chúa xuất gia tu tập và đã chứng ngộ.
La Hầu La cũng vậy, đã theo Phật xuất gia và chứng quả thánh. Công chúa
chẳng phải là người phụ nữ vinh hạnh nhất đời đấy ư?! La Hầu La chẳng
phải là cậu bé hạnh phúc tột cùng đấy ư?! Khi
từ giã hoàng cung, thái tử cũng muốn ôm La Hầu La vào một lần chót,
nhưng vì sợ làm kinh động công chúa, lỡ như nàng thức giấc làm cản trở
sự ra đi thì sao; cho nên chỉ nhìn và thầm bảo: “Đợi khi ta thành đạo
rồi, sẽ trở về thăm con!” Phật xem tất cả chúng sinh đều như La Hầu
La. Phật đã đem tình thương cho tất cả chúng sinh, thì ở vào hoàn cảnh
của La Hầu La, cậu lại càng dễ dàng nhận được tình thương của Phật. Cho
nên chúng ta chớ bảo La Hầu La thiếu vắng phụ thân từ thuở ấu thơ là rất
đáng thương, trái lại phải thấy rằng, cậu bé ấy được làm con của Phật,
được nuôi nấng trong chiếc nôi trời đất đầy ắp tình thương cao rộng, quả
thật là cậu bé hạnh phúc nhất thế gian! 2.-
ĐỨA CON KHÔNG BIẾT MẶT CHA: Đã
mười năm không thấy mặt, giờ đây Da Du Đà La không muốn gặp Phật trước
mặt mọi người, nghĩ ra cũng phải. Dĩ nhiên là trong lòng công chúa giờ
phút ấy, cũng giống như mọi người, rất nao nức mong được gặp Phật, nhưng
vì lễ giáo, vì tự trọng, bà đành phải nhẫn nại. Bà leo lên một tầng lầu
cao ở trong cung và đến ngồi bên cửa sổ. Từ đó nhìn xuống cổng hoàng
cung, bà có thể thấy rõ được cảnh tượng mọi người nghênh đón Phật. Ngay
lúc ấy, cậu bé mười tuổi La Hầu La chạy đến bên bà, nói: - Mẹ
ơi! Ba con đã về! Bà nội (Kiều Đàm Di) bảo con thưa với mẹ như vậy. Cậu
bé hãy còn ngây thơ, đâu biết được những nỗi niềm thầm kín của mẹ trong
giờ phút ấy như thế nào! Cậu chỉ thấy hôm nay trông mẹ sao có vẻ nghiêm
trang đến phát sợ! Tuy nhiên cậu biết dù thế nào mẹ vẫn thương cậu rất
mực, cho nên lại nũng nịu hỏi: - Mẹ
ơi, xem kìa! Ngoài cổng đông người quá, trong đó thế nào chẳng có ba
con. Ba con ra sao hở mẹ? Câu
hỏi hồn nhiên phát ra từ miệng đứa con thơ dại càng làm cho lòng bà thấy
thương cảm muôn phần, nhưng tâm tình của người lớn, trẻ con làm sao hiểu
được! Đột nhiên, một tay bà bế La Hầu La lên, một chỉ xuống cổng hoàng
cung, đôi mắt rưng rưng, giọng nói run run, bà bảo La Hầu La:
- Con
xem kìa, trong đoàn sa môn kia, người đi đầu có dáng vẻ trang nghiêm
nhất là ba con đó! Cậu
bé mở to cả hai mắt để nhìn. Một giọt nước mắt vừa rơi khỏi khóe mắt bà,
rớt trên đầu La Hầu La, bà vội nắm tay con dắt về phòng riêng ... Mười
năm xa cách! Mười năm biệt tăm biệt tích! Mười năm như mây khói, như
chiêm bao! Đây là lần đầu tiên bà vừa được thoáng trông thấy Phật. Lòng
bà lúc đó như mặt nước ao bị ném xuống một hòn đá, sóng gợn lao xao,
không còn phẳng lặng được nữa. Quán sát và thấy rõ tâm ý của bà và sau
khi đã đáp lễ mọi người, Phật dẫn Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vào nội
cung thăm bà. Cuộc trùng phùng giữa một người là đức Phật đại giác và
một người là vị hoàng phi xinh đẹp, đã làm cho mọi người chú ý. Trong
một phút yên lặng, với ánh mắt trang nghiêm và đầy từ bi, Phật nhìn Da
Du Đà La vừa cảm thông, vừa thương xót; còn Da Du Đà La thì nhìn Phật
như yêu thương, như hờn dỗi, tâm hồn bấn loạn, trăm mối ngổn ngang ...
Rồi bà bật khóc, Phật yên lặng đứng nhìn, để yên cho bà khóc. Khi cơn
xúc động dã dần dần lắng dịu, bà mới chợt nhận ra rằng, giữa Phật và bà
giờ đây đã có một đường mương ngăn cách. Bà lại nghĩ, Phật là Phật, đâu
có chuyện Phật sẽ dùng lời êm ái, dịu ngọt của một người chồng để an ủi
mình như thuở xưa! Bà liền lau khô nước mắt, đỡ La Hầu La cùng quì xuống
trước Phật. Bấy giờ Phật mới nói với bà, thật chậm rãi, rõ ràng từng
tiếng một: - Để
cho nàng phải chịu bao nỗi buồn đau, đó là sự thiếu sót của ta; nhưng ta
đã xứng đáng với tất cả chúng sinh, giờ đây ta đã thành tựu được bản
nguyện từ vô số kiếp. Xin nàng hãy vì ta mà vui vẻ lên! Phật
lại nhìn La Hầu La, từ ái vỗ về: -
Thật chóng quá, con đã lớn thế này rồi! Phật
có vẻ như thờ ơ, mà cũng có vẻ như rất dồi dào tình cảm. Lời nói của
Phật, thái độ của Phật, đã làm cho hai vị tôn giả Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên thật cảm động, tưởng chừng có thể khóc lên được. Còn cậu bé La
Hầu La thì đang lúng ta lúng túng, chẳng biết kêu phụ thân mình bằng gì.
Kêu là ba ư? Trông người nghiêm trang như ông thần, tiếng “ba” không thể
lọt ra khỏi miệng được! Kêu là Phật ư? Chẳng biết có nên kêu như thế
không! Nhưng La Hầu La quả thật thông minh, nhìn thấy có quá đông các vị
sa môn theo chân Phật, cậu hiểu ra rằng, Phật bây giờ không phải là
người cha riêng của một mình mình, mà là đấng cha lành chung của tất cả
mọi người! Một cậu bé mười tuổi mà có sự thấy biết như vậy thì quả thật
không phải là một cậu bé tầm thường, mà đã sẵn có nhiều căn lành.
3.-
CHÚ SA DI ĐẦU TIÊN: -
Bạch Phật! Con rất thích được ở chung hoài với Phật! Câu
nói ấy đã tỏ rõ được tình phụ tử thiêng liêng. Nếu không thì dễ gì mới
thấy nhau trong thời gian ngắn mà đã khiến một đứa bé thốt được lời lẽ
như vậy. Đức Phật cũng từ ái trả lời: - Ừ!
Con ạ, rồi cũng có ngày ta cho con được ở hoài bên cạnh ta. Quả
vậy, sau đó không lâu, La Hầu La đã được xuất gia theo Phật. Nguyên vì,
Da Du Đà La vẫn một lòng tưởng nhớ Phật, nên thường tập cho La Hầu La
dạn dĩ, hoạt bát; rồi một hôm bà bảo: - Con
hãy theo cha con mà xin gia tài! Cha con có thứ tài sản quí báu mà cả mẹ
con mình chưa bao giờ trông thấy. Trưa
hôm ấy, Phật và chư tăng vào thành khất thực xong, lúc đang trên đường
trở về vườn Ni Câu Đà thì La Hầu La chạy theo sau Phật, thỏ thẻ: -
Phật ơi! Xin cho con gia tài của Phật đi! Da Du
Đà La nhìn theo bóng dáng đứa con yêu thương duy nhất đang theo chân
Phật khuất dần, rồi nghĩ đến việc La Hầu La có thể sắp xuất gia, lòng bà
bỗng quặn thắt, nước mắt tuôn trào ... Mà
thật vậy, sau khi về đến vườn Ni Câu Đà, Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất: -
Cháu La Hầu La đang theo tôi xin tài sản. Tôi không muốn cho cháu thứ
tài sản cũng như hạnh phúc tạm bợ, mà phải là thứ tài sản quí báu và
hạnh phúc chân thật. Này Xá Lợi Phất! Tôi nhờ thầy thu nhận cho cháu
xuất gia. Cháu sẽ là chú tiểu đầu tiên của giáo đoàn! Phật
nhờ tôn giả Mục Kiền Liên xuống tóc cho La Hầu La, rồi bảo cậu lạy tôn
giả Xá Lợi Phất làm thầy truyền giới. La Hầu La trở thành chú sa di đầu
tiên trong giáo đoàn của đức Phật. La
Hầu La chính là hoài bão của công chúa Da Du Đà La, nhưng khi quyết định
cho cậu xuất gia, đức Phật cũng đã có dụng ý rồi. Nguyên vì, La Hầu La
đã ra đời khi Phật còn là thái tử. Sau đó Ngài đã xuất gia, và giờ đây
đã thành đạo, thì ngôi vua của bộ tộc Thích Ca sau này tất sẽ do La Hầu
La kế thế, nhưng theo chủ trương của Ngài, một cậu bé tuổi còn quá nhỏ
như La Hầu La thì không thể làm chủ thiên hạ được. Cho nên nhân cơ hội
này, Ngài bèn phương tiện để cho cậu xuất gia. Biết
La Hầu La đã xuất gia rồi, Da Du Đà La buồn lắm! Nhưng sự việc đã như
vậy rồi, bà đâu biết làm gì hơn. Vua Tịnh Phạn thấy bà buồn thì rất
thương xót; hơn nữa, chính nhà vua cũng buồn nhớ cháu nội vô cùng, cho
nên ngài đã thân hành đi thăm Phật và tỏ bày ý kiến của mình: -
Bạch Thế Tôn! Xin hãy lập qui chế hẳn hòi, từ nay về sau, các trẻ em
muốn xuất gia thì phải được phép của phụ huynh trước đã. Phật
thấy ý kiến đó hợp lí, nên đã hoan hỉ chấp thuận. Về
phần Da Du Đà La, sau khi chồng đã ra đi tìm đạo, thì La Hầu La là niềm
vui là và niềm hi vọng duy nhất của bà. Bây giờ đến lượt La Hầu La cũng
đi tu nốt thì mọi thứ trên cõi đời đối với bà còn có nghĩa gì! Lòng bà
trở nên nguội lạnh, mất hết niềm vui. Bởi vậy sau này, khi thái hậu Kiều
Đàm Di được Phật cho phép xuất gia và thành lập tăng chúng tì kheo ni,
bà cũng đã cùng với những phụ nữ khác trong dòng họ Thích Ca, đến Tì Xá
Li (Vaisali - Vesali) để xin xuống tóc xuất gia. Những ngày đầu bà vẫn
không cảm thấy phấn khởi với nếp sống mới trong giáo đoàn, nhưng nhờ
Phật hết lòng giáo hóa, chẳng mấy chốc bà chứng ngộ đạo quả, lấy lại
niềm vui, sống tràn đầy an lạc trong chánh pháp. Bà vô cùng hoan hỉ và
cảm kích ân đức sâu xa của Phật. Phật cũng rất hoan hỉ đã hoàn thành
trách nhiệm thiêng liêng đối với bà. 4.-
TUỔI TRẺ NGHỊCH NGỢM: Từ
khi La Hầu La xuất gia thì tăng đoàn thiết lập thêm chế độ sa di. La
Hầu La tuy đã xuất gia, nhưng bảo chú phải tu tập nghiêm túc như người
lớn thì thật là khó! Một chú bé còn nhỏ tuổi như La Hầu La, hàng ngày
phải sống gò bó trong tăng đoàn, nếu là do ý muốn thì không có gì để
nói, nhưng nếu vì do hoàn cảnh bắt buộc thì trong tâm lí thế nào cũng
nảy sinh nhiều biến chứng khó mà lường được. La Hầu La xuất gia nhưng đã
không cảm thấy có gì vui vẻ trong đời sống tăng đoàn, có điều là chú
không dám nói ra những cảm nghĩ khó chịu của mình mà thôi. Thường thì
trẻ em dưới mười lăm tuổi, đối với những lời chỉ bảo của người lớn, chỉ
biết một điều vâng hai điều dạ mà thôi; nhưng một khi đã qua khỏi tuổi
mười lăm rồi thì tự nhiên chúng biết bất mãn, biết phản ứng lại những gì
không bằng lòng. Chẳng biết La Hầu La có trải qua cái giai đoạn tâm lí
đó không, chỉ biết rằng, khoảng mười bảy, mười tám tuổi, tính tình của
chú thật ôn nhu, làm việc rất chăm chỉ, nhưng lại thích đùa nghịch như
con nít, nhất là thường dối gạt người làm trò vui. Lúc
đó chú đang ở tại rừng Ôn Tuyền (Amrayastika - Ambalatthika), ngoại ô
thành Vương Xá (Rajagrha - Rajagaha). Có rất nhiều các vị quan viên,
trưởng giả, cư sĩ thường đến tìm thăm Phật. Gặp chú, họ hỏi thăm Phật
hiện ngự ở đâu, thì thế nào chú chú cũng nghĩ cách để trêu ghẹo. Nếu
Phật đang ngự tại Trúc Lâm (Venuvana - Veluvana) thì chú bảo Ngài đang ở
Linh Thứu (Grdhrakuta - Gijihakuta); nếu Phật đang ngự tại Linh Thứu thì
chú lại bảo là Ngài đang ở Trúc Lâm! Nên biết rằng, Trúc Lâm và Linh
Thứu cách xa nhau hơn hai dặm đường. Sự nghịch phá của chú đã bắt người
ta phải đi lại mệt nhọc mà lại không được tham kiến Phật! Như thế mà chú
đã chịu tha cho người ta đâu! Khi người ta thất vọng trở về, chú còn vừa
cười vừa hỏi: -
Sao? Quí vị đã bái kiến đức Thế Tôn chưa? -
Thưa chú, xin chú đừng trêu chọc chúng tôi nữa! - Ai
dám trêu chọc quí vị, chẳng qua là tôi lo cho quí vị mà thôi. Rõ
ràng là La Hầu La vừa nghịch ngợm, vừa bướng bỉnh, không bao giờ chịu
nhận lầm lỗi của mình. Thế
thường, con cái của những gia đình giàu có thường hay cậy thế lực, địa
vị của cha mẹ mà làm nhiều điều tác tệ. Trường hợp của La Hầu La xuất
thân là cháu vua, con Phật, tuy được xuất gia và sống trong một tăng
đoàn bình đẳng, nhưng vì vẫn còn bé bỏng, chú vẫn được người lớn hết mực
cưng chiều. Cho nên, có thể nói rằng, cái tính ưa nghịch phá của chú,
một phần vì bị ảnh hưởng của cái tập khí cao ngạo sẵn có, một phần vì ỷ
lại sự cưng chiều của người lớn. Một
hai lần đầu, người ta còn chưa biết nhưng quá nhiều lần thì không ai là
không biết cái tính thích dối gạt người làm trò vui của chú tiểu La Hầu
La nữa, và tiếng đồn về chú đã đến tai Phật. Là một người cha hiền, và
là một bậc thầy nghiêm nghị, Phật đã rất phiền lòng khi nghe được những
lỗi lầm ấy của La Hầu La. Phật muốn đích thân dạy dỗ chú, nên một hôm
Ngài đã một mình đi đến rừng Ôn Tuyền. 5.-
SỰ RĂN DẠY NGHIÊM KHẮC CỦA PHẬT: Hôm
ấy Phật sang đến rừng Ôn Tuyền với dáng vẻ thật uy nghiêm. Thật là hoàn
toàn bất ngờ đối với La Hầu La! Chú vội vàng chỉnh đốn y áo và nghinh
đón Phật thật cung kính. Đợi Phật an tọa xong, chú đi lấy nước rửa chân
cho Phật. Ngài vẫn không nói năng gì. Mãi đến khi rửa chân xong, Phật
mới chỉ chậu nước dơ mà hỏi chú: - Này
La Hầu La! Nước trong chậu này có thể uống được không? -
Bạch Thế Tôn! Nước đó đã rửa chân, dơ lắm, không thể uống được. - Con
cũng giống như nước trong chậu vậy! Nước vốn trong sạch, nhưng sau khi
rửa chân thì thì trở nên dơ bẩn. Con vốn là một vị vương tôn, đã từ bỏ
những vinh hoa phú quí tạm bợ của thế gian để xuất gia tu hành. Tuy chưa
là một vị tì kheo, nhưng con cũng đã thọ giới sa di. Vậy mà con đã không
siêng năng tu tập, không làm trong sạch thân tâm, nói năng không thận
trọng, suốt ngày chỉ biết dối gạt để trêu ghẹo người. Trong tâm con hiện
giờ đầy dẫy những cáu bẩn của tam độc, có khác gì chậu nước trong sạch
vừa trở thành dơ bẩn kia đâu! Từ
trước đến giơ Phật chưa bao giờ nói điều gì với người đối diện bằng vẻ
mặt nghiêm nghị như vậy. La Hầu La một mực cúi đầu đứng im chứ không dám
ngước lên nhìn Phật. Đến khi Phật bảo bưng chậu nước dơ đem đổ đi, chú
mới dám di động thân hình. Khi chú mang chậu không vào, Phật lại hỏi: - La
Hầu La! Con có thể dùng cái chậu này để đựng cơm ăn được không? -
Bạch Thế Tôn! Trong lòng chậu cáu bẩn còn dính đầy, không thể đựng thức
ăn được. - Con
cũng giống như cái chậu ấy vậy. Tuy đã là người xuất gia, nhưng con
không tu tập giới định tuệ, không gột sạch thân miệng ý, tâm niệm đã
chứa đầy cáu bẩn thì còn chỗ đâu để chứa các thức ăn đạo lí! Phật
lại đưa chân đá nhẹ cho cái chậu lăn đi, rồi hỏi: - La
Hầu La! Con có sợ cái chậu này bị bể không? -
Bạch Thế Tôn, không! Cái chậu rửa chân chỉ là một đồ vật xấu, dù có bị
bể cũng không đáng quan tâm. - Con
không mến tiếc cái chậu, mọi người cũng không mến tiếc con như vậy. Tuy
đã xuất gia, nhưng con không gìn giữ oai nghi, chỉ ham dối trá đùa cợt,
thì kết quả sẽ đưa lại là chẳng ai thương mến bảo bọc con, đường giác
ngộ thật xa vời, cho đến lúc chết con vẫn chìm trong mê ám! La
Hầu La toàn thân chảy mồ hôi hột! Chú thấy hổ thẹn vô cùng. Chú tự hứa
là từ nay về sau sẽ nổ lực sửa đổi tâm tính cho thật tốt. Đức Phật lại
cho chú nghe một ví dụ: -
Ngày xưa, một quốc gia nọ có nuôi một con voi lớn, rất dũng mãnh, thiện
chiến. Mỗi khi nhà vua điều binh lâm trận thì người ta mặc áo giáp cho
nó, gắn xà mâu vào cặp ngà của nó, giắt kiếm vào bên tai, cột dao bén
vào bốn chân, và buộc thêm một cây gậy sắt vào đuôi nó nữa. Tuy được
trang bị nhiều vũ khí như vậy, nhưng mỗi khi giao chiến với quân địch,
nó đều lo giấu cái vòi cho thật kín; vì đó là chỗ nhược của nó, nếu bị
trúng tên thì chết ngay. Muốn bảo vệ mạng sống, bằng mọi cách nó phải
bảo vệ cái vòi. La Hầu La! Giống như con voi kia thận trọng bảo vệ cái
vòi của nó, con cũng phải thận trọng giữ gìn lời nói của con. Nếu con cứ
tiếp tục cái thói dối gạt đùa cợt thì nhất định sẽ giống như con voi kia
để cho cái vòi của nó bị trúng tên. Huệ mạng của con sẽ tiêu mất. Mọi
người sẽ xa lánh, các bậc thiện trí sẽ không ngó ngàng tới con, đến lúc
chết lại phải chịu khổ trong ba đường dữ! Đức
Phật đã tận tình tận lí, vừa thiết tha vừa nghiêm khắc mà răn dạy La Hầu
La. Mỗi lời mỗi tiếng của Ngài đều in sâu vào tâm khảm chú. Chú phát
nguyện từ này sẽ tận lực đổi mới thân tâm mình. Cũng giống như thóc lúa,
dù chúng ta đem bỏ vào máy xay thành gạo, nhưng hạt gạo vẫn còn chút ít
cám bám chung quanh, phải dùng nước vo sạch thì gạo trắng mới hoàn toàn
là gạo trắng. La Hầu La tuy có căn lành và xuất thân từ dòng giống cao
quí, nhưng phải nhờ nước cam lồ của Phật để gột rửa một phen thì mới trở
nên thanh tịnh. Từ đó, chú La Hầu La quả thật đã trở thành một con người
mới. 6.-
SA DI ĐƯỌC PHÉP Ở CHUNG PHÒNG VỚI TÌ KHEO: Khi
đức Phật ngự tại tu viện Cù Sư La (Ghosilarama - Ghositarama), có tôn
giả Xá Lợi Phất cùng ở bên cạnh. La Hầu La mỗi buổi sáng phải quét dọn
sân vườn sạch sẽ rồi mới vào học tập, Vì vườn rất rộng, nên công việc
của chú thường phải mất rất nhiều thì giờ. Một hôm, sau khi quét dọn
xong, chú theo đại chúng nghe Phật giảng pháp. Đến chiều tối chú trở về
phòng thì thấy phòng mình đã bị đại đức tri sự cấp cho một vị khách tăng
trú ngụ, tất cả y bát và tọa cụ của chú đều bị bỏ cả ra ngoài. Nội
qui của tăng đoàn có qui định mỗi người ở một phòng. Bây giờ phòng mình
bị chiếm thì biết làm sao? Phần vì chú còn là sa di, đối với chư vị ti
kheo phải tuyệt đối kính trọng; phần khác, chú lại cần tu tập hạnh nhẫn
nhục mà đức Thế Tôn đã từng dạy bảo; cho nên chú đã không dám vào hỏi
thẳng vị khách tăng kia vì sao lại chiếm phòng của chú, đành cứ đứng lớ
ngớ ở ngoài hiên, chưa biết phải xử trí ra sao. Ngay lúc đó, bỗng nhiên
mây đen vần vũ đầy trời, rồi mưa tuôn xối xả. Không còn chỗ nào để trú
ẩn, chú liền chạy vào nhà xí thật hôi hám, nhưng chú đành phải ngồi
trong đó chứ không còn cách nào khác! Trong một phút một giây, chú
thoáng cảm nhận cái nỗi hiu quạnh của một kẻ không có nhà cửa để trở về!
Nhưng rồi chú đã thản nhiên thiền tọa ngay trong nhà xí ấy. Chú cố vận
dụng lời Phật dạy để giữ tâm ý an tịnh, dù phải trải qua những hoàn cảnh
khó khăn hay phải trực diện với những thực tế phủ phàng như thế nào. Sự
tu tập của chú lúc này quả có tiến bộ rõ rệt. Trong
khi chú thiền tọa trong nhà xí thì ngoài trời mưa càng lúc càng dữ dội.
Những nơi đất thấp đều bị nước ngập. Một hang rắn ở gần nhà xí bị ngập
nước, một con rắn đen ở trong đó chui ra và bò dần vào nhà xí. Đó là
loại rắn độc nhiệt đới, cực kì nguy hiểm. Tính mạng của chú đang bị đe
dọa, nhưng chú hoàn toàn không hay biết gì! Đức
Phật đang tĩnh tọa trong tịnh thất, ngay lúc ấy bỗng nhớ tới La Hầu La.
Bằng thiên nhãn, Ngài quán sát thấy được mối nguy hiểm của chú đã gần
kề, bèn tức khắc đến ngay nhà xí ấy. Ngài đằng hắng một tiếng. Bên trong
có tiếng đằng hắng đáp lại. Phật hỏi: - Ai
ở trong đó? - Dạ,
con là La Hầu La. - Con
hãy ra ngay, ta có chuyện cần nói! La
Hầu La đã nhận ra, đúng là giọng nói của Phật. Thật là ngoài sức tưởng
của chú! Chú liền ra khỏi nhà xí, và như quên hết mọi chuyện, chú bất
giác ôm chầm lấy Phật, nước mắt chảy đầm đìa ... Dù sao chú vẫn con bé
bỏng, cho nên đã không thể kềm chế tình cảm được trong hoàn cảnh này.
Phật hỏi chú vì sao phải ngồi trong nhà xí, chú đem mọi việc vừa qua
trình lên cặn kẽ. Phật cho phép chú được về tịnh thất của Ngài ở tạm
qua đêm. Chú vui mừng không kể xiết, như vừa từ địa ngục bước lên thiên
đường! Những
chú bé còn nhỏ tuổi mà đã sớm từ bỏ gia đình để vào sống với tăng đoàn,
đúng ra là phải hưởng được sự chăm sóc chu đáo của quí thầy; bởi vậy,
Phật đã ra huấn thị, cho phép các chú sa di từ nay được ở chung phòng
với quí thầy trong hai đêm. Những việc nhỏ như vậy đức Phật cũng quan
tâm đến, cho thấy tình thương của Ngài đối với các chú sa di là như thế
nào! Xưa
nay quí thầy khi thu nạp đệ tử thì phải chịu trách nhiệm dạy dỗ đệ tử
của mình. Tôn giả Xá Lợi Phất là thầy của La Hầu La, nhưng vì thường bận
giúp Phật đi ra ngoài hoằng hóa, nên tôn giả đã không thường xuyên chăm
sóc đến chú được. Từ khi sự việc trên xảy ra, tôn giả đã cho chú luôn
luôn theo ở bên cạnh mình. 7.-
ĐỨC NHẪN NHỤC: Sau
lần bị Phật quở trách nặng nề về tội dối gạt, và từ khi được luôn sống
kề cận bên thầy để được thường xuyên dạy dỗ. La Hầu La đã tiến bộ rất
nhanh trong công phu tu tập. Bất cứ buổi pháp thoại nào của Phật, tôn
giả Xá Lợi Phất cũng dẫn chú theo dự thính. Tôn giả thiền tọa chỗ nào
cũng có chú ngồi bên cạnh. Tôn giả đi hoằng pháp nơi đâu cũng đem theo
chú theo để chú học tập những kinh nghiệm độ sinh. Mỗi buổi sáng đi khất
thực, chú đều theo sau thầy ... Bởi vậy, thuở ấy trong tăng đoàn đã có
lời xưng tán rằng, tôn giả Xá Lợi Phất là đức Phật thứ hai, và là bậc ân
sư tốt nhất của La Hầu La! Một
hôm chú theo thầy vào thành Vương Xá khất thực. Giữa đường gặp phải một
anh chàng du côn. Hắn bỏ cát vào bát của tôn giả và dùng gậy đánh lên
đầu chú, gây thương tích, máu nhỏ xuống áo từng giọt. Đã thế hắn còn
chửi: - Mấy
lão sa môn kia chỉ biết đi xin ăn để sinh sống, miệng thì nói toàn những
từ bi, nhẫn nhục, vậy ta đánh lỗ đầu chúng bây, để thử coi chúng bây làm
gì được ta! Lúc
này La Hầu La đã mười bảy, mười tám tuổi. Ở cái tuổi thanh niên ấy mà
gặp những trường hợp như thế này thì không thể chịu được. Sự căm giận
của chú đã hiện rõ trên nét mặt. Tôn giả thấy thế liền dạy rằng: - La
Hầu La! Đã là học trò của Phật thì ta phải học tập đức tính nhẫn nhục,
trong tâm không chứa nọc độc của sân hận, và phải phát triển lòng từ bi,
thương yêu tất cả chúng sinh. Phật thường dạy chúng ta, lúc được ngợi
khen không sinh lòng cao ngạo, khi bị nhục mạ không để tâm oán hận. Do
đó, con hãy giải tỏa lòng căm giận đi và tập nhẫn nhục. Này La Hầu La,
trên thế gian không có sức mạnh nào sánh bằng sức mạnh của đức nhẫn
nhục. Bất kể lực lượng nào của cõi trời và cõi người, đều không thể
thắng nổi người nhẫn nhục. Vâng
lời thầy dạy, chú lặng lẽ tiến đến bờ hồ gần đấy, khoác nước rửa sạch
vết thưong, rồi xé một miếng vải nhỏ đắp lên. Tôn giả trông theo từng cử
chỉ của chú mà trong lòng vừa thương xót vừa hoan hỉ. La
Hầu La đã nhịn nhục được sự việc vừa qua và tiếp tục theo thầy đi khất
thực. Trên đường về, chú đã trình lên tôn giả vài ý nghĩ của mình: - Sự
việc không hay vừa rồi, hiện giờ con không còn để tâm đến nữa. Nhưng con
nghĩ, trên thế gian này sao có lắm kẻ ác, đi tới đâu cũng thấy toàn việc
đáng chán! Tuy nhiên, con không hận đời, mà chỉ cảm thấy buồn khi nghĩ
đến những kẻ thiếu hiểu biết trên cõi đời này sao mà quá nhiều! Đức Thế
Tôn từng dạy chúng ta hãy lấy tình thương rộng lớn mà đối xử với người
đời, nhưng người đời lại cuồng si ngạo mạn khi dễ chúng ta. Quí thầy tu
tập hạnh nhẫn nhục, tích tụ công đức cao dầy, nhưng những kẻ mê muội lại
khinh miệt quí thầy và tôn kính những kẻ hung tàn độc ác. Những điều
giáo huấn của đức Thế Tôn vừa là chân lí, vừa là tình thương, nhưng
người ta lại cho là hôi như xác chết; giống như trời mưa xuống toàn nước
mát ngọt mà những con heo thì không biết lầy dùng, lại cứ thích ăn uống
những đồ hôi hám và nằm ở những chỗ dơ bẩn! Bởi thế, nếu đem những lời
dạy của đức Thế Tôn về chân lí, về tình thương để nói cho những kẻ hung
ác và không có căn lành nghe, thì chỉ là vô ích, vì sẽ chẳng có hiệu quả
gì! Đây
là lần đầu tiên La Hầu La trình bày với tôn giả về tư tưởng cũng như cái
nhìn của chú đối với cuộc đời. Tôn giả lắng nghe và rất hoan hỉ. Về đến
tu viện, tôn giả lại đem những điều trình bày của La Hầu La thưa lên
Phật, và Phật cũng rất vui. Phật khen ngợi chú hôm nay đã có nhiều tiến
triển, có thái độ đúng đắn đối với kẻ ác, có cái thấy đúng đắn đối với
cuộc đời. Rồi nhân đó ngài dạy thêm chú: -
Người không biết nhẫn nhục thì không thể thấy được sự hiệu dụng của Phật
pháp. Oán người giận đời là đi ngược lại với giáo pháp và xa rời đoàn
thể, quẩn quanh trong vòng khổ đau. Có nhẫn nhục mới có bình an và tiêu
trừ được tai họa. Người có trí tuệ thì thấy được mối nhân quả sâu xa, do
đó sẽ khắc phục được tâm sân hận và triệt để thực hành hạnh nhẫn nhục.
Cái nhìn theo tinh thần Phật pháp khác xa với cái nhìn của người thế
tục. Những gì mà người đời cho là quí báu thì Phật pháp coi là tầm
thường; những điều Phật pháp bảo là tốt, là đúng thì người đời không
chịu thực hành theo. Trung và nịnh không dung nhau; kẻ gian tà thì không
chịu được sự có mặt của người chính trực; kẻ ác thì không thích đi cùng
đường với người hiền; người đầy lòng tham dục thì rất ghét nghe nói đến
hạnh vô dục. Trong tình huống hoàn toàn đối nghịch nhau như vậy, người
tu hành chỉ nhẫn nhục là tốt nhất. Nhẫn nhục là tàu bè trên biển cả, có
thể cứu vớt mọi tai nạn. Nhẫn nhục là thuốc hay, có thể cứu sinh mạng
người trong cơn nguy cấp. Nhẫn nhục chính là tăng thượng duyên của người
hành đạo, khiến cho sớm chứng quả giải thoát. Sở dĩ ngày nay ta thành
chánh giác, một mình bước đi trong khắp ba cõi, nhận được sự kính ngưỡng
của cả trời và người, là vì tâm ta đã đủ sức để an ổn. Cho nên con phải
biết, đức nhẫn nhục quí báu đối với người hành đạo biết chừng nào! 8.-
CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ: La
Hầu La bị người khác chiếm phòng nhưng đã tự ý nhượng bộ, giữa đường bị
kẻ côn đồ đánh cho lỗ đầu mà vẫn nhịn nhục, công phu tu dưỡng của chú
đến mức đó thì tiến trình giác ngộ chắc không còn xa lắm. La
Hầu La thông minh, lại rất tinh tấn trong việc tu tập. Năm hai mươi
tuổi, chú được Phật cho phép thọ giới cụ túc. Chú sa di hay trêu chọc
đùa nghịch thuở trước, bây giờ đã trở thành một vị tì kheo trang nghiêm,
đường bệ. Lúc còn bé thì hoạt náo như thế đó, mà hôm nay xem cung cách
của thầy thì như là một vị lão thành cẩn trọng. Những buổi hội họp đông
người, thầy ít khi tham dự; suốt ngày im lìm, chỉ một mực dụng công tu
tập. Nhưng
dù dụng công đến thế nào, thầy vẫn không khai ngộ được. Nguyên nhân lớn
nhất có lẽ là thầy vẫn chưa quên được cái xuất thân cao quí của mình. Dù
sao thì thầy cũng là con yêu của Phật, cháu nội cưng quí của vua Tịnh
Phạn. Ngoại trừ những vị đệ tử thượng thủ của Phật ra, phần lớn các vị
tì kheo trong tăng đoàn đều kính trọng, ái mộ, khen ngợi thầy. Trẻ tuổi
mà thường được tâng bốc thì rất dễ bị động tâm. Lời ngon tiếng ngọt thật
đáng sợ như ác quỉ, đã khiến cho La Hầu La, dù tinh tấn rất nhiều, vẫn
không chứng ngộ. Thậm chí có một đại đức đã tìm cơ hội hỏi đức Phật về
vấn đề chứng ngộ của thầy La Hầu La: -
Bạch Thế Tôn! Đại đức La Hầu La nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu tập,
một lỗi nhỏ cũng không phạm, dốc lòng cầu được khai ngộ, nhưng vì sao
đại đức vẫn không đạt được chí nguyện? Đức
Phật trả lời một cách quả quyết: - Nếu
thật sự giữ gìn giới pháp, giữ tâm thanh tịnh, giữ thân đoan chính, thì
nhất định các cặn bã phiền não phải bị tiêu trừ, và dần dần sẽ chứng đạt
quả vị giải thoát. Phật
không mấy quan tâm đến việc chưa chứng ngộ của đại đức La Hầu La, vì
Ngài tin tưởng rằng, cái ngày trọng đại ấy chắc chắn sẽ đến với đại đức. Có
lần đại đức dường như đã chứng ngộ, nhưng khi trình lên Phật những kiến
giải của mình. Phật bảo là đại đức vẫn chưa thành công. Phật dạy đại đức
hãy thường thuyết giảng về giáo nghĩa “Thân người là do năm uẩn tạm
kết hợp mà có”; và hãy thường xuyên quán chiếu các vấn đề như ngã mạn,
ngã, vô ngã, khổ, vui v.v... Một
buổi sáng kia, đại đức theo Phật vào thành Xá Vệ (Sravasti - Savatthi)
du hóa. Phật dẫn đại đức đi qua nhiều nơi, hết đường lớn tới hẻm nhỏ,
rồi dạy: - La
Hầu La! Thầy hãy quán chiếu để thấy rõ sắc là vô thường; thọ,
tưởng, hành, thức cũng là vô thường; thân thể và tâm ý của mọi người
đều là vô thường; đến cả vạn sự vạn vật đầy dẫy trong thế gian kia, tất
cả cũng đều là vô thường. Đã thấy rõ lẽ vô thường rồi thì tâm ta sẽ
không còn bị vướng mắc vào đâu nữa. Vừa
nghe mấy lời dạy giản dị của đức Phật, tâm trí của đại đức bỗng bừng
sáng ra! Đại đức xin phép Phật một mình trở về tu viện trước, tìm nơi
vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế hoa sen, tập trung tâm ý quán chiếu các
nguyên lí sâu xa Phật vừa dạy. Đại đức cũng vận dụng phép quán từ bi để
trừ khử tâm sân hận; vận dụng phép quán bất tịnh để rửa sạch tâm tham
dục; vận dụng phép quán trí tuệ để chuyển hóa tâm si mê; vận dụng phép
quán đếm hơi thở để ngưng tụ tâm loạn động; cứ thế, đại đức đi sâu vào
đại định ... Cơ duyên đã đến lúc chín mùi, đại đức hoát nhiên đại ngộ! Php
vừa trỏ về đến tu viện, liền đi ngay đến chỗ đại đức đang ngồi thiền,
khai thị thêm: Đại
đức từ từ đứng dậy, đảnh lễ Phật, rồi thưa: -
Kính lạy Thế Tôn! Tất cả mọi phiền não nơi con bây giờ đã dứt sạch; bây
giờ con vừa tỏ ngộ! Đức
Phật vô cùng hoan hỉ, liền khen ngợi: -
Trong tất cả đệ tử của Như Lai, thầy là người tu mật hạnh bậc nhất! Sở dĩ
gọi là “mật hạnh” là vì đối với ba ngàn oai nghi và tám vạn tế hạnh của
một vị tì kheo, tôn giả La Hầu La đều nắm vững và hành trì nghiêm mật. Nhớ
lại thuở ban đầu cậu bé La Hầu La chạy theo Phật để xin tài sản, bây giờ
đã chứng ngộ, chẳng phải là Phật đã ban cho tôn giả thứ pháp tài vô giá
đó sao?! 9.-
CHẾ ĐỘ HIẾN CÚNG TỰ VIỆN: Khi
đã chúung ngộ rồi, địa vị của tôn giả La Hầu La trong tăng đoàn càng
được đề cao. Đối với tín đồ tại gia, tôn giả cũng được đặc biệt kính mộ.
Ai cũng biết, trong chúng tì kheo, tôn giả là người được cúng dường
nhiều nhất. Xưa
nay, việc cúng dường vật chất càng dồi dào thì việc tu tập càng dễ bị
chướng ngại. Nhưng đối với tôn giả thì không hề gì, vì tôn giả đã không
còn bị lụy về vật chất nữa. Bất cứ vật gì, nếu có hơn một cái thì tôn
giả liền đem chia cho vị khác. Một
ngày nọ, lúc Phật bố giáo tại một thôn trang gần thành Ca Tì La, có một
vị trưởng giả ngưỡng mộ và phát tâm qui y theo Phật. Có lẽ vì có duyên
với tôn giả La Hầu La, hoặc là vì nặng tình địa phương, ông đã phát tâm
đặc biệt hộ pháp cho tôn giả. Bất cứ tôn giả có nhu cầu gì, ông đều chu
cấp đầy đủ. Về sau ông đã xây cất một ngôi chùa để hiến cúng cho tôn giả
cư trú. Vào thời buổi đó, số lượng tăng chúng du phương hành hóa đã gia
tăng rất đông, nên ngôi chùa của tôn giả lúc nào cũng có khách tăng ghé
lại nghỉ chân. Vị trưởng giả thấy thế thì nghĩ rằng, ngôi chùa là của
ông hiến cúng, cho nên ông phải đích thân tham dự vào việc quản trị
chùa. Tôn giả bèn đem việc ấy thỉnh ý Phật. Phật dạy: -
Thầy La Hầu La! Trong giáo pháp của Như Lai, hàng cư sĩ tại gia không
được quản lí bất cứ việc gì thuộc phạm vi của chúng tăng. Dù chư thiện
tín có phát tâm hiến cúng tự viện thì họ cũng không thể nại lí do đó để
can dự vào việc quản trị tự viện. Thầy nên giảng giải cho vị trưởng giả
ấy biết, đã hiến cúng vật gì cho ai rồi thì không nên nghĩ rằng vật đó
vẫn còn là sở hữu của mình. Chùa là do chư tăng trú trì; còn chư thiện
tín thì giữ vai trò hộ pháp. Tôn
giả y lời Phật mà giảng giải lại cho vị trưởng giả, nhưng vì chưa thấm
nhuần Phật pháp lắm, ông vẫn một mực cố chấp, không buông bỏ được ý niệm
mình vẫn là sở hữu chủ của ngôi chùa. Vì vậy, cảm tình của ông đối với
tôn giả đã bị sứt mẻ. Trước đây ông đã kính mộ tôn giả thật nhiều, nhưng
bây giờ ông lại thấy tôn giả như cái đinh trước mắt. Rồi một hôm, tôn
giả có duyên sự phải sang thành Xá Vệ. Vị trưởng giả lên chùa thấy vắng
tôn giả, bèn thừa cơ hội, đem ngôi chùa ấy cúng dường cho một vị tì kheo
khác! Khi tôn giả trở về, thấy sự việc đã như vậy, liền trở lại ngay Xá
Vệ để trình cho Phật biết sự tình. Phật nghĩ, người đã không thấm nhuần
Phật pháp thì thật khó mà thực hành Phật pháp một cách đúng đắn. Nhân sự
việc này, Phật dạy: - Này
quí thầy! Từ nay, nếu có vị thí chủ nào đã hiến cúng vật gì cho thầy này,
rồi lấy lại vật đó đem cúng dường cho thầy kia, thì thầy kia không nên
nhận. Không
phải là Phật đã thiên vị tôn giả La Hầu La mà ban hành pháp chế, sự thực
là vì để tránh những rắc rối về sau cho giáo đoàn. Nhưng rất tiếc, phần
nhiều những tranh chấp tài sản trong nội bộ Phật Giáo ngày nay đều bắt
nguồn từ những nguyên nhân tương tự. 10.-
NHẬP NIẾT BÀN: - La
Hầu La không phải là một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong tăng đoàn
thuở đó như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nan. Tôn giả chỉ
chuyên tu mật hạnh, không bao giờ tranh luận, suốt ngày kín tiếng lặng
hơi, im lìm tu tập. Tôn giả bẩm tính nhu thuận, kiên cường, nhưng trong
nếp sống của một vị tì kheo, tôn giả đã không tỏ ra có gì là sôi nổi cả.
Cho nên chúng ta không lấy làm lạ rằng, trong kinh điển không hề thấy
ghi lại bất cứ một hoạt động hoằng pháp hay một cuộc tranh luận với
ngoại đạo nào của tôn giả. Tôn giả chỉ là người tinh nghiêm giữ gìn oai
nghi tế hạnh; bởi vậy, đúng như Phật đã khen ngợi, tôn giả là vị đứng
đầu tăng đoàn về tu mật hạnh. Tôn
giả nhập diệt vào lúc nào? Trước hết, ngay như về ngày sinh của tôn giả
cũng đã có hai thuyết, một cho rằng tôn giả ra đời năm Phật mười chín
tuổi; một cho rằng tôn giả ra đời năm Phật hai mươi lăm tuổi. Cho nên về
niên đại nhập diệt, hiện cũng có hai thuyết, một bản rằng tôn giả đã
nhập diệt trước Phật vài năm; một bảo rằng trong giờ phút Phật nhập niết
bàn, tôn giả vẫn có mặt bên cạnh Phật. Ấn Độ
là một quốc gia không chú trọng đến việc ghi chép lại những sự thật lịch
sử; còn Trung Hoa thì lại không ít những nhà dịch thuật giàu tưởng
tượng, hay khoa trương, phóng đại. Những chi tiết không xác thật trong
sự tích của Phật và các vị đệ tử lớn được ghi chép trong các kinh điển,
cần phải được nghiên cứu lại. Dựa
vào các chứng cứ đáng tin cậy trong kinh điển thì ni sư Da Du Đà La (thân
mẫu của tôn giả La Hầu La) nhập diệt năm bảy mươi tám tuổi; còn tôn giả
thì nhập diệt trước đó nữa. Kinh chép, một buổi tối nọ, ni sư Da Du Đà
La đã quán niệm như sau: “... Các ni sư Kiều Đàm Di, Liên Hoa Sắc (Utpalavarna
- Uppadavanna) đều đã nhập diệt; La Hầu La cũng đã nhập diệt! Ta sinh
cùng năm với đức Thế Tôn. Năm nay ta đã bảy mươi tám tuổi rồi. Nghe nói
năm tám mươi tuổi đức Thế Tôn sẽ nhập niết bàn. Ngày trước vốn có nguyện
cùng Người đồng sinh đồng tử, nhưng ngày nay thì giữa ta và Người chỉ có
tình đạo chứ đâu còn tình riêng. Cho nên, nếu đợi cùng nhập diệt với
Người thì thật là bất kính. Vậy ta nên nhập diệt trước Người thì phải
hơn!” Nghĩ vậy, ni sư liền xin phép, và được Phật chấp thuận. Đêm đó,
ni sư nhập định rồi nhập diệt ngay trong phòng riêng. Căn
cứ vào sự kiện trên, chúng ta biết tôn giả La Hầu La đã nhập diệt trước
cả cha mẹ, vào khoảng trên dưới năm mươi, nhưng không quá sáu mươi tuổi. Dĩ
nhiên, việc nhập diệt sớm hay muộn của tôn giả không phải là việc quan
trọng, mà chính sự nghiệp giác ngộ là mục đích tối hậu của người tu hành.
Tôn giả đã đạt được nó thì sự nhập diệt chỉ là sự xả bỏ cái sắc thân tạm
bợ để an trú vĩnh viễn trong pháp tánh thường hằng mà thôi.
Vi tính: Cao
Thân
(Oai nghi tế hạnh bậc nhất tăng đoàn)
Năm thứ ba sau ngày thành đạo, Phật từ nước Ma Kiệt Đà (Magadha) ở
phương Nam trở về thăm cố hương là thành Ca Tì La ở phương Bắc. Trên từ
vua Tịnh Phạn xuống đến mọi người trong dòng họ Thích Ca đều ra ngoài
cổng hoàng thành nghênh đón Phật; ngoại trừ hai người: Da Du Dà La và La
Hầu La. Công chúa nhủ thầm: “Người đi xuất gia, mình vì Người mà cam
chịu nỗi buồn đau vắng vẻ; Người ở ngoài mặc y phục bạc màu, trong cung
mình cũng ăn mặc giống Người; nghe nói Người tu khổ hạnh, mổi ngày chỉ
ăn một bữa, mình cũng vội vàng học tập làm theo hạnh ấy. Mình đối với
Người chân thành như vậy, có gì sơ xuất đâu! Nếu Người còn nghĩ đến mình
thì tự nhiên Người sẽ vào đây thăm mình ...”
Trong thời gian Phật và tăng chúng ở lại hoàng cung, nơi đây tạm thời
trở thành một tăng viện. Không khí hoàn toàn nghiêm tịnh, không có cung
nga mĩ nữ, không có đàn ca múa hát, không có yến tiệc rượu chè, nhưng
Phật đã không ở lại đây lâu, vì sợ rằng, nếu ở lại đây lâu, không khí
hoàng cung sẽ ảnh hưởng đến nếp sống thiểu dục của tăng đoàn, rất dễ làm
cho tăng chúng mất chánh niệm. Cho nên chỉ vài ngày sau, Phật đưa tăng
chúng ra trú tại công viên Ni Câu Đà (Nyagrodha - Nigroda), ở ngoại ô
thành Ca Tì La. Tuy trú tại vường Ni Câu Đà nhưng Phật vẫn thường vào
hoàng thành để khất thực và bố giáo. Cậu bé La Hầu La dần dà cũng quen
đi, không còn cái dáng vẻ sợ sệt nữa; có lúc đã nói với Phật một cách
ngây thơ thật dễ thương:
- Hãy vận dụng tâm từ bi rộng lớn để đối xử với mọi người và mọi loài.
Dùng tâm lượng bao la để có thể dung chứa tất cả chúng sinh thì tiêu trừ
được mọi phiền não; dùng phép đếm hơi thở để quán chiếu tâm ý thì đạt
được đạo quả giải thoát.
Trình bày: Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com